A. Mở bài:
Đoàn giải phóng quân một lần ra đi.
Nào có sá chi đâu ngày trở về.
Ra đi ra đi bảo tồn sông núi.
Ra đi ra đi thà chết cho vinh.
Khúc  hát quen thuộc từ xa chợt vọng lại gợi trong lòng chúng ta biết  bao suy  tưởng. Chúng ta như được sống lại một thời hào hùng của dân tộc  theo  tiếng hát sôi nổi trẻ trung và cũng bình dị như cuộc đời người  lính.  Không biết đã có bao nhiêu bài thơ nói về họ - những chàng Thạch  Sanh  của thế kỉ hai mươi. Tiêu biểu cho hai thời kì chống Pháp và chống  Mĩ là  hai bài thơ: “Đồng chí” của Chính Hữu và “Tiểu đội xe không  kính” của  Phạm Tiến Duật.
- Những người lính trong hai bài thơ thuộc hai thế hệ  khác nhau nhưng ở  họ có nhiều nét đẹp chung của người lính cách mạng và  của con người  Việt Nam trong các cuộc kháng chiến cứu nước.
B.Thân bài.
1.  Họ đều là những con người bình dị, mộc mạc, thấm nhuần tinh thần yêu   nước, khát vọng độc lập tự do để  đi vào cuộc chiến đấu. 
- Người  lính trong bài thơ “Đồng chí” xuất thân từ những cảnh ngộ nghèo  khó:  “nước mặn đồng chua”,  “đất cày lên sỏi đá”. Họ là những người  nông dân  vừa được cách mạng giải phóng khỏi kiếp nô lệ lầm than. Bởi  vậy, tình  nguyện ra  nhập bộ đội cầm lấy khẩu súng của cách mạng cũng  chính là cầm  vũ khí để giải phóng triệt để cho thân phận của mình, cho  quần chúng và  cho cả dân tộc.  Vì tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà  họ “mặc kệ”  tất cả,  sẵn sàng từ biệt làng quê với ruộng nương, nhà  cửa vốn hết sức  thân thiết, gắn bó để ra đi, dấn thân vào cuộc đời  người chiến  sĩ:                              Ruộng nương anh gửi bạn  thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
-  Còn người lính trong thơ Phạm Tiến Duật là những chàng trai còn rất   trẻ, có tri thức, họ sẵn sàng gác lại những ước vọng tương lai của mình   để cống hiến tuổi thanh xuân theo tiếng gọi thiêng liêng của miền Nam   yêu dấu: 
                                         “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước.
        Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.
2.Nhờ  có tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó bền chặt, chan hoà và  nhờ  lòng dũng cảm, hiên ngang, mà họ đã bất chấp  những gian khổ, thiếu  thốn  đến tột cùng để hoàn thành nhiệm vụ.
- Trên trận tuyến gay go ác liệt, các anh phải cùng chịu biết bao khó khăn gian khổ, thiếu thốn.
+  Thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp vô cùng gian nan vất vả,   các anh đã từng chịu những cơn “sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”,   cùng cảnh “áo rách vai, quần tôi có vài mảnh vá”, “chân không giầy”…   Cũng chính từ trong gian khổ và thiếu thốn của những ngày đầu tiên bước   vào quân ngũ ấy đã nẩy sinh ở họ mối tình cao đẹp – tình đồng chí! Và   chính có tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn, chia bùi sẻ ngọt mà họ   có đủ sức mạnh lớn lao để vượt qua tất cả: “thương nhau tay nắm lấy bàn   tay”. Đẹp làm sao giữa đêm rừng hoang đầy sương muối, ở nơi mà sự sống   và cái chết chỉ trong gang tấc,  những người chiến sĩ vẫn ôm súng đứng   canh gác quân thù trong đêm trăng sáng. Các anh vẫn chiến đấu và vẫn  cứ  tin có ngày chiến thắng.  Ta thấy được ở các anh một tinh thần chiến  đấu  dũng cảm kiên cường, một niềm lạc quan bất diệt.  Đời lính gian  khổ  nhưng luôn giữ mãi nụ cười dẫu cho nó cận kề cái chết. “Đầu súng  trăng  treo”, một biểu tượng đẹp của hình ảnh người lính, biểu tượng cao  quý  của mối tình đồng chí đã khắc sâu trong tâm trí mọi người. 
(Nhà thơ Quang Dũng trong bài thơ Tây Tiến cũng cho ta thấy rõ điều đó: 
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
Chính  điều đó đã giúp ta hiểu được sự quyết tâm của người lính và ta  thêm cảm  phục sự hi sinh ấy hơn. Tấm lòng của các anh thật cao đẹp và  lớn lao  biết chừng nào! Đó cũng là hình ảnh chung của những người lính  trong  thời kì kháng chiến chống Pháp - những con người bình dị mà cũng  thật  anh dũng, hiên ngang.
+ Cuộc kháng chiến chống Pháp đã giành được  thắng lợi vẻ vang với trận  Điện Biên Phủ lẫy lừng. Đất nước vẫn chưa  được bình yên, cả Miền Nam  lại chìm vào máu lửa và những người con của  quê hương lại tiếp tục lên  đường. Những anh chiến sĩ lái xe trên tuyến  đường Trường Sơn hiện lên  trong trang thơ của Phạm Tiến Duật  là những  anh lính thật ngang tàng,  yêu đời, dũng cảm, hóm hỉnh. Từng giây, từng  phút, các anh phải đối mặt  với nhiều gian khổ và sự ác liệt,  dữ dội của  bom đạn quân thù hằng  ngày trút xuống con đường và nhằm vào những chiếc  xe của họ. Những gian  khổ và ác liệt  hiện hình trong hình ảnh những  chiếc xe không kính rồi  không cả đèn, cả mui xe, thùng xe có xước, méo  mó. Gian khổ tưởng  chừng như không thể vượt qua được, cái chết như kề  bên, vậy mà lúc nào  các anh cũng “ung dung buồng lái ta ngồi. Nhìn đất  nhìn trời nhìn  thẳng”.
Mở đường Trường Sơn để xe tăng tiến vào phía  Nam thực hiện chiến dịch  Hồ Chí Minh lịch sử là giai đoạn gay go nhất,  ác liệt nhất và cũng hào  hùng nhất. Có lẽ chỉ có những chàng trai tuổi  trẻ ngạo nghễ ngang tàng  kia mới có sức thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng  cao cả này. Những chiếc  xe tưởng chừng như không thể sử dụng được vậy mà  nó vẫn tiến lên phía  trước bởi  có những nụ cười rất ngang tàng, rất  nghịch ngợm của những  anh lái xe rất phớt đời:
“Không có kính, ừ thì có bụi.
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc.
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha…”
Bằng  sự đồng cảm của một người lính và cảm xúc của một nhà thơ, Phạm  Tiến  Duật đã xây dựng nên hình ảnh những chiến sĩ lái xe thật hào hùng,  thật  tếu táo. Cái cử chỉ: “phì phèo châm điếu thuốc” và tiếng cười “ha  ha”  như một lời thách thức của họ đối với quân thù. Đó là sức mạnh thứ  nhất,  còn sức mạnh nào nữa khiến cho những chiếc xe ấy vẫn băng băng  lên phía  trước? Tác giả đã trả lời một cách mạnh mẽ và dứt khoát, trong  những  chiếc xe không kính có những trái tim yêu nước, luôn hướng về  Miền Nam  phía trước với là khát vọng cháy bỏng là  giải phóng Miền Nam,  thống  nhất đất nước: 
“Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
3.  Qua hình ảnh anh chiến sĩ Trường Sơn, chúng ta chợt nhận ra sự gần  gũi,  thân quen giữa những người lính qua các thời kì. Từ anh bộ đội cụ  Hồ  thời kháng chiến chống Pháp trong thơ Chính Hữu đến anh chiến sĩ  Trường  Sơn  thời chống Mĩ trong thơ PTD đều có chung một nét đẹp truyền  thống  kiên cường, bất khuất, dũng cảm và đầy tinh thần lạc quan yêu  đời. Với  điều kiện thuận lợi hơn, người lính thời chống Mĩ đã được trau  rèn, huấn  luyện. Các anh đã kế thừa và phát huy được tinh thần cách  mạng vốn đã  vững vàng nay lại vững vàng hơn.
 - Tuy cùng khai thác chất liệu thơ  từ đời sống thực với những chi tiết  thật đến trần trụi của cuộc sống  người lính nhưng hai bài thơ còn khác  nhau bởi bút pháp và giọng điệu  riêng của mỗi tác giả và cảm hứng nổi  bật ở mỗi bài. Cảm hứng của Chính  Hữu hướng vào vẻ đẹp của tình đồng  chí, đồng đội của người lính, còn PTD  thì lại tập trung làm nổi bật chủ  nghĩa anh hùng, tinh thần dũng cảm,  bất chấp mọi khó khăn và bom đạn  kẻ thù của những người lính lái xe.
C. Kết bài: 
  Nhìn lại những chặng đường lịch sử đã đi qua, đọc lại hai bài thơ về   người lính qua hai thời kì, trong ta bỗng dấy lên niềm xúc động lẫn tự   hào. Hình ảnh những người lính ấy trở nên bất tử và đẹp rực rỡ. Dù lớp   bụi thời gian có phủ đầy những trang sách và những đổi mới của cuộc sống   làm biến chuyển đi tất cả, nhưng hình ảnh những anh lính cụ Hồ, anh   giải phóng quân đến các anh chiến sĩ Trường Sơn vẫn sống mãi trong lòng   mọi người với một niềm cảm xúc trào dâng mạnh mẽ.