Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam...

C

codonyb

S

silvery21

hình ảnh nguời phụ nữ việt nam trong thời xưa qua các bài Bánh trôi nuớc, Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương và bài Thương vợ của Trần Tế Xương
ai giúp em làm bài này với em sắp phải nộp bài rùi!


Mở bài:


-Giới thiệu hình tượng ng phụ nữ trong văn học nói chung.


-Cảm hứng về ng phụ nữ trong tự tình,của HXH và thương vợ của trần tế xương.


Thân bài:


-Thời đại hoàn cảnh,nội dung cơ bản trong thơ của 2 tác giả trên.


-Ng phụ nữ VN thời xưa đẹp ng và đẹp nết


+Tảo tần,chung thủy,son sắt:Bà tú,chịu thương chịu khó,tảo tần,''quanh năm buôn bán'' nuôi chồng nuôi con,thủy chung son sắt


+ Ng phụ nữ chịu n` thiệt thòi,gian nan,vất vả,''hông nhan bạc phận''.


Trong tự tình:thân phận bẽ bàng,cô độc,tình duyên lận đận,hạnh phúc mong manh.


Trong thương vợ:lam lũ,vất vả


Viết về ng phụ nữ vớ mối đồng cảm sâu sắc là 1 biểu hiện của tinh thần nhân đạo.


Kết bài:


-Người phụ nữ xưa phải chịu n` bất hạnh và sự hạn chế của ý thức xã hội


-Nhắc nhở con ng phải bik trân trọng hạnh phúc của ngày hôm nay
 
S

silvery21

nhớ thnak s đây'

đối với câu hỏi của bạn, theo tôi thì thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa được chia làm hai ý rõ rệt

1. Họ là những người phụ nữ có tài có sắc( thân em vừa trắng lại vừa tròn, trơ cái hồng nhan với nước non), có phẩm chất cao đẹp như bà Tú tông Thương vợ của Tú Xương( Quanh năm buôn bán ở mom sông _ Nuôi đủ năm con với một chồng).
2. tuy vậy nhưng thân phận của những người phụ nữ này lại vô cùng nhỏ bé, cuộc đời của họ long đong lận đận. Họ phải sống trong một chế độ xã hội phong kiến lạc hậu, trọng nam khinh nữ, người phụ nứ không có chỗ đứng và địa vị trong xã hội vì vậy mà những người phụ nữ có tài nhưHXH thường không được coi trong đồng thời việc làm của một người vợ thường ít được người chồng cảm thông dù cho quanh năm lam lũ vất vả nuôi chồng nuôi con chăm sóc cho gia đình luôn được yên ấm dù mình có phải chịu thiệt thòi
từ đó ta cũng thấy được bản lĩnh của người phụ nữ xưa. Đối với HXH thì đó chính là bà đã dám thách thức tất cả mọi thứ, cả trời đất, cả thiên nhiên và cả với chính duyên phận của mình cũng như bà dám thể hiện quan điểm của mình thông qua những vần thơ đầy tính nghệ thuật này...Trong khi đó, Bà Tú lại lài một người mẹ hiền, một người vợ đảm. Vì chồng vì con, bà sẵn sàng làm thay cả việc nặng nhọc mà đáng ra người đàn ông phải là người gánh vác, bà phải làm việc trong hoàn cảnh đầy khó khăn, cực khổ, phải làm dưới một điều kiện bấp bênh (mom sông) cà phải " eo xèo mặt nước " buổi đò đông. Bà như con cò trong ca dao, lam lũ vất vả bươn trải để nuôi chồng nuôi con....

trên đây chỉ là ý kiến riêng của tôi thôi, nó vẫn còn rất nhiều thiếu sót . Vì vạy tôi mong là nó sẽ giúp ích được phần nào đó cho bạn. Ngoài ra bạn có thể đọc thêm một sỗ cuốn sách văn tham khảo về các bài thơ này, nó sẽ giúp ích cho bạn rất nhiều đấy!Chúc bạn làm bài kiểm tra ngày mai thật tốt. Good luck!
 
S

silvery21

hình ảnh nguời phụ nữ việt nam trong thời xưa qua các bài Bánh trôi nuớc, Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương và bài Thương vợ của Trần Tế Xương
ai giúp em làm bài này với em sắp phải nộp bài rùi!


Với đề bài này thì em cần phân tích được các luận điểm sau:

1. Họ là những người phụ nữ có tài có sắc( thân em vừa trắng lại vừa tròn, trơ cái hồng nhan với nước non), có phẩm chất cao đẹp như bà Tú tông Thương vợ của Tú Xương( Quanh năm buôn bán ở mom sông _ Nuôi đủ năm con với một chồng).

2. Thân phận của những người phụ nữ này lại vô cùng nhỏ bé, cuộc đời của họ long đong lận đận. Họ phải sống trong một chế độ xã hội phong kiến lạc hậu, trọng nam khinh nữ, người phụ nứ không có chỗ đứng và địa vị trong xã hội vì vậy mà những người phụ nữ có tài nhưHXH thường không được coi trong đồng thời việc làm của một người vợ thường ít được người chồng cảm thông dù cho quanh năm lam lũ vất vả nuôi chồng nuôi con chăm sóc cho gia đình luôn được yên ấm dù mình có phải chịu thiệt thòi.

3. Bản lĩnh của người phụ nữ trong xã hội xưa: mặc dù bị trói buộc trong những quan niệm, phong tục cổ hủ và lạc hậu... nhưng trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn đẹp, vẫn sáng, vẫn luôn vùng lên để đòi bình quyền. Để muốn rằng: Họ là nữ nhi nhưng vai trò của họ trong xã hội là rất lớn...

>>> Đại khái có 3 ý lớn như thế để em khai thác!
 
S

silvery21

cái này mình mới cop trên mạng xem tham khảo nha

Trần Tế Xương lận đận trong thi cử, đi thi đến lần thứ tám mới đậu được cái tú tài. Ông học giỏi nhưng phải cái ngông quá, thật ra thái độ ngông của ông là một cách ông phản kháng lại chế độ thi cử lạc lậu, quan trường “ậm ọc” lúc bấy giờ. Mà đậu được cái tú tài thì rồi cũng làm “quan tại gia” thôi. Hồi đó phải đậu cử nhân mới được bổ tri huyện. Thế là bà Tú gần như phải nuôi chồng suốt đời. Ông Tú chỉ còn biết đem tài hoa của mình mà ghi công cho bà Tú:

“Quanh năm buôn bán ở mom sống,
Nuôi đủ năm con với một chồng”.

Từ “mom” thật là hay, vừa thấy được nỗi gian truân của bà Tú buôn bán quanh năm bên bờ sông Vị, vừa thấy được tấm lòng của nhà thơ đối với việc buôn bán khó nhọc của vợ. Từ “mom” là tổng hợp nghĩa của các từ ven, bờ, vực, thềm, thành một từ sáng tạo của nhà thơ làm giầu thêm cho tiếng Việt. Bà Tú buôn thúng bán bưng quanh năm ở “mom sông” mà nuôi chồng, nuôi con:

“Nuôi đủ năm con với một chồng”

Câu thơ chỉ mấy con số khô khốc thế vậy mà tế toái lắm đó! “Nuôi đủ năm con” là vì con, phải nuôi, nên đếm ra để mà nuôi. Nhưng còn chồng thì một chồng chứ mấy chồng, cớ sao lại cũng phải đếm ra “một chồng”? Là vì chồng cũng phải nuôi, mà bà Tú với cái gánh trên vai nuôi năm đứa con đã là vất vả, lại thêm một ông Tú trong nhà nữa thì gánh nặng gấp đôi. Thời đó mà nuôi một ông Tú, lại là Tú Xương nữa thì nhiêu khê lắm.

Nhưng bà Tú được an ủi là vì ông Tú, cái con người tưởng như chỉ biết bông đùa, cười cợt đó lại để tâm đến từng bước chân của bà trên đường lặn lội buôn bán:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Có thể nói lòng thương vợ của nhà thơ dào dạt lên trong hai câu thơ này. Hình ảnh lặn lội thân cò được tác giả mô phỏng theo một biểu tượng trong thi ca dân gian để nói về người phụ nữ lao động:

“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh tạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”

Nếu như từ “lặn lội” được đảo ra phía trước chủ ngữ để nhấn mạnh sự vất vả của bà Tú, thì từ “eo sèo” gợi lên âm thanh hỗn tạp (tiếng kì kèo mặc cả, tiếng cãi cọ tranh giành) của “buổi đò đông”. Hai tình huống đối lập thật hay: “vắng” và “đông”. Người phụ nữ gánh hàng lặn lội trên quãng đường vắng thật là khổ. Mà đến chỗ “đò đông” thì thật là đáng sợ! Nghĩa là nhìn từ phía nào, nhà thơ cũng thương vợ, tình thương thấm thía, cảm động.

Sang hai câu luận, tác giả chuyển sang diễn tả nội tâm của bà Tú, lời thơ như lời độc thoại của người vợ:

“Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công”

Nhân dân ta thường nói “vợ chồng là duyên nợ”. Nhà thơ Tú Xương đã chỉ từ ghép “duyên nợ” thành hai từ đơn: “duyên – nợ”. “Duyên” thì thiêng liêng rồi vì đã có sự tham gia của đấng vô hình (ông Tơ bà Nguyệt), còn “nợ” thì đã thành trách nhiệm nặng nề. “Một duyên hai nợ” đã diễn tả được sự vận động trong tâm trí của bà Tú. “Một duyên hai nợ âu đành phận” là bà Tú đã thuận theo lòng trời và thuận theo lòng người (tấm lòng của chính bà!). Nói gọn lại là bà Tú đã chấp nhận! Và chấp nhận cuộc hôn nhân duyên nợ này, bà chấp nhận một ông đồ nho ngông “tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”, bà chấp nhận vị quan “ăn lương vợ” nên bà đâu “dám quản công”:

“Năm nắng mười mưa dám quản công”

Thành ngữ “dầm mưa dãi nắng” được tác giả vận dụng sáng tạo thành “năm nắng mười mưa”. Phải nói những con số trong thơ Tú Xương rất có thần. Ta đã thấm thía với hai số năm – một trong câu thừa đề (Nuôi đủ năm con với một chồng). Giờ đây là sự linh diệu của những con số một – hai và năm – mười trong câu luận. “Một duyên hai nợ” đối với “Năm nắng mười mưa”, cho thấy gian khổ cứ tăng lên, bà Tú chịu đựng hết.

Trước người vợ giỏi giang, tần tảo, chịu đựng mọi gian lao vất vả để “nuôi đủ năm con với một chồng” thì nhà thơ chỉ còn biết tự trách mình.

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!”

Vì quá thương vợ mà nhà thơ tự trách mình, trách một cách nặng nề. “Cha mẹ thói đời…” thì đã thành lời xỉ vả mình. Thật ra là một cách ông Tú nhún mình để cho công trạng của bà Tú nổi lên, chứ Tú Xương đâu phải là người “ăn ở bạc”. Ăn chơi sa đà thì có, “hờ hững” nữa, thì nhà thơ đã thành thật nói rồi, chứ bạc tình, bạc nghĩa thì không. Gang thép với cường quyền mà nhũn với vợ như thế thì thật là con người đáng kính.

Bằng tình cảm chân thành, bằng nghệ thuật sống động, Tú Xương đã thể hiện được hình ảnh người phụ nữ giỏi giang, lam lũ, tần tảo nuôi chồng nuôi con. Bà Tú có những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa.

Bao nhiêu công trạng trong gia đình, ông Tú giành cho bà Tú, ông chỉ nhận về cho mình một chữ “không”. Nhưng bình tâm mà xét thì ông Tú cũng xứng với bà Tú vì trên đất nước gian lao và vất vả này có hàng triệu người như bà Tú, nhưng chỉ có một bà Tú là được vào cõi thơ, cõi bất tử!
 
S

silvery21

Bfi thơ Tự Tình bạn tham khảo tại bài viết này:
“Tự tình 2”_một trong chùm thơ 3 bài cùng tên của Hồ Xuân Hương, dù chưa rõ thời điểm sáng tác, nhưng người đọc có thể dễ dàng đoán đc. chúng đã được viết nên khi nhà thơ đang ở trong tâm trạng chua xót nhất, cay đắng nhất trước những éo le trên con đường tình duyên. Ba bài thơ là 1 sự chuyển biến tâm lí rất lôgich mà cũng mang nặng 1 bi kịch của người phụ nữ gặp trắc trở trong hạnh phúc lứa đôi. “Tự tình 1” là 1 khao khát mãnh liệt đến không chịu nổi của tác giả, giọng thơ mang đầy vẻ thax thức, nhất quyết hok cam chịu 1 số phận hẩm hiu : “Tài tử văn nhân ai đó tá?/ Thân này đâu đã chịu già tom”. Đến “Tự tình 2”, những đợi chờ, hi vọng dần bị thời gian tàn nhẫn làm cho chai sạn lạnh lùng, làm nguội đi trái tim đang bừng bừng khao khát của tác giả “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại/ Mảnh tình san sẻ tí kon kon...” Càng hi vọng bao nhiu thì càng thất vọng bấy nhiu, H2X dần trở nên ngao ngán, và mất niềm tin vào cuộc đời. Và khi “Tự tình 3” được đặt bút, là khi tác giả đã chìm xuống tận cùng của hố sâu thất vọng , bà hok còn mong mỏi điều j` nữa, mà buông xuôi, để mặc cho số phận đưa đẩy “Chiếc bánh buồn vì phận nổi nênh/ Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”. Ôi, còn đâu là con ng` mạnh mẽ, cá tính, bướng bỉnh, không chịu khuất phục điều j`?(Câu này hem bít có đúng hok các bạn xem lại choa tớk :”>) Thế mới biết số phận tàn nhẫn có thể làm lạnh lùng cả 1 tâm hồn cứng rắn nhất, mạnh mẽ nhất, biến nó thành thờ ơ, vô kảm. Và đó quả thật là 1 bi kịch, bi kịch của những ng` fụ nữ gặp éo le trong số phận cuộc đời (kả câu nài nữa vì tớk vốn hok tin có 1 thứ gọi là “số phận” và tớk tin là bà H2X cũng vậy ^^).
(Phân tik):
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ kái hồng nhan vs nước non.”
Mở đầu bài thơ là một âm thanh khá âm vang và đầy hối hả: Trống canh dồn. Nhưng, dù mãnh liệt đến mấy, tiếng trống cũng vẫn chỉ là âm thanh duy nhất trong đêm vắng, nếu hok có nó thì đêm khuya sẽ trở nên vô cùng vắng lặng. Cái động đã đc. sử dụng để tôn lên kái tĩnh, cái cô độc, trống trải của đêm khuya. Nửa đêm là thời gian sum họp vợ chồng, là thời điểm của hạnh phúc lứa đôi. Vậy mà lại có 1 ng` phục nữ tỉnh dậy vào đúng thời khắc thiêng liêng ấy, hay vì cả đêm ng` phụ nữ ấy đã không ngủ đc. vì thiếu vắng 1 điều j` đó, vì tâm trạng đang mang nặng một nỗi niềm? Tiếng trống canh âm vang từ xa vọng lại như đang thúc giục thời gian qua mau, gọi đến 1 điều vô cùng đáng sợ đối với 1 ng` đàn bà vẫn còn thân đơn gối chiếc: Tuổi già. Tuổi già càng đến gần nghĩa là hi vọng càng tuột xa, mọi mong mỏi, khát khao càng trở nên vô vọng. Tiếng trống dồn dập cứ xoáy vào tâm can tác giả, nó âm vang, trong tâm tưởng, âm vang trong suy nghĩ, hok tài nào dứt ra được. Dồn dập, hối hả, tiếng trống không chỉ bao trùm lên không gian mà còn lên cả thời gian nữa, và ta tự hỏi, đêy có thật là tiếng trống hiện hữu trong đời sống thực tại hay phải chăng đó là tiếng trống cất lên từ tấm lòng thổn thức của tác giả, tiếng trống ám ảnh về 1 bi kịch đang ngày đến gần hơn với bà....“Trơ cái hồng nhan với nước non”_Khi thời gian cứ lướt qua càng lúc càng dồn dập, thì cũng là lúc “cái hồng nhan" ngày một “trơ” ra với đời. “Hồng nhan” là một từ dùng để chỉ nhan sắc, chỉ gương mặt xinh đẹp của ng` phụ nữ. Đó là điều mà bất cứ người phụ nữ nào có đc. cũng phải hết sức tự hào, hết sức coi trọng và nâng niu. Nhưng từ “cái” gắn liền với “hồng nhan” như một hòn đá kéo nặng cả câu thơ xuống, khi đập tan bâo nhiêu niềm tự hào, bao nhiêu trân trọng mà biến “hồng nhan” trở thành một thứ đồ vật tầm thường hok hơn hok kém. Hồng nhan để làm j` khi nửa đêm phải tỉnh giấc, trong cái trống trải lạnh lẽo đến đắng cay? Hồng nhan để làm gì khi nó đâu phải là vĩnh cửu mà sẽ nhanh chóng vỡ tan theo từng nhịp trống dồn? Tác giả ý thức được nhan sắc của mình nhưng cũng ý thức được những bất hạnh và chua xót mà mình đã, đang và sẽ phải nếm trải. Và khi nỗi đau lên đến đỉnh điểm, người phụ nữ sẽ trở nên “trơ” ra với “nước non”, với cuộc đời. Từ “trơ” được đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh sự vô kảm, lạnh lùng, thờ ơ trước những đớn đau đã trở nên quá quen thuộc. Còn j` đau xót hơn khi những bất hạnh lại trở thành một điều j` đó rất thường tình, cứ đeo đẳng, bám lấy con người ta và thậm chí khiến người ta trở nên nhàm chán, mất hết cảm xúc và trở nên trơ ra như gỗ đá? Chưa hết, từ “trơ” trong câu thơ còn mang một nghĩa khác, một hàm ý cay đắng và chua xót không kém: Trơ trọi. Tác giả nhận thấy mình hok có j` kả, hok có tình yêu, hok có hạnh phúc, chỉ đơn độc, lẻ loi một mình trong cuộc đời này. Từ “trơ” đặt ở đầu câu cộng với cách ngắt nhịp 1/3/3 đẩy từ “trơ” tách biệt một mình đã xoáy sâu, nhấn mạnh vào tâm trạng cay đắng, tủi hổ và bẽ bàng của bà. Câu thơ như một lời đay nghiến, m** mai chính mình, có hồng nhan mà phải trơ ra như thế Thật đáng thương cho số phận của nhà thơ, đáng thương cho một kiếp người tài hoa mà bất hạnh. Và cũng thật đáng thương cho những người phụ nữ đương thời bị đè nén, áp bức với những hủ tục phong kiến đến mức xơ xác, héo mòn cả một phận hồng nhan......
Nhưng, dù đáng thương, chua xót đến mức nào, chúng ta vẫn phải công nhận một “bản lĩnh Xuân Hương” rất đáng nể phục trong hai câu thơ, khi mà “trơ” hok chỉ là một sự bẽ bàng hay vô kảm mà còn là thách thức. “Trơ” kết hợp với “nước non” và “hồng nhan” đựoc xếp ngang tầm thiên nhiên vũ trụ đã cho ta thấy sự can đảm, dám đương đầu với những j` lớn lao nhất, khó khăn nhất của bà. Đó quả thật là một ý chí đáng nể phục, một bản lĩnh đáng ngưỡng mộ của Hồ Xuân Hương.
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xê khuyết chưa tròn.”
Hai câu thơ vẽ lên một khung cảnh rất thật mà cũng chứa chan bao nỗi niềm của tác giả. Một người phụ nữ mà phải ngồi uống rượu một mình trong đêm vắng thì quả là một sự bất hạnh. Con người ta chỉ uống rượu vì hai mục đích: Một là để sẻ chia và hai là để để quên sầu. Sẻ chia là khi con ng` ta nhất định phải uống cùng bạn bè, đặc biệt là tri kỉ, để nói lên những nỗi lòng, tâm sự cho nhau nghe và nhận lại đc. sự cảm thông và thấu hiểu. Chẳng thế mà Nguyễn Khuyến từng viết:“Rượu ngon không có bạn hiền/Không mua không phải không tiền không mua”Còn khi muốn quên sầu, là lúc con ng` ta đang ở trong tâm trạng cay đắng nhất, khi xung quanh không có 1 ai để có thể chia sẻ nỗi niềm và ta chỉ còn biết tìm quên trong men rượu, một mình. Nhưng liệu chén rượu có làm tan đi bao nỗi cô đơn, tủi nhục trong lòng, hay Hồ Xuân Hương uống rượu mà như uống bao giọt sầu giọt tủi, như nuốt từng giọt đắng giọt cay. Chén rượu là chén sầu mà người uống chẳng thể đổ đi đươc mà chỉ có thể lặng lẽ, âm thầm nuốt vào cổ họng, để đau khổ cũng chẳng mất đi đâu mà lại trở lại trong chính tâm trí mình. "Say lại tỉnh"_Uống rượu có thể say, nhưng sau cơn say người ta sẽ lại tỉnh. Tỉnh rồi, người ta mới nhận ra, hương rượu còn để lại vị đắng chát trên đầu lưỡi. Và những đau khổ, chua xót sau cơn say càng đc.nhân lên vạn lần. Cụm từ này đã cho ta thấy một vòng luẩn quẩn, đầy bế tắc rất đỗi xót xa của tác giả. Bà cứ bị đẩy qua đẩy lại liên hồi trong vòng tuần hoàn nghiệt ngã của số phận. Và ta nhớ đến một hình ảnh bẽ bàng tủi nhục của nàng Kiều ngày nào "Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh/ Giật mình mình lại thương mình xót xa.." Đến câu thơ tiếp theo, nỗi đau lại tiếp tục được thể hiện rõ ràng và đậm nét. "Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn"_Có vẻ như Hồ Xuân Hương đã ngồi một mình bên chén rượu như thế đến hết đêm, đến tận khi “mặt trăng bóng xế”, nhường chỗ cho một ngày mới. Bà cứ ngồi uống rượu và ngằm trăng như vậy, như mong chờ một sự đồng cảm và sẻ chia. Nhưng bà đã nhìn thấy j`? Một sự đồng cảm chăng? Hay bà chỉ thấy số phận dở dang của mình đang hiện diện trong một vầng trăng khuyết? Trăng vốn là một biểu tượng của hạnh phúc, là hình ảnh đại diện cho cho những ước mơ và hy vọng. Nhưng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương lại xót xa đến mức “khuyết chưa tròn”, một hạnh phúc không hề trọn vẹn,một cuộc đời còn dang dở với những éo le, trắc trỏ trong tình duyên. Hạnh phúc của bà chỉ như vầng trăng khuyết mà bà không thể biết ngày mai trăng sẽ lại khuết tiếp hay sẽ tròn. Ánh trăng sáng mà lạnh lẽo vô cùng khi ẩn hiện trong nó một nỗi cô đơn, trống vắng.Và “bóng xế” đi kèm với trăng lại gợi nên một nỗi niềm trong lòng tác giả: nỗi lo sợ trước tuổi thanh xuân đang mất đi. Trăng đã xế mà vẫn khuyết chưa tròn, giống như tuổi xuân của Xuân Hương đang dần mất đi mà tình duyên vẫn không được trọn vẹn. Hình ảnh mặt trăng là hình ảnh ẩn dụ vô cùng độc đáo và đặc sắc, miêu tả chính xác và vô cùng sinh động ngoại cảnh mà cũng bộc lộ được tâm cảnh, những suy nghĩ, tâm tư đang hiện hữu trong lòng bà.
Nhưng dù có thất vọng, dù có đau xót, chán chường đến mức nào, Hồ Xuân Hương vẫn là một người phụ nữ đầy bản lĩnh. Và sâu thẳm trong tâm trí bà, dù yếu ớt đến đâu vẫn luôn lóe lên một ánh lửa khát khao, hy vọng, không chịu khuất phục mà muốn vùng lên thay đổi cuộc sống của mình. Hai câu thơ tiếp theo đã nói lên điều ấy:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
 
S

silvery21

nữa nek`

d

Mới nghe qua hẳn ai trong chúng ta cũng không khỏi phê phán tư tưởng lỗi thời, lạc hậu chứa đựng trong câu nói trên, bởi một lí do đơn giản, chúng ta đang sống trong một xã hội công bằng bình đẳng. Tuy nhiên, sẽ chẳng có gì đáng nói nếu đây là một xã hội phong kiến bất công,khi mà quan niệm kia vẫn còn phổ biến rộng rãi. Đã sinh ra làm kiếp con người.\, ai mà không phải trải qua những thăng trầm, sóng gió, ai mà không nếm qua những cay đắng trong cuộc sống để rồi mới đạt được tới chân của hạnh phúc.Nhưng xưa kia, khi hạnh phúc đối với người đàn ông bao la rộng lớn bao nhiêu thì với người phụ nữ, người vợ_ những người đã hết mình cống hiến cho gia đình, xã hội lại hạn hẹp và thu gọn bấy nhiêu. Những nỗi thống khổ ấy đã có rất nhiều thi sĩ thấu hiểu. họ gửi lòng cảm thông, trân trọng, tiếc thương sâu sắc của mình qua nhiều tác phẩm và cũng đã rất khéo léo khi xây dựng lên một hình ảnh người phụ nữa Việt Nam đảm đang, không những đẹp về hình thức mà còn rất đẹp về tâm hồn,nhưng phải chịu cuộc đời long đong, lận đận, vất vả, thân phận trôi nổi, bèo bọt với bao oan khiên trước sự vùi dapạ của xạ hội phong kiến. Một trong những tác phẩm ấy hẳn phải kể tới “ tự tình (II) của nữ sĩ Hồ Xuân Hương và “ thương vợ” của nhà thơ trào phúng trần tế xương.
Trong xã hội phong kiến thối nát và hoang tàn, những ngừoi phụ nữ bé nhỏ không được coi trọng, cuộc đời thì long đong lận đận,duyên tình trái ngang , có tài mà không được coi trọng ( Hồ Xuân Hương), hay cũng như việc làm của người vợ “ tú bà” ít được cảm thông dù cho quanh năm vất vả. Họ như những con thiêu thân, những con thoi mải miết dệt hoa cho đời không ngừng nghỉ để đổi lấy gì? Chả là gì cả? Họ chỉ đổi được nhiều thọt thòi , nhìu đau khổ bế tắc cho chính mình.Họ cống hiến hết cho cuộc đời mà khồn hề đòi hỏi quyền lợi ngoài tấm lòng cảm thông, chia sẻ và chút hạnh phúc riêng của mình:
“ Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Giữa đêm thanh vắng, tiếng trống canh vang lên, xa dần, xa dần, xa dần… để lại một người phụ nữ ngồi quạnh hiu, đơn lẻ, khung cảnh ấy mới chua xót làm sao!
Nửa đêm là thời gian sum họp vợ chồng, là thời điểm của hạnh phúc lứa đôi. Vậy mà lại có 1 ng` phục nữ tỉnh dậy vào đúng thời khắc thiêng liêng ấy, hay vì cả đêm ng` phụ nữ ấy đã không ngủ đc. vì thiếu vắng 1 điều j` đó, vì tâm trạng đang mang nặng một nỗi niềm? Tiếng trống canh âm vang từ xa vọng lại như đang thúc giục thời gian qua mau, gọi đến 1 điều vô cùng đáng sợ đối với 1 ng` đàn bà vẫn còn thân đơn gối chiếc: Tuổi già. Tuổi già càng đến gần nghĩa là hi vọng càng tuột xa, mọi mong mỏi, khát khao càng trở nên vô vọng. Tiếng trống dồn dập cứ xoáy vào tâm can tác giả, nó âm vang, trong tâm tưởng, âm vang trong suy nghĩ, hok tài nào dứt ra được. Dồn dập, hối hả, tiếng trống không chỉ bao trùm lên không gian mà còn lên cả thời gian nữa, và ta tự hỏi, đêy có thật là tiếng trống hiện hữu trong đời sống thực tại hay phải chăng đó là tiếng trống cất lên từ tấm lòng thổn thức của tác giả, tiếng trống ám ảnh về 1 bi kịch đang ngày đến gần hơn với bà….Tg trống cất lên từ tấm lòng thổn thức của tác giả, tiếng trống ám ảnh về 1 bi kịch đang ngày đến gần hơn với bà....“Trơ cái hồng nhan với nước non”_Khi thời gian cứ lướt qua càng lúc càng dồn dập, thì cũng là lúc “cái hồng nhan" ngày một “trơ” ra với đời. “Hồng nhan” là một từ dùng để chỉ nhan sắc, chỉ gương mặt xinh đẹp của ng` phụ nữ. Đó là điều mà bất cứ người phụ nữ nào có đc. cũng phải hết sức tự hào, hết sức coi trọng và nâng niu. Nhưng từ “cái” gắn liền với “hồng nhan” như một hòn đá kéo nặng cả câu thơ xuống, khi đập tan bâo nhiêu niềm tự hào, bao nhiêu trân trọng mà biến “hồng nhan” trở thành một thứ đồ vật tầm thường hok hơn hok kém. Hồng nhan để làm j` khi nửa đêm phải tỉnh giấc, trong cái trống trải lạnh lẽo đến đắng cay? Tác giả ý thức được nhan sắc của mình nhưng cũng ý thức được những bất hạnh và chua xót mà mình đã, đang và sẽ phải nếm trải.
Hồng nhan để làm gì khi nó đâu phải là vĩnh cửu mà sẽ nhanh chóng vỡ tan theo từng nhịp trống dồnVà khi nỗi đau lên đến đỉnh điểm, người phụ nữ sẽ trở nên “trơ” ra với “nước non”, với cuộc đời. Từ “trơ” được đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh sự vô kảm, lạnh lùng, thờ ơ trước những đớn đau đã trở nên quá quen thuộc. Còn j` đau xót hơn khi những bất hạnh lại trở thành một điều j` đó rất thường tình, cứ đeo đẳng, bám lấy con người ta và thậm chí khiến người ta trở nên nhàm chán, mất hết cảm xúc và trở nên trơ ra như gỗ đá? Chưa hết, từ “trơ” trong câu thơ còn mang một nghĩa khác, một hàm ý cay đắng và chua xót không kém: Trơ trọi. Tác giả nhận thấy mình hok có j` kả, hok có tình yêu, hok có hạnh phúc, chỉ đơn độc, lẻ loi một mình trong cuộc đời này. Câu thơ như một lời đay nghiến, m** mai chính mình, có hồng nhan mà phải trơ ra như thế Thật đáng thương cho số phận của nhà thơ, đáng thương cho một kiếp người tài hoa mà bất hạnh. Và cũng thật đáng thương cho những người phụ nữ đương thời bị đè nén, áp bức với những hủ tục phong kiến đến mức xơ xác, héo mòn cả một phận hồng nhan......
Nhưng, dù đáng thương, chua xót đến mức nào, chúng ta vẫn phải công nhận một “bản lĩnh Xuân Hương” rất đáng nể phục trong hai câu thơ, khi mà “trơ” hok chỉ là một sự bẽ bàng hay vô kảm mà còn là thách thức. “Trơ” kết hợp với “nước non” và “hồng nhan” đựoc xếp ngang tầm thiên nhiên vũ trụ đã cho ta thấy sự can đảm, dám đương đầu với những j` lớn lao nhất, khó khăn nhất của bà. Đó quả thật là một ý chí đáng nể phục, một bản lĩnh đáng ngưỡng mộ của Hồ Xuân Hương.
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xê khuyết chưa tròn.”

Hồ Xuân Hương uống rượu mà như uống bao giọt sầu giọt tủi, như nuốt từng giọt đắng giọt cay. Chén rượu là chén sầu mà người uống chẳng thể đổ đi đươc mà chỉ có thể lặng lẽ, âm thầm nuốt vào cổ họng, để đau khổ cũng chẳng mất đi đâu mà lại trở lại trong chính tâm trí mình. "Say lại tỉnh"_Uống rượu có thể say, nhưng sau cơn say người ta sẽ lại tỉnh. Những lần say và những cơn day ấy cư lối tiếp nhau thành một vòng tuần hoàn nghiệt ngã của số phận. Cố say, cố quên, vậy mà lúc tỉnh dậy thì thấy bao nhiêu dối trá, hững hờ của người đời vẫn còn đó, và nỗi đau khổ, bẽ bàng của mình cũng vẫn còn nguyên. Và ta chợt nhớ một hình ảnh bẽ bàng. Tủi nhục của nàng kiều ngày nào:
“ khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa”.
Trăng vốn là một biểu tượng của hạnh phúc, là hình ảnh đại diện cho cho những ước mơ và hy vọng. Thế nhưng, hp của HXH cũng như bao ng phụ nữ khác lại xót xa đến mức khuyết chưa tròn”, một hạnh phúc không hề trọn vẹn,một cuộc đời còn dang dở với những éo le, trắc trỏ trong tình duyên. Hạnh phúc của bà chỉ như vầng trăng khuyết mà bà không thể biết ngày mai trăng sẽ lại khuết tiếp hay sẽ tròn. Ánh trăng sáng mà lạnh lẽo vô cùng khi ẩn hiện trong nó một nỗi cô đơn, trống vắng. tuổi xuân của Xuân Hương đang dần mất đi mà tình duyên vẫn không được trọn vẹn. Và sâu thẳm trong tâm trí bà, dù yếu ớt đến đâu vẫn luôn lóe lên một ánh lửa khát khao, hy vọng, không chịu khuất phục mà muốn vùng lên thay đổi cuộc sống của mình. Hai câu thơ tiếp theo đã nói lên điều ấy:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn..”
:”>). Bà hok buông xuôi, hok đầu hàng mà lun cố gắng tìm cách để thay đổi vận mệnh, cho dù những cố gắng đó mới chỉ dừng lại trong suy nghĩ. những uất hận ây bị đè nén, gò ép trong lòng bà đến không chịu nổi chỉ chực vỡ òa ra, bà khao khát muốn đạp tung tất cả, muốn lật đổ mọi thứ, muốn tự do biết nhường nào. Nhưng dù sao, bà vẫn chỉ là một người phụ nữ phong kiến, một thân phận nữ nhi cô độc, dù phá phách, dù nổi loạn đến đâu thì tất cả vẫn chỉ kết thúc trong giới hạn ngôn từ. Bà không thể làm gì hơn được nữa....
Thế nhưng , những vần thơ cuối bài lại là một mạch cảm xúc hoàn toàn mới, nêu lên một chân lí mới dù cho vẫn còn chứa đựng biết bao đau thương
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con..”
Những khát khao, vùng vẫy, nổi loạn cuối cùng cũng đã bị dập tắt trong sự chán chường, bất lực. Hồ Xuân Hương đã không thể vượt khỏi thân phận mình, vị thế nhỏ nhoi cô độc của mình trong xã hội. Kết thúc bài thơ là một sự cam chịu đc. thốt lên trong một tiếng thở dài ngao ngán. Bà đã phát ngán , đã chán lắm rồi cái vòng xoáy luẩn quẩn của số phận. Càng cố bao nhiêu thì càng thất bại bấy nhiêu, hi vọng càng nhiều thì thất vọng càng lớn, càng chua xót. Bà chán ghét số phận hẩm hiu của mình, chán ghét vòng tình duyên ngang trái lun đeo đẳng, chán ghét hạnh phúc ít ỏi đến nỗi gần như không tồn tại. “Mảnh tình”, một cụm từ mang nặng nỗi trớ trêu của số phận. Tình iêu vốn là một điều j` đó thật cao cả thiên nhiên (Haiz ), Nhưng tình iêu của H2X lại như một mảnh vỡ nhỏ bé đc. sẻ ra từ hạnh phúc của ng` khác. Tình yêu của bà rẻ mạt như một sự bố thí, như một thứ đồ vật đã qua sử dụng ng` ta vứt lại cho bà. Đau xót biết mấy, khi “mảnh tình” lại là một thứ đc. chia năm sẻ bảy mà bà chỉ đc. nhận duy nhất một mảnh “tí con con”. Hạnh phúc ấy ch những không trọn vẹn mà còn nhỏ bé, ít ỏi đến mức tội nghiệp. Tình duyên như thế thì có để làm j`, chỉ cảng thêm tủi nhục đắng cay.?
Ấy thế mà, dù bị lãng quên , người phụk nữ không bao giờ tuyệt vọng,đặt một dấu chấm hết cho cuộc đoi mình. Họ vẫn vẫn khao khát sống mạnh mẽ, ước ao hạnh phúc tròn đầy. Ý niệm ấy that đáng trân trọng và cao đẹp làm sao!
 
S

silvery21

Trải qua tác phẩm Tụ tinh 2 thấm đượm nôi chua xót, đắng cay trong cuộc đời người phụ nữ của HXH, có lẽ bài thơ : “ thương vợ” của TTX đc coi là chân dung hoàn chỉnh nhất về hình ảnh người phụ nữ VN trong xã hội phong kiến, cam chịu số phận, vượt qua đắng cay để lo toan, ghánh vác việc gia đình. Và phải nói rằng, tình thương vợ saua nặng của TX thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả, gian lao, và phẩm chất cao đẹp của người vợ:
Quanh nanm buon ban o mom song
Nuôi đủ 5 con với một chồng
Ngày xưa, theo nho giáo, người ohụ nữ có bổn phận thờ chông, nuôi con. Nhưng thờ chông với bà baom hàm cả việc nuôi chồng, mặc dù đúng ra, người đàn ông là người trụ cột trong gia đình về mọi mặt. thương bà tú biết bao nhiêu khi bà xuất thân từ một gia đình gia giáo, khá giả, khi ở với cha mẹ, bà không fải chịu cảnh một nắng 2 sương, vất vả sớm hôm. Làm vợ ông tú lận đận duong khoa thi cử, không nghe nghiep nen bà đành chấp nhận cảnh sống long đong, cơ cực, nuôi chồng, nuôi con.
“ Quah năm “ là suốt cả năm.không trừ mngày nào dù mưa hay năng, quanh nam còn là nam nay tiep năm khác đến rã rời,mệt mỏi chứ đâu fai là 1 năm. Địa điểm bà tú buôn bán là mom sông, như bối cảnh hiện lên hình ảnh bà tú tần tảo, tất bật ngc xuôi , không kể tới gian nan, nguy hiểm đang rình rập để nuôi đủ năm con với một chồng”. Từ đó có thể thấy: cuộc sống vất vả, gian truân càng ngời lên phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ mà bà Tú là một ví dụ điển hình.Bà thực là ng phu nữ đảm đang, tháo vát khi nuoi đủ cả con, cả chồng,đảm bảo đến mức:
“ Cơm hai nửa” Cá kho rau muống
Quà một chiều: Khoai lang, lúc ngô” ( thầy đồ dạy học).
Thế nhưng đê đạt đc những điều đó, bà tú đã phải cố gắng, phải lo rất nhiều, lsmf rất nhiều, nhẫn nhịn cũng rất nhiều
‘’ lan loi than co khi quãng văqngs
Eo sèo mặt nc buổi đò đông”
Thấm thia noi gian lao của vợ, tú xương mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà tú đầy tội nghiệp, không biết tự lúc nào đãc hoa thành thân cò để lặn lội nơi sông nước eo sèo, nơi quãng vắng thưa người, gợi lên một noi đau thân phận không riêng của bà tú mà là của biết bao người phụ nu trong xã hội đương thời.
Trong ca dao nguoi mẹ tưng dặn con:
“ con oi nho lay cau nay
Song sau cho loi, do day cho qua”
“ buoi đò đông” không chủi có loim phàn nàn, cáu gắt, những sự chen lấn xô đẩy mà còn chứa đựng đầy bat trắc hiem nguy. Tất cả đó đã làm noi bật lên hình ảnh bà Tú đã vất vả, đơn chức lại thêm sự bươn bả trong làm ăn, Vậy mà bà chẳng dám buông lấy một loi kể lể , thở than:
‘’ mọt duyên 2 nợ âu đành phận
5 nang 10 mưa dám quản công”
Như vậy có thể nói bà tú đã châp nhan, đã thuận theo lòng trời,hay noi dung hon, bu0c phai chap nhan, thuan theo long nguoi, boi le ba la nguoi phu nu dam dang nhung cung rat muc thủy cnhung. Bà châp nhận cuộc hôn nhân duyên nợ này, cung nhu chấop nhận một ông đồ nho ngông “ 8 khoa chưa khỏi phạm trường quy”, và bà cũng đã chấp nhận nuoi chong,. Con thì nhà thơ chỉ còn biêt tụe trách mình:
“ cha me thoi doi an o bac
Co choing ho hung cung nhu hok”
Ỏ cái thời mà xã hội đã có luật không thành văn bản đối với ng phụ nữ “ xuất giá tòng phu”( lay chong theio chồng), đối với mối quan hệ vợ chồng thì “ phụ xương, phụ tùy”( chồng noíi voeự theo), thế àm có 1 nhà nho gióam sòng phẳng voi bản thân, voi cuộc đời, dam tụ thua nhận mik là “ quân ăn lương vợ”, “ ăn ở bạc”. Không nhung đã bít nhận ra thiếu sót mà còn dám tự nhanạ khuyết điểm. một con ng như thế chang đepọ lém hay sao?
Như vaỵa, nói rằng và tú alf hình ảnh ro rang nhat cho nguoi phụ nu trong xa họi VN đương thời quả không sai boi lẽ thân phận ng phụ nữ giai đoạn này là sự éo le, trac trở, khổ cực nhưng hok có lấy một sự cảm thông , chia se tu chồng, từ con.
 
S

silvery21

bai` dai` quá
típ nay`

Ta thấy, 2 bài tho trên thật là nhung vần thơ đáng quý của VHọc VN trung dại. Qua những vần thơ ấy, hình ảnh ng phụ nữ VN xưa kia hiện lên thật rĩo nét,thật đeọp đẽ, cao quí nhưng chúa đựng đầy cvhua xót, đắng cay. Tất cả đều nói chung về thân phận bé nhỏ, số phận chìm nổi, bèo bọt, bị lệ thuộc vào XHcủa người ophu nu xua kia. Phải nói, HXH va TTX da dong goiop hok nho vao tieng noi, tieng khóc cjung để đòi quyên sống, quyn tự do,hp cho 1 nửa nhân lọa_ nhung con nguoi dang ghanh vac trong trach duy tri sự sống trên trái đất.
Từ đó, ta có thể khang định rằng: vai trò, vị thế của nguoi phụ nữ XH ngày càng nâng cao va có đóng góp ngay 1 lớn cho sự phát triển chung trên mọi lĩnh vực. Song, không phải đến bây giờ, gia trị ng ohụ nữa mơi đc bộc lộ và tỏa sáng. Nếu nhin xuyen suot chiều dài lịch sủ dân tộc, ngay cả trong những thời kì đen tối của chế độ phong kiến trọng nam khinh nữ, ng ophu nu ca 1 đoèi bị rang buộc bởi biết bao lễ giáo và định kiến khắc nghiệt, họ vẫn là những viên ngọc sáng lấp lánh trong con mắt dan gian,.
 
M

meo_kon_1149

thanks các anh, chị nhìu nhung mà pài dài wá có thể tóm tắt ngắn hơn đc hông?????????????
 
B

bobo_ngocxit

eo ui văn chứ cóa fai mj' ăn liền âu naz!kag dài kag hay chứ seo ^^ maj tớ fai lem paj viết số 2 goy.....................hikhik lo we'
 
S

saodem_buon93

ít thì ko súc tích, nhiều thì dễ lan man.
bài viết của các bạn chỉ để tham khảo u đùng chép y nguyên như vậy làm j cho dài.
 
S

siengnangnhe

mình có cái này
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa qua bài Tự tình II của Hồ Xuân Hương và Thương vợ của Trần tế Xương

....Bài sưu tầm....


Những hình ảnh "lặn lội thân cò.... quãng vắng.... eo sèo mặt nước....đò đông.." thể hiện cho ta thấy vẻ đẹp của người phụ nữ, với những phẩm chất vô cùng tốt đẹp, với đức hi sinh cao cả và sự cần cù, chịu khó..... Số phận éo le của người phụ nữ được lột tả vô cùng thành công qua biểu tượng "con cò" và từ đó nó đi vào văn thơ như một "công thức ngôn từ" truyền cảm đầy tính gợi mở ấn tượng.

Bài thơ với cái nhìn táo bạo (xét riêng trong thời kì phong kiến lúc bấy giờ), nhưng cũng là một nét mới đáng yêu trong dòng văn học cổ. Tú Xương đã sử dũng những điển cố trong ca dao và đưa vào tác phẩm một cách rất khéo léo:

"thân còn lặn lội bờ ao
gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non"......


hình ảnh "con cò" trong "thương vợ" tảo tần chăm lo cho "5 con với 1 chồng" cũng chính là hình ảnh con cò lận đận với bốn bề nước non trong câu ca dao trên. và không chỉ xuất hiện những yếu tố ngụ tình sâu sắc.... cái cảm giác bâng khuân day dứt trong từng câu thơ như lôi kéo người đọc tiếp tục hành trình khám phá hình ảnh người phụ nữ trong tác phẩm. Những tác phẩm thơ ca viết về người phụ nữ cũng như số phận của họ trong XH phong kiến không phải k có, cũng k fải ít... song, để tạo ra một cái nhìn chan chứa và pha chút dí dỏm với giọng thơ tinh nghịch mà vẫn truyền tải được hết những tư tưởng và ý nghĩa của tác phẩm k phải là dễ. Thế nhưng Tú Xương đã làm đc.....

Tú Xương cũng hay thể hiện cái ngông nghênh nhẹ nhàng mà dí dỏm của mình bằng một giọng thơ mới, và cả một nét nhìn mang tư tưởng mới khác hẳn với những tư tưởng văn học cổ truyền.... Và điển hình trong những thể loại mới ấy chính là tác phẩm "thương vợ" . Ít nhà thơ nào lại viết về vợ mình với cái nhìn cảm thông, yêu thương thương và bao dung như vậy! Bạn có thể cảm thấy một tình cảm sâu sắc của nhà thơ, song cũng dễ dàng cảm nhận được những áp lực và cổ tục của lễ giáo phong kiến đang đè nặng lên đôi vai người phụ nữ ấy. Một tay người phụ nữ ấy chăm lo cho 5 con-1 chồng. Một tay người phụ nữ ấy "quanh năm buôn bán", "năm nắng mời mưa".... để rồi nhà thơ Tú Xương không còn biết dùng một từ ngữ nào có thể diễn tả hơn là "thân cò" lặn lội....
 
K

keo_dang_mk

bài này như kiểu phân tích ếy nhỉ???
chỉ cần nêu h.a nổi bật thui...ko cần phân tích đâu
 
Top Bottom