Hồi 4: Chung sống với Thúc Sinh, Kiều bị Hoạn Thư hãm hại
Kiều cúi đầu chịu thua định mệnh và trở thành ca kỹ nổi danh về cả tài lẫn sắc. "Dập dìu lá gió cành chim; sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh; khi tỉnh rượu, lúc tàn canh; giật mình, mình lại thương mình xót xa; khi xưa phong gấm rủ là; giờ sao tan tác như hoa giữa đường; mặt sao dầy gió dạn sương; thân sao bướm chán ong chường bấy thân; mặc người mưa sở mây tần; những mình nào biết có xuân là gì". Tại thanh lâu, nàng gặp một khách làng chơi tên Thúc Kỳ Tâm, thường được gọi là Thúc Sinh, mê say nàng và muốn lấy nàng làm vợ lẽ, "sớm đào tối mận lân la; trước còn trăng gió sau ra đá vàng". Thúc Sinh lập kế đem dấu Kiều một nơi rồi đưa tiền cho Tú bà để chuộc nàng ra khỏi thanh lâu.
Thúc Sinh vốn người huyện Vô Tích đến Lâm Truy để buôn bán cùng với người cha là Thúc ông. Khi được biết Thúc Sinh đưa Kiều về chung sống, Thúc ông nổi giận vì thứ nhất, Thúc Sinh có vợ hiện đang ở Vô Tích và thứ hai, ông cho rằng Kiều đã dùng nhan sắc để mê hoặc con mình. Thúc ông buộc Sinh phải trả Kiều về lầu xanh nhưng chàng từ chối. Ông nổi giận ra trước phủ đường (dinh quan phủ) tố cáo Kiều quyến rũ Thúc Sinh. Quan phủ đưa trát đòi Sinh và Kiều đến rồi ra lệnh đánh đòn Kiều vì nàng cương quyết không từ bỏ Thúc Sinh.
Trong lúc Kiều đang bị trừng phạt, Thúc Sinh kể cho quan biết Kiều là người hiểu biết phải trái và có theo đòi bút nghiên. Quan truyền cho Kiều làm bài thơ vịnh cái gông nàng đang đeo ở cổ. Sau khi xem thơ, quan nể phục tài nàng và khuyên Thúc ông nên chấp thuận nàng là con dâu. Cuối cùng "thương vì hạnh, trọng vì tài; Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba" và bằng lòng cho Kiều chung sống với Thúc Sinh.
Khoảng nửa năm sau, Kiều khuyên Thúc Sinh về Vô Tích thăm vợ cả và thú thật mọi chuyện. Người vợ cả của Thúc Sinh tên là Hoạn Thư, con gái một vị quan thượng thư trong triều. Hoạn Thư là người tuy cư xử chu đáo với kẻ khác nhưng rất mưu mô, hiểm độc khi hạnh phúc gia đình bị đe dọa: "ở ăn thì nết cũng hay; phải điều ràng buộc thì tay cũng già". Hoạn Thư biết được chuyện chồng lấy vợ lẽ nhưng không hề căn vặn Thúc Sinh khi chàng về thăm nhà. Không những thế, nàng còn tỏ ra tin tưởng ở tấm lòng chung thủy của Sinh đối với nàng. Vì lý do này, Sinh mang nặng mặc cảm dối gạt vợ, và không dám thổ lộ cho Hoạn Thư biết chuyện của chàng với Kiều như lời Kiều căn dặn.
Ngay sau khi Thúc Sinh lên ngựa từ giã Hoạn Thư để về với Kiều, Hoạn Thư sang thăm mẹ nàng và kể chuyện bội bạc của Sinh. Hai mẹ con sai hai gã bộ hạ là Khuyển và Ưng dẫn theo một lũ lâu la dùng thuyền vượt biển đến Lâm Truy trước Thúc Sinh để phóng hỏa đốt nhà Kiều, rồi bắt nàng về Vô Tích. Sau khi thi hành thủ đoạn, đám tay sai này mang một xác người bỏ vào gian nhà đang bốc cháy. Khi Thúc Sinh về đến nơi, trông thấy nắm xương cháy tàn nên nghĩ là Kiều đã chết: "chắc rằng mai trúc lại vầy; ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau".
Khuyển, Ưng mang Kiều về trình diện mẹ của Hoạn Thư. Bà này bảo Kiều rằng đã bỏ tiền mua nàng và sai bộ hạ đánh nàng một trận. Sau đó, bà bắt Kiều phải phục dịch trong nhà như một nô bộc. Một ngày kia, Hoạn Thư sang thăm mẹ và được mẹ nàng cho Kiều đi theo để hầu hạ.
Một năm sau, Thúc Sinh lại trở về Vô Tích thăm vợ. Trong buổi tiệc đoàn viên với chồng, Hoạn Thư gọi Kiều ra hầu rượu Thúc Sinh. Lúc bấy giờ cả Kiều và Sinh mới biết mình là nạn nhân của một mưu kế thâm độc: "Phải rằng nắng quáng đèn lòa; rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh". Sợ vợ, Thúc Sinh đành gạt lệ không dám nhận Kiều. Hoạn Thư còn nhẫn tâm sai Kiều đánh đàn trong buổi tiệc: "Nàng đà choáng váng tê mê; vâng lời ra trước bình the vặn đàn; bốn dây như khóc như than; khiến người trong cuộc cũng tan nát lòng; cùng trong một tiếng tơ đồng; người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm".
Qua một thời gian giữ bổn phận tôi đòi, Kiều xin phép và được Hoạn Thư chấp thuận cho ra trông nom một ngôi chùa nhỏ trong vườn nhà Hoạn Thư và giữ nhiệm vụ chép kinh tại đây. Một hôm, nhân cơ hội Hoạn Thư đi vắng, Thúc Sinh lẻn ra thăm Kiều và hai người khóc lóc, thở than với nhau. Bất chợt, Hoạn Thư ghé chùa, cười nói truyện trò cùng Thúc Sinh và khen ngợi nét chữ của Kiều.
Sau khi Thúc Sinh và Hoạn Thư rời chùa, Kiều được một thị tì cho biết là Hoạn Thư đã đến từ lâu và chứng kiến cảnh Thúc Sinh với Kiều cầm tay nhau than thở chán chê rồi mới bước lên lầu. Hoảng sợ trước thái độ điềm tĩnh như không có chuyện gì của Hoạn Thư, Kiều lấy trộm chuông vàng khánh bạc của chùa để làm vật hộ thân rồi trèo tường đi trốn.
Trong giai đoạn này, người Kiều mong sẽ cứu nàng ra khỏi kiếp đoạn trường là Thúc Sinh. Kẻ hãm hại và làm nhục nàng là Hoạn Thư.
Hồi 5: Kiều bị lừa bán vào lầu xanh thêm lần nữa
Trên con đường đi trốn Hoạn Thư, Kiều gặp sư bà Giác Duyên, người trụ trì một ngôi chùa nhỏ mang tên "Chiêu Ẩn Am". Kiều nói dối với Giác Duyên nàng là một ni sư ở Bắc Kinh nên được bà cho phép nương náu. Một hôm, có người thí chủ cho Giác Duyên hay chuông vàng khánh bạc Kiều mang theo giống hệt như chuông khánh của Hoạn Thư. Khi được hỏi, Kiều khai thật với Giác Duyên mọi chuyện. Giác Duyên lo ngại cho Kiều nên gửi nàng sang ở với một bà họ Bạc, người thường hay lui đến cúng bái tại chùa.
Trông thấy nhan sắc của Kiều, Bạc bà nổi lòng tham nên âm mưu bán Kiều cho một thanh lâu. Bạc bà dọa dẫm Kiều và ép nàng lấy một người cháu bà ở châu Thai tên là Bạc Hạnh. Bạc bà gọi Bạc Hạnh đến Vô Tích để kết hôn với Kiều rồi đưa nàng xuống thuyền về châu Thai. Đến nơi, Bạc Sinh vào thanh lâu thương lượng bán Kiều. Định mệnh đã xô đẩy Kiều vào chốn lầu xanh thêm lần nữa: "chém cha cái số hoa đào; gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi!".
Trong thời gian này, người giúp đỡ Kiều là sư bà Giác Duyên. Những kẻ làm hại nàng là Bạc bà và Bạc Hạnh.
Hồi 6: Kiều được Từ Hải bảo bọc nhưng rồi Từ bị giết chết
Tại thanh lâu ở châu Thai, Kiều gặp Từ Hải, một hào kiệt đến từ vùng biên thùy. "Lần thâu gió mát trăng thanh; bỗng đâu có khách biên đình sang chơi; râu hùm hàm én mày ngài; vai năm tấc rộng thân mười thước cao; đội trời đạp đất ở đời; họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông; giang hồ quen thói vẫy vùng; gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo; qua chơi nghe tiếng nàng Kiều; tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng; thiếp danh đưa đến lầu hồng; đôi bên cùng liếc, đôi lòng cùng ưa". Cả hai quyến luyến nhau, xem nhau là tri kỷ và Từ Hải bỏ tiền chuộc Kiều ra khỏi thanh lâu.
Sống mặn nồng với nhau được nửa năm, Từ Hải giã biệt Kiều, một mình một ngựa ra đi để mưu đồ đại sự. Từ hứa là sẽ đón Kiều về với mình khi công thành danh toại.
Đúng thời gian ước hẹn với Kiều, khoảng một năm sau, Từ cho tướng sĩ về đón nàng theo nghi lễ rước dâu của một bậc vương hầu. Lúc bấy giờ uy danh của Từ lẫy lừng cả một phương trời. Có lẽ thời gian sống với Từ Hải là quãng đời hạnh phúc nhất trên bước đường lưu lạc của Kiều.
Một hôm, nghe Kiều kể lại sự gian khổ của nàng trong những ngày hàn vi, Từ Hải nổi cơn thịnh nộ. Từ điểm binh, tuyển tướng truyền đến Vô Tích và Lâm Truy mời những người đã giúp nàng và bắt những kẻ từng làm hại nàng về bản doanh của Từ để nàng báo ơn, trả oán. Khi quân sĩ đưa những người này về, Kiều ngồi trên trướng giữa trung quân để xét xử họ. Nàng hậu thuởng Thúc Sinh, sư bà Giác Duyên và một bà quản gia của mẹ Hoạn Thư, là những ân nhân của nàng thuở trước. Sau đó, nàng ra lệnh xử tử Mã Giám Sinh, Tú bà, Sở Khanh, Ưng, Khuyển, Bạc bà và Bạc Hạnh, những người đã làm hại nàng. Riêng Hoạn Thư, tuy được liệt là "chính danh thủ phạm" nhưng được Kiều tha bởi luận cứ sắc bén của nàng. Hoạn Thư thưa rằng nàng gây nên tội chỉ bởi thói ghen tuông rất thường tình của người đàn bà, còn trong thâm tâm nàng luôn luôn yêu kính Kiều.
Trước lập luận xác đáng của Hoạn Thư, Kiều đã phải: "khen cho: thật đã nên rằng; khôn ngoan đến mực nói năng phải lời; tha ra thì cũng may đời; làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen; đã lòng tri quá thì nên; truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay".
Uy quyền của Từ Hải ngày càng lừng lẫy. Từ thiết lập triều đình riêng đặt hai hàng quan văn quan võ. Từ đem quân chiếm năm huyện ở miền Nam. Từ chia đôi thiên hạ với hoàng đế nhà Minh. Từ nghêng ngang một cõi biên thùy miền Triết Giang và Phúc Kiến.
Năm năm sau, viên quan tổng đốc của nhà Minh là Hồ Tôn Hiến vâng lệnh vua mang đại quân đến dẹp Từ Hải. Biết Từ là đấng anh hùng, khó thể dùng binh mà thắng, Hồ cho một vị quan mang ngọc, vàng, gấm vóc đến tặng Từ và thuyết Từ hàng phục triều đình. Hồ cũng dành riêng một lễ vật cho Kiều để nhờ nàng nói giúp. Phần thì lễ vật trọng, phần vì không muốn thấy sinh linh bị thiệt hại vì chinh chiến, và phần vì muốn chồng trở thành công thần của triều đình để nàng có thể về cố hương làm rạng danh cha mẹ, Kiều khuyên Từ Hải đầu hàng.
Khi Từ Hải mặc nhung phục đại lễ ra trước doanh trại đầu hàng, Hồ Tôn Hiến cho phục binh ùa ra giết Từ. Tối hôm đó, Hồ mở tiệc ăn mừng chiến thắng và bắt Kiều ngồi hầu rượu. Khi đã quá chén, Hồ buộc Kiều đánh đàn. "Một cung gió thảm mưa sầu; bốn giây nhỏ máu năm đầu ngón tay; ve ngâm vượn hót nào tầy; lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu". Và rồi "nghe càng đắm, ngắm càng say; lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình". Vừa say rượu lại vừa say tình, ngay sau đó, Hồ ép Kiều ăn nằm với mình.
Sáng hôm sau tỉnh giấc, Hồ Tôn Hiến nghĩ mình là nhân vật quan trọng trong triều, không thể vương víu với Kiều nên đã buộc nàng phải lấy một người thổ quan. Kiều bị đưa xuống thuyền để làm lễ tơ hồng. Ngồi trên thuyền, quá đau khổ vì cuộc đời bạc mệnh và ân hận vì làm Từ Hải chết oan, Kiều quyết định chọn cái chết để thoát khỏi kiếp đoạn trường: "Đạm Tiên nàng nhé có hay! hẹn ta thì ở dưới này rước ta". Và rồi "trông vời con nước mênh mông; đem mình gieo xuống giữa giòng trưòng giang". Kiều nhẩy xuống sông Tiền Đường tự tử.
Trong hồi này, người Kiều nương tựa là Từ Hải. Kẻ làm hại nàng là Hồ Tôn Hiến.
st