[huyền huyễn] Hoa tư dấn

K

kakashi_hatake

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Truyện này hay lắm, mọi người vô đọc nha
:) :) :)
Giới thiệu nè
Đây là một câu chuyện xảy ra vào thời loạn thế.

Những ngày thành tan nước mất, công chúa Vệ Quốc là Diệp Trăn đã hi sinh thân mình vì nước, và nhờ viên giao châu nên chết đi sống lại.

Khi nàng gảy lên điệu Hoa Tư, có thể khiến người sống người chết đều trắng xương và bước vào mộng cảnh và hồi ức.

Trong những khúc nhạc được tạo thành từ ma thuật chính là xót xa và đau khổ của người đời.

Mà nàng và thế tử Trần quốc – hết lần này tới lần khác gặp nhau trong mộng cảnh, thân phận nặng nề, duyên cũng nặng nề.

Điệu Hoa Tư thanh bình, liệu có thể khiến mỗi người nhớ nhung về những ngày đã qua, không còn đau thương nữa?
 
K

kakashi_hatake

Hay lắm p nhỉ?
Khi nào rảnh t up lên mọi người cùng đọc
P đọc phiên ngoại 2 chưa ?
Kêt cũng hay thật đó
 
K

kakashi_hatake

Hì hì, tớ làm sao biết bạn tên Phương được chứ =))
p ở đây là bạn đó viết tắt ấy mà ^^
 
H

hellangel98

=))=))=))=))
phương ơi là phương!tớ die vì cười mất
mà chị kakashi dc đó.dùng cả ''từ đồng âm để chơi chữ'' mới hay chứ
mà chị post truyện tiếp đi
 
K

kakashi_hatake

Thôi post truyện đây
Ai rảnh ghé đọc nha ^^
(Chết cái pic này như spam ý toàn buôn chuyện)

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Công chúa tuẫn tiết
Các vị tiên sinh kể chuyện trong trà lầu, phàm những người luống tuổi chắc hẳn đều từng nghe nói một câu chuyện xảy ra ở quốc đô nước Vệ sáu mươi bảy năm trước.
Câu chuyện tình tiết thế nào ngày nay không ai nói rõ được, tuy nhiên hết thảy bình luận cho dù nội dung khác nhau, nhưng phần luận về nhân quả sự việc lại hoàn toàn thống nhất.
Đều nói, Vệ vương những năm trước đắc tội với Trần vương, bốn năm sau Trần quốc tìm cơ hội thôn tính Vệ quốc. Trần thế tử Tô Dự đích thân xuất chinh, đánh thẳng vào Vệ vương đô. Vệ vương yếu hèn lựa chọn quy hàng, công chúa út Diệp Trăn quyết không chịu nhục, trang điểm đẹp đẽ, đứng trên tường thành đanh thép chỉ trích, trên chỉ trích quốc chủ, dưới chỉ trích ba quân, sau đó hướng về vương cung bái biệt ba vái, rồi mình ngọc nhảy từ trên tường thành cao trăm trượng xuống, tuẫn tiết cùng Vệ quốc.
Các sử quan gọi cố sự này là truyền kỳ, về sau nhiều bậc đế vương hậu thế đã phê ngự bút bên lề sách sử, rằng Vệ công chúa Diệp Trăn bộc lộ chút hào khí cuối cùng của Vệ quốc, xứng là liệt nữ.
Sáu mươi bảy năm Cửu Châu phân phân hợp hợp, hợp hợp phân phân, truyện xưa lùi vào dĩ vãng, bá tính hồi tưởng lại giống như hồi tưởng giai thoại truyền kỳ. Còn nghĩa cử tuẫn tiết của Diệp Trăn công chúa mặc dù gây xúc động mãnh liệt, sau khi lược bỏ sắc màu thần thánh và truyền kỳ, lại không khiến thiên hạ nhớ lâu bằng thiên diễm tình ngang trái của nàng với Trần thế tử Tô Dự, mặc dù không ai biết thực hư thế nào.
Sử sách Cửu Châu cũng viết về mối tình Tô – Diệp, nhưng không nhiều, chỉ ghi lại một chuyện nhỏ, kể rằng khi Trần thế tử Tô Dự tiếp nhận quốc ấn quy hàng của Vệ vương ở triều đường Vệ quốc, đã hỏi lão Vệ vương: “Nghe đồn Văn Xương công chúa của quý quốc là đệ nhất tài nữ trong thiên hạ, cầm kỳ thi họa rất mực tinh thông, nhất là tài vẽ tranh sơn thủy, Vệ công từng so sánh quốc ấn này với công chúa, không biết hôm nay bản cung có được vinh hạnh thỉnh cầu Văn Xương công chúa họa cho một bức chân dung?”. Văn Xương công chúa chính là phong hiệu của Diệp Trăn đã tuẫn tiết, với hàm ý văn đức phồn thịnh.
Sử sách chỉ sơ lược vài nét như vậy, những người biết chuyện năm xưa đã sớm về với cát bụi trong thế tình điên đảo sáu mươi bảy năm. Thiên tình sử truyền kỳ bi tráng đó cũng bị phủ bụi thời gian. Dân gian tuy truyền miệng, cũng chẳng qua như đuổi theo cái bóng, không biết thực hư thế nào. Muốn lần lại câu chuyện này, phải quay về mùa xuân sáu mươi bảy năm trước.
 
K

kakashi_hatake

2. Mất nước
Mùa xuân sáu mươi bảy năm trước, khắp dải đất phía bắc Trường Giang Cửu Châu, suốt nửa năm ròng ông trời không ban cho nửa giọt mưa. Vệ quốc, một trong những chư hầu của đất Cửu Châu mặc dù ở ngay bên bờ Đoan Hà, nước cũng chỉ đủ cho muôn dân khỏi chết khát, toàn bộ hoa màu nuôi sống muôn dân đều chết khô. Không quá hai mùa, nạn đói hoành hành trên toàn lãnh thổ đại Vệ, quang cảnh vô cùng thê thảm.
Vệ vương nửa đời vô dụng, kinh động bởi trận thiên tai ác hiểm, lần đầu tiên từ trong đống son phấn hiểu ra, nhanh chóng hạ lệnh quan phủ các nơi mở kho lương thực, cứu tế muôn dân. Quân vương mặc dù nhất thời anh minh, nhưng tệ nạn hủ bại thâm căn cố đế từ lâu nhất thời không có cách nào dẹp được, từng đạo chiếu chỉ đã ban, kho lương đã mở, lương thực đã chia, vạn thạch lương thực kìn kìn chuyển ra, nhưng đến tay dân chỉ còn miếng cháo loãng. Muôn dân giương mắt nhìn quan phủ bố thí cho miếng cháo, không ngờ miếng cháo quả nhiên chỉ được một miếng, không dư một hạt để làm giống cho vụ sau.
Mắt thấy đã bị tuyệt đường sống, trăm họ đành phải vùng lên. Trăm họ nổi loạn bất chấp đạo vua tôi, tất phải có cớ, họ nói trời đã lâu không ban mưa là do Vệ vương vô đức, khiến ông trời phẫn nộ, để dẹp nộ khí của đấng cao xanh tất phải đuổi Vệ vương vô đức ra khỏi ngôi báu.
Lời đồn lan tới thâm cung vương đô nhanh như gió, Vệ vương choáng váng bàng hoàng bởi lời kết tội của muôn dân, tức tốc thiết triều lệnh cho quần thần bàn kế dẹp phản. Quần thần quen đạo làm quan, nói vài câu giả dối, ca tụng thánh chúa anh minh, coi như xong bổn phận.
Chỉ có một cát sĩ (kẻ sĩ tốt) mới tiếp quản chức vụ của thân phụ, chưa có kinh nghiệm làm quan, thật thà tâu lên: “Thiên hạ đều nói Huệ Nhất tiên sinh ở Thanh Ngôn tông trên núi Nhạn Hồi là bậc đại trí, nếu mời được tiên sinh xuống núi, có lẽ sẽ có kế hay, không cần động binh”. Thanh Ngôn tông là quốc tông của Vệ quốc, cầu phúc cho Vệ quốc, phù hộ cho quốc mệnh, tông chủ thế hệ này là Huệ Nhất tiên sinh.
Có lẽ số phận đã định khí số của Vệ quốc đã tận, chính trong đêm Vệ vương phái sứ giả đến quốc tông mời Huệ Nhất, lão tông chủ tuổi hạc bát tuần đã trút hơi thở cuối cùng. Trước khi tạ thế, Huệ Nhất tiên sinh đã lưu lại một cẩm nang, trong cẩm nang là một tờ giấy trắng, viết tám chữ theo lối bạch thoại: “Hội minh phương dĩ, đại họa đông lai” (Cần liên minh với các chư hầu, đại họa đến từ phía đông). Vệ vương cầm cẩm nang nghiền ngẫm suốt một đêm trong thư phòng. Cung nhân ngủ gật bên ngoài loáng thoáng nghe thấy tiếng nức nở từ thư phòng vẳng ra.
Huệ Nhất phán đoán như thần, vừa qua mồng chín tháng chín, Trần quốc, láng giềng phía đông dấy binh công phạt Vệ quốc. Lý do là năm trước vào dịp chư hầu hội minh, Vệ hầu vương lúc đi săn đã cố ý bắn rách một nửa góc áo Trần hầu vương, Vệ hầu ngang nhiên coi thường quân uy Trần hầu, hạ nhục Trần quốc. Mười vạn đại quân Trần thế như gió bão, nhất lộ thẳng tiến, hầu như không gặp trở ngại, chưa đầy hai tháng đại quân đã dàn hàng bên ngoài vương thành Vệ quốc.
Toàn thiên hạ nhìn nhận cuộc chiến này như một trò cười, mấy mưu sĩ của Trần hầu thậm chí còn đánh cuộc sau lưng, xem lão Vệ hầu vô dụng có thể trụ được mấy ngày. Trần thế tử Tô Dự đúng lúc đi ngang qua, phe phảy chiếc quạt bạch ngọc trong tay: “Muộn nhất là giờ ngọ ngày mai”.
Chính ngọ hôm sau, mặt trời lười biếng trốn sau mây đen, hé ra một vòng sáng trắng, vương đô Vệ quốc giống như chiếc hộp đựng dế chọi treo lơ lửng trên không.
Giờ ngọ ba khắc, lá cờ hàng trắng quả nhiên kéo lên ở phía đầu thành, từ khi được thiên tử phong hầu, phúc trạch của Vệ quốc kéo dài tám mươi sáu năm, cuối cùng chấm dứt trong năm đó. Lão quốc vương thân hành rước Tô Dự vào cung, tông thất, quần thần lớn bé nhất loạt quỳ phục trước triều đường, họ đều là những thần tử thông tỏ sách thánh hiền, rất hiểu thời cuộc, chim khôn luôn biết tìm cây tốt nương đậu.
Sau giờ ngọ, mặt trời trốn hẳn sau tầng mây, hoàn toàn không thấy ánh sáng, ông trời hạn hán đã lâu, nay dường như mới mở mắt, đột nhiên rót mấy giọt mưa. Trần thế tử Tô Dự mình khoác áo lông hạc, tay cầm chiếc quạt ngà mười hai nan, đường đường đứng bên vương tọa triều đường, tiếp nhận quốc ấn do lão Vệ vương trình lên, hỏi vài điều về Văn Xương công chúa, không khác một chữ so với ghi chép của sử quan.
Có điều, thế tử Tô Dự không vinh hạnh có được bút tích của Diệp Trăn, khi chàng nói câu đó với lão Vệ vương trước triều đường, Diệp Trăn đã trèo lên tường thành vương cung. Cuộc hội ngộ đầu tiên của Tô Dự và Diệp Trăn có sử liệu để tra cứu là trong buổi chiều đúng ngày Vệ quốc diệt vong, cách bức thành cao trăm trượng, giữa hai đầu sinh tử.
Chàng thậm chí không nhìn rõ dung nhan khuynh thành của Diệp Trăn như lời đồn đại, mặc dù chàng nghe đồn từ lâu. Nghe nói một trăm ngày sau khi Diệp Trăn ra đời, Vệ vương chiêm bao thấy một trưởng tăng điên điên khùng khùng, trưởng tăng phán rằng, mặc dù xuất thân hoàng tộc, nhưng công chúa là người bạc mệnh vô phúc, vương cung phế khí quá nặng, nếu nuôi dưỡng trong cung nhất định không thể sống qua mười sáu tuổi.
Nghe đồn Vệ vương tin lời trưởng tăng, ngay từ nhỏ đã gửi nuôi cô trong Thanh Ngôn tông, quốc tông của Vệ quốc để cầu bình an, thề không gặp lại trước khi công chúa mười sáu tuổi. Lại nghe đồn hai năm trước, vào ngày mừng thọ Vệ vương, Diệp Trăn đã vẽ bức “Sơn cư đồ” làm quà mừng thọ phụ thân, được tân khách trầm trồ thán phục, Vệ vương cả mừng.
Trong màn mưa mênh mang, Tô Dự tay cầm quạt đứng dưới lầu, chợt nhớ tới lời nói của vương muội Tô Nghi trước lúc chàng xuất chinh: “Nghe đồn Văn Xương công chúa Vệ quốc vô cùng xinh đẹp, lại trí tuệ tài hoa, là một giai nhân tài mạo vẹn toàn, huynh xuất chinh lần này khi giương cờ chiến thắng, liệu có đón được Văn Xương công chúa về cung, làm chị dâu của muội?”. Chiếc váy dài của Diệp Trăn bay phấp phới trên tường thành, đột nhiên bóng người mảnh dẻ từ trên thành cao trăm trượng lao xuống như một con chim trắng, chiếc váy nhuốm đỏ khi nàng nằm trên đất, trong hàng quân bên dưới ào lên tiếng khóc than của tướng sĩ Vệ quốc.
Tô Dự nhìn thân hình nhuốm máu phía xa, thẫn thờ hồi lâu mới gập chiếc quạt trong tay, nói: “Hậu táng theo chế lễ dành cho công chúa”.
 
K

kakashi_hatake

Tiếp nè mọi người

Phần 1: Tận kiếp phù du

Cô hôn mắt chàng, run rẩy chống tay ngồi dậy, ôm mặt chàng, “Em sẽ cứu chàng, cho dù phải chết, em cũng cứu chàng”.

Chương 1

Tháng tư, sắc xuân ngập tràn núi rừng, Quân sư phụ cuối cùng đã trở về sau sáu tháng biệt tăm. Có nghĩa là những vết khâu trên cơ thể tôi không lâu nữa có thể cắt chỉ.
Sáu tháng nay, toàn thân tôi bị băng bó kín. Ban đầu, tôi còn có hứng thú nhảy ra ngoài dọa đồng môn. Nhưng không lâu sau, tôi phát hiện chẳng môn sinh nào sợ hãi khi họ đã bị dọa một lần. Mà tôi lại không thể nhận ra những ai đã từng bị dọa, những ai chưa. Vậy là tôi mất hứng đi trêu mọi người.
Hai tháng trôi qua, tôi đã thấy hơi khó chịu.
Nhiều đồng môn tưởng tôi không chịu đựng nổi hàng ngày mang cơ thể quấn đầy băng, đi ngâm bốn canh giờ trong bể thuốc. Thực ra, ngâm thuốc như vậy dưỡng thương rất tốt. Chỉ có điều, sau khi ngâm, phải giữ nguyên những lớp băng ướt sũng như vậy ngồi chờ cho đến lúc khô, điều này khiến tôi vô cùng khó chịu. Sự khó chịu càng tăng khi thời tiết lạnh dần.
Về sau, tôi nghĩ phàm những anh hùng cái thế, đều phải chấp nhận những thử thách rèn luyện đặc biệt hà khắc của sư phụ. Quân sư phụ ắt là muốn giúp tôi rèn luyện bản lĩnh, nghị lực. Vì vậy, dẫu trong những ngày tháng chạp buốt giá căm căm, tôi cũng cắn răng chịu đựng, quyết không bỏ cuộc, cho dù có thể bị nhiễm thương hàn.
Kiên trì được nửa năm, qua mấy lần cảm thương hàn, quả nhiên khả năng kháng hàn của tôi tăng lên rõ rệt. Tôi nói chuyện đó với Quân sư phụ, sư phụ trầm tư giây lát, rồi hóm hỉnh trả lời: “À… ta quên không bảo con, cạnh nhà tắm có một cái lò có thể giúp vải băng trên người khô nhanh, ha ha…”.
Quân sư phụ chính là tông chủ Quân Vu giáo. Quân Vu giáo lập nghiệp trên núi Quân Vu, thuộc địa phận nước Trần. Nghe nói, ông tổ khai sơn lập giáo không phải họ Quân mà là họ Vương, xuất thân nghèo khó, cha mẹ đặt tên là Vương Tiểu Nhị.
Về sau, Vương Tiểu Nhị được một bậc cao nhân truyền võ, sau khi thành tài, lập ra giáo phái trên núi Quân Vu. Nhưng không chiêu mộ được đệ tử tốt, hỏi ra mới biết, khi nghe danh giáo chủ Quân Vu là Vương Tiểu Nhị, mọi người đều cho rằng đó là lớp dạy nghề phụ việc, đệ tử học xong sẽ phục vụ trong các quán ăn trên khắp nước.
Vương Tiểu Nhị đành mời một ông thầy đồ gần đó đổi tên cho. Ông thầy xem xét đại thế thiên hạ, rồi phán, các họ lớn như Đông Phương, Tây Môn, Nam Quan, Bắc Đường, Thượng Quan, Mộ Dung đều đã lập giáo phái riêng; Hai họ Đông Quách và Nam Quách mặc dù chưa lập giáo, song nếu lấy họ này sẽ khó khăn trong việc giải thích lai lịch, chi bằng lấy ngay tên địa danh, lập giáo phái trên núi Quân Vu, vậy lấy họ Quân Vu, coi như sáng tạo ra một họ kép mới, họ Quân Vu.
Nhưng lại nghĩ, tạo ra họ kép phải lập hồ sơ trình quan phủ, thủ tục phức tạp, lại không có người tiến cử, chi bằng tốt nhất dùng ngay họ “Quân”, vả lại họ này nghe rất khí thế, rất “quân tử”. Vương Tiểu Nhị thấy có lý, bèn đổi thành họ “Quân” và nghe theo đề nghị của ông thầy, dựa theo âm cổ dịch trực tiếp hai chữ “Tiểu Nhị” thành Thiếu Song, tên đầy đủ là Quân Thiếu Song.
Sau khi Vương Tiểu Nhị đổi tên thành Quân Thiếu Song quả nhiên chiêu mộ được rất nhiều đồ đệ. Từ đó thanh thế của Quân Vu giáo mạnh dần. Quân sư phụ chính là cháu bảy đời của sư tổ Quân Thiếu Song.
Từ nhỏ tôi đã biết Quân sư phụ. Lúc đó tôi còn sống trong Thanh Ngôn tông – quốc tông của nước Vệ. Sư phụ đầu tiên của tôi là Huệ Nhất, tuổi tuy cao nhưng vẫn tráng kiện, ăn uống cũng tốt, đến món đậu phộng rang vẫn còn nhai được. Quân sư phụ đưa con trai đến sống gần Thanh Ngôn tông, ở trong một căn nhà tranh cách núi Nhạn Hồi hai dặm, thường đến chơi cờ với sư phụ tôi.
Lúc sư phụ đưa tôi lên núi ngắm mặt trời mọc, thường nghỉ lại ở căn nhà đó của Quân sư phụ. Trong nhà chỉ có một chiếc giường. Mỗi lần tôi và sư phụ đến, bao giờ tôi cũng được dành cho chiếc giường đó. Ba người còn lại trải chiếu nằm dưới đất. Điều đó khiến tôi rất khoái trá, vì mỗi lần tới đó, tôi trở thành người đặc biệt.
Sau này, tôi nói chuyện đó với Quân Vỹ, con trai của Quân sư phụ. Quân Vỹ nói: “Như thế chứng tỏ có lẽ muội là một công chúa bẩm sinh, chỉ có công chúa mới thích khác người”. Nhưng tôi không đồng ý với lý giải của Quân Vỹ, công chúa không phải là thích khác người, mà là quen với sự khác người. Chủ yếu là do không ai dám giống công chúa. Giữa thích và quen rất khác nhau. Điều này nhiều năm sau khi phải đối diện với cái chết, tôi mới thấu hiểu sâu sắc.
Quân Vỹ là người am tường kim cổ, anh ta biết rất rành về lai lịch những thê thiếp của hoàng đế các triều đại, thậm chí cả những người được hoàng đế ân sủng một đêm, chưa kịp rước về.
Quân Vỹ cho rằng, gia sự ảnh hưởng quốc sự, quốc sự là việc lớn của thiên hạ, mà gia sự của các bậc đế vương hầu hết là do hậu cung gây ra. Thực ra, chỉ cần các vị hoàng đế không quá ham mê nữ sắc, không nạp nhiều phi tần là sẽ không xảy ra chuyện gì. Nhưng không nạp thêm phi tần thì quả là tàn nhẫn đối với hoàng đế, hoàng đế cảm thấy không thể tàn nhẫn với bản thân, thế là họ lựa chọn tàn nhẫn với thiên hạ.
Quan điểm của Quân Vỹ là hòa hợp hậu cung của hoàng đế chính là hòa hợp toàn thiên hạ. Từ đó, cả đời anh ta tập trung suy nghĩ, làm thế nào để hòa hợp hậu cung của hoàng đế.
Ngoài đại sự cả đời đó, Quân Vỹ còn có một niềm đam mê khác. Đam mê viết tiểu thuyết. Nhưng Quân sư phụ rất không tán thành. Bởi lẽ, sư phụ mong muốn con trai sẽ trở thành một kiếm khách nổi tiếng thiên hạ. Hễ thấy anh ta viết tiểu thuyết là tịch thu bản thảo, phạt chép kiếm pháp. Thế là anh ta đành văn võ kết hợp, lén viết tiểu thuyết trong quá trình chép phạt kiếm pháp.
Trong những bản kiếm pháp Quân Vỹ chép phạt, thỉnh thoảng có đoạn đại loại như: “Mỗi ngày khi mặt trời chiếu sáng, nàng dùng đôi tay trần cởi từng lớp xiêm y, để tấm thân như men sứ lõa lồ dưới ánh mặt trời. Đó là nơi cực lạnh, nàng ngồi trên chiếc giường băng lạnh, phát ra tia sáng trắng lạnh người, lạnh, rất lạnh, vô cùng lạnh, nàng cứ ngồi khoanh chân như thế, mặt hướng về bắc, lưng quay về nam. Hơi khí vận hành đủ một vòng viên mãn. Nàng không hề biết, xa xa cách đó mười trượng, phía sau lớp lớp giậu tường vi mùa đông đang có một đôi mắt đen thẫm lần theo từng tấc da thịt nàng”.
Thực ra không ai nghĩ, đó là bốn câu luận về tâm thái trong kiếm pháp: “Lúc trời lạnh nhất, ngồi trên giường băng, lõa thể mặt hướng về bắc, vận khí đủ một vòng”. Sau này, Quân Vỹ trở thành kiếm khách giỏi viết tiểu thuyết nhất và tiểu thuyết gia kiếm pháp cao cường nhất.
Bản thân tôi vì lớn lên trong Thanh Ngôn tông phái, tông phái quy định đàn ông không được để tóc. Cả tông môn gần hai ngàn người, trừ tôi tất cả đều là đàn ông. Vì vậy, toàn tông môn chỉ có mình tôi để tóc dài. Điều này khiến tôi có những lệch lạc trong nhận thức đầu tiên về giới tính, trong một thời gian dài tôi cho là sự khác biệt lớn nhất giữa đàn ông và đàn bà là đàn bà thì để tóc dài, đàn ông thì đầu trọc. Thế là đương nhiên tôi cho rằng Quân sư phụ và Quân Vỹ đều là đàn bà. Cảm giác tương đồng giới tính khiến tôi trở nên thân thiết với họ.
Rất tự nhiên, sau này tôi cuối cùng cũng vỡ lẽ, cha con họ đều là đàn ông. Nhưng ý nghĩ họ là đàn bà đã thâm căn cố đế trong tôi, khiến sau này tôi không thể nào đối xử với Quân Vỹ theo tình cảm nam nữ. Luôn coi anh ta là chị em của tôi, quan hệ vốn là thanh mai trúc mã, bị tôi biến thành chỉ thuần thanh mai.
Lúc ba tuổi, vì một cơ duyên ngẫu nhiên tôi biết mình là công chúa nước Vệ, nhưng tôi thấy chuyện này cũng rất bình thường. Chủ yếu là do lúc đó tôi chẳng hiểu “công chúa” là gì. Quân Vỹ lớn hơn tôi một tuổi. Biết hơn tôi một chút, anh ta nói: “Công chúa thực ra là một tầng lớp đặc quyền”. Tôi hỏi: “Đặc quyền nghĩa là gì?”. Quân Vỹ trả lời: “Là mọi điều muội muốn đều có thể làm, những điều không thích có thể không làm”. Nghe Quân Vỹ nói vậy, trưa hôm đó tôi dứt khoát không chịu rửa bát, buổi tối cũng không giặt quần áo, kết quả tôi bị sư phụ phạt quỳ tới nửa đêm.
Từ đó về sau, tôi thực sự quên mình là công chúa. Cũng năm đó, sư phụ thấy tôi cũng đã lớn liền dạy tôi cầm kỳ thi họa. Sư phụ cho rằng, con người ta sống trên đời nên có gì đó để gửi gắm nỗi lòng.
Nếu cầm kỳ thi họa tôi đều tinh thông đương nhiên là tốt nhất, coi như đã thành nhân tài. Hoặc nếu chỉ giỏi một trong tứ tài đó cũng tốt, ít nhất cũng là một chuyên gia. Tôi hỏi sư phụ: “Ngộ nhỡ sau này con không những không giỏi mà còn hoài nghi ý nghĩa những thứ phải học đó thì sao?”. Sư phụ trầm ngâm rồi trả lời: “Triết gia, dù gì cũng là một nhà gì đó…”.
Không biết tại sao, Quân Vỹ không bái sư phụ tôi làm thầy nhưng lại có thể cùng học với tôi. Sư phụ giải thích là học thuật vốn không biên giới, không phân biệt sư môn. Quân Vỹ lại bí mật tiết lộ với tôi, đó là do cha anh ta đã tặng sư phụ mười cây nhân sâm nghìn tuổi.
Quả nhiên, học thuật là không biên giới, biên giới quốc gia cũng có thể mua được. Học cùng với Quân Vỹ, lúc tập viết chữ còn có thể chịu được, nhưng lúc học đàn thì tôi thực sự khó chịu. Lúc đầu, chúng tôi mỗi người một cây đàn, ngồi đối diện ở hai đầu phòng, cùng chơi đàn. Hậu quả trực tiếp là ở cái tuổi tôi còn chưa hiểu tại sao dư âm của nó có thể dai dẳng ba ngày không dứt, điều đầu tiên tôi hiểu là tại sao tiếng đàn như quỷ ám đó có thể khiến người ta như bị cắn xé, tan nát cõi lòng.
Chúng tôi mỗi người đều cảm thấy người kia chơi quá tuyệt, làm cho mình đau khổ, lại càng cố tạo ra âm thanh diệu kỳ khiến người kia càng đau khổ để trả thù. Cây đàn trong ấn tượng của tôi là một hung khí, không phải nhạc cụ. Điều đó cũng lý giải vì sao tôi học được cách giết người bằng tiếng đàn mà mãi mãi không học được cách dùng tiếng đàn để cứu người, đó hoàn toàn là ám ảnh tâm lý Quân Vỹ tạo cho tôi. Nhưng sau khi tôi học được cách giết người bằng tiếng đàn, muốn dùng tiếng đàn để cứu người thì tất cả đã chết.
Lúc mười tuổi, tôi nhặt được một con hổ con vừa mở mắt. Con hổ đó theo tôi suốt đời, thể hiện lòng trung thành tột bậc của một con dã thú. Mặc dù nghĩ lại hồi đó, tôi và Quân Vỹ nhặt con hổ đó chẳng qua chỉ vì định giết thịt nó. Đúng lúc cha Quân Vỹ bị sư phụ tôi thuyết phục, quyết làm một người bảo vệ động vật, khiến Quân Vỹ ba tháng liền không biết tới mùi thịt. Còn tôi sống trong tông phái cũng ít ăn thịt, đúng lúc chúng tôi thèm thịt nhất.
Sau này, không ăn thịt con hổ đó hoàn toàn là do chúng tôi thấy có thể nuôi nó lớn hơn chút nữa, như vậy thịt mới có thể làm được nhiều món khác nhau. Bây giờ nghĩ lại, lúc đó tôi có thể kìm chế cơn thèm, không giết Tiểu Hoàng đúng là một việc đáng khâm phục. Tiểu Hoàng là tên con hổ đó. Sau này, khi đã tìm hiểu kỹ tôi phát hiện con hổ đó thuộc loài hổ quý. Tôi và Quân Vỹ đều rất vui, bởi vì bán nó có thể kiếm được món tiền to. Nhưng khổ nỗi không tìm được người mua, đành giữ nó lại.
Đến khi chúng tôi tìm được người mua, thì cả hai đã lớn, chúng tôi cũng dần dần có tiền, không cần phải trông vào tiền bán hổ nữa. Điều đó khiến chúng tôi không khỏi than thở, đời người là vậy, con đường phát tài sao mà gian khổ.
 
N

natsume1998

chị ơi cố lên
post nữa đi em ủng hộ tinh thần cho
đọc rồi mà vẫn muốn đọc lại...
 
Top Bottom