giúp nhanh

D

dinhcongqp

T

thuylona

1>
Nền văn hoá nước nhà lại vắng bóng một cây đại thụ. Đó là nhà thơ Huy Cận. Trong đời thơ và hoạt động cách mạng của mình, nhà thơ Huy Cận đã có những đóng góp to lớn đối với nền thi ca Việt Nam và để lại những ấn tượng vô cùng sâu sắc với thế hệ người Việt. Chúng tôi đã gặp gỡ một số nhà thơ, nhà văn và nhà nghiên cứu và ghi lại những nhận xét, đánh giá và tình cảm của họ với nhà thơ Huy Cận.

Cách đây ba năm, chúng tôi đã có dịp gặp gỡ nhà thơ Huy Cận khi ông vừa đi dự Đại hội thành lập Viện Hàn lâm thơ thế giới trở về. Khi đó, dù đã ở tuổi 83, nhà thơ Huy Cận vẫn đầy nhiệt huyết với cuộc đời, với thơ. Ông nói: "Nhà thơ là người phải luôn luôn gắn bó với công chúng. Thơ của tôi được công chúng yêu mến là một điều vinh dự lớn lao. Việc lập Viện Hàn lâm thơ thế giới thể hiện sự tôn vinh của thế giới đối với thơ ca, trong đó có thơ Việt Nam".

Nhiệt huyết với đời, với thơ đã được nhà thơ Huy Cận thể hiện ngay từ tập thơ đầu tay "Lửa thiêng" mà ông viết năm 21 tuổi. Trong phong trào Thơ mới hay trong những năm sau cách mạng tháng Tám, rồi đến hai cuộc kháng chiến, Huy Cận liên tục sáng tạo những vần thơ mang cảm quan rộng lớn về con người, vũ trụ, về nhân loại thế giới. Nhà thơ Đặng Vương Hưng kể rằng anh có vinh dự được tham dự một số diễn đàn thơ với nhà thơ. Mỗi lần như thế, Huy Cận đọc thơ, nói về thơ thật hào sảng. Hễ cứ nói đến thơ là ông có thể nói cả ngày, quên ăn, quên ngủ. Huy Cận thuyết phục người ta không chỉ ở tài năng sáng tạo mà trong sự nghiêm túc khi làm việc và nhiệt huyết với công việc.

Nhắc đến Huy Cận, người ta nhớ đến những tập thơ đã để lại dấu ấn rõ nét như: "Lửa thiêng" (năm 1940), "Vũ trụ ca" (năm 1943), "Trời mỗi ngày lại sáng" (năm 1958), "Đất nở hoa" (năm 1960), "Chiến trường gần, chiến trường xa" (năm 1973), "Ngày hằng sống ngày hằng thơ" (năm 1975)… Huy Cận là người chỉ viết những câu thơ, bài thơ cho riêng mình, nhưng người khác hoàn toàn có thể chia sẻ được. Trong sáng, bình tâm, thanh thản, Huy Cận "đi giữa đường… thơ" như người nông dân đi giữa đường làng. Theo nhà văn Lê Minh Khuê, Huy Cận là nhà thơ mà bà yêu mến nhất trong số các nhà thơ của nước ta. Trong những câu thơ của Huy Cận luôn có năng lượng, có "lửa"…

Huy Cận là một người yêu và trân trọng thơ, tận tuỵ với công việc, nhà thơ Nguyễn Phan Hách kể lại rằng: năm 1973, khi ông đang là một cán bộ sửa morat của Tuần báo Văn nghệ. Thứ sáu thì báo ra. Hôm đó là một chiều thứ năm, Nguyễn Phan Hách đang sửa morat lần cuối các bài viết tại nhà in thì thấy Huy Cận bước vào. Nguyễn Phan Hách rất ngạc nhiên bởi lúc đó Huy Cận đang là Thứ trưởng Bộ Văn hoá, công việc rất nhiều vậy mà đến tận nhà in. Hoá ra là ông có hai bài thơ trong số đó. Ông phải đến tận nhà in để đích thân sửa morat cho hai bài thơ của mình. Điều này cho thấy ông trân trọng những sáng tác của mình đến như thế nào.

Tài năng và quá trình lao động sáng tạo thơ ca của nhà thơ Huy Cận đã được Nhà nước ghi nhận với Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1 năm 1996). Ông còn được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm thơ thế giới năm 2001. Huy Cận là một nhà quản lý nghiêm túc và có trách nhiệm và là một nhà văn hoá lớn. Thâm trầm, đọc nhiều, hiểu biết rộng, ông đã có nhiều đóng góp trong việc giới thiệu văn hoá của Việt Nam với thế giới. Theo Giáo sư Hà Minh Đức, từ phong trào Thơ mới cho đến sau cách mạng, hai cuộc kháng chiến, rồi đến ngày nay, Huy Cận đã đi hết một đời thơ rất dài mà trong giai đoạn nào cũng có những thành công quan trọng. Bạn bè thế giới khi tiếp xúc với Huy Cận cũng đều rất quý mến, trân trọng tài năng và nhân cách sống của ông. Theo Giáo sư Hà Minh Đức, ở nhà thơ Huy Cận hội đủ 4 con người: Một là, người nông dân chất phác, hồn nhiên; Hai là, một nhà thơ lãng mạn, tài hoa và tinh tế; Ba là, một chính khách lịch lãm, một nhà quản lý nghiêm túc, có trách nhiệm và bốn là một nhà văn hoá lớn, có tầm hiểu biết rộng.

Huy Cận - một nhà thơ lớn của nước ta trong thế kỷ 20 - đã vĩnh biệt chúng ta. Tràng giang giờ đây đã trở về với biển. Con chim sơn ca đã bay đi, chỉ để lại "tiếng hót làm xanh da trời". Huy Cận đã đi xa, nhưng sự nghiệp thơ ca của ông, ngọn "Lửa thiêng" Huy Cận vẫn mãi mãi toả sáng trong lòng những người yêu thơ

===> google.com
 
T

thuylona

2>
Nói đến thơ trước hết là nói đến cảm xúc và sự chân thành. Không có cảm xúc, thơ sẽ không thể có sức lay động hồn người, không có sự chân thành chút hồn của thơ cũng chìm vào quên lãng. Một chút chân thành, một chút lãng mạn, một chút âm vang mà Chính Hữu đã gieo vào lòng người những cảm xúc khó quên. Bài thơ " Đồng chí" với nhịp điệu trầm lắng mà như ấm áp, tươi vui; với ngôn ngữ bình dị dường như đã trở thành những vần thơ của niềm tin yêu, sự hy vọng, lòng cảm thông sâu sắc của một nhà thơ cách mạng
Phải chăng, chất lính đã thấm dần vào chất thơ, sự mộc mạc đã hòa dần vào cái thi vị của thơ ca tạo nên những vần thơ nhẹ nhàng và đầy cảm xúc?

Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương nhiên,hình ảnh những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hy vọng của cả dân tộc. Mở đầu bài thơ"Đồng chí", Chính Hữu đã nhìn nhận, đã đi sâu vào cả xuất thân của những người lính:
"Quê hương anh đất mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"
Sinh ra ở một đất nước vốn có truyền thống nông nghiệp, họ vốn là những người nông dân mặc áo lính theo bước chân anh hùng của những nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa. đất nước bị kẻ thù xâm lược, Tổ quốc và nhân dân đứng dưới một tròng áp bức. "Anh" và "tôi", hai người bạn mới quen, đều xuất than từ những vùng quê nghèo khó. Hai câu thơ vừa như đối nhau, vừa như song hành, thể hiện tình cảm của những người lính. Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họp tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, những thảm cỏ xanh mướt màu,họ ra đi chiến đấu để tìm lại, giành lại linh hồn cho Tổ quốc. Những khó khăn ấy dường như không thể làm cho những người lính chùn bước:
"Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ"
Họ đến với Cách mạng cũng vì lý tưởng muốn dâng hiến cho đời. "Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình". Chung một khát vọng, chung một lý tưởng, chung một niềm tin và khi chiến đấu, họ lại kề vai sát cánh chung một chiến hào....Dường như tình đồng đọi cũng xuất phát từ những cái chung nhỏ bé ấy. Lời thơ như nhanh hơn, nhịp thơ dồn dập hơn,câu thơ cũng trở nên gần gũi hơn:
"Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí !..."
Một loạt từ ngữ liệt kê với nghệ thuật điệp ngữ tài tình, nhà thơ không chỉ dưa bài thơ lên tận cùng của tình cảm mà sự ngắt nhịp đột ngột, âm điệu hơi trầm và cái âm vang lạ lùng cũng làm cho tình đồng chí đẹp hơn, cao quý hơn. Câu thơ chỉ có hai tiếng nhưng âm điệu lạ lùng đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong lòng người đọc. Trong muôn vàn nốt nhạc của tình cảm con người phải chăng tình đồng chí là cái cung bậc cao đẹp nhất, lí tưởng nhất. Nhịp thở của bài thơ như nhẹ nhàng hơn, hơi thở của bài thơ cũng như mảnh mai hơn.. Dường như Chính Hữu đã thổi vào linh hồn của bài thơ tình đồng chí keo sơn, gắn bó và một âm vang bất diệt làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp nhất trong thơ Chính Hữu.
Hồi ức của những người lính, nhuwngxkir niệm riêng tư quả là bất tận:
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay"
Cái chất nông dân thuần phác của những anh lính mới đáng quý làm sao ! Đối với những người nông dân, ruộng nương, nhà cuarwlaf những thứ quý giá nhất. Họ sống nhờ vào đồng ruộng,họ lớn lên theo câu hát ầu ơ của bà của mẹ.Họ lơn lên trong những "gian nhà không mặc kẹ gió lung lay". Tuy thế, họ vẫn yêu, yêu lắm chứ những mảnh đất thân quen, những mái nhà thân thuộc....Nhưng...họ đã vượt qua chân trời của cái tôi bé nhỏ để đến với chân trời của tất cả. Đi theop con đường ấy là đi theo khát vọng, đi theo tiếng gọi yêu thương của trái tim yêu nước. Bỏ lại sau lưng tất cả nhưng bóng hình của quê hương vẫn trở thành nỗi nhớ khôn nguôi của mỗi người lính. Dẫu răng" mặc kệ" nhưng trong lòng họp vị trí của quê hương vẫn bao trùm như muốn ôm ấp tất cả mọi kỉ niệm. Không liệt kê, cũng chẳng phải lối đảo ngữ thường thấy trong thơ văn,nhưng hai câu thơ cũng đủ sức lay đọng hồn thơ, hồn người:
"Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính"
Sự nhớ mong chờ đợi của quê hương với những chàng trai ra đi tạo cho hồn quê có sức sống mãnh liệt hơn. Nhà thơ nhân hóa"gieengs nước gốc đa" cũng có nỗi nhớ khôn nguôi với những người lính. Nhưng không kể những vật vô tri, tác giả còn sử dụng nghệ thuật hoán dụ để nói lên nỗi nhớ của những người ở nhà, nỗi ngóng trông của người mẹ đối với con, những người vợ đối với chòng và những đôi trai gái yêu nhau....

Bỏ lại nỗi nhớ, niềm thương, rời xa quê hương những người lính chiến đấu trong gian khổ:
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần anh có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày"
Câu thơ chầm chậm vang lên nhưng lại đứt quãng, phải chăng sự khó khăn, vất vả, thiếu thốn của những người lính đã làm cho nhịp thơ Chính Hữu sâu lắng hơn. Đất nước ta còn nghèo, những người linha còn thiếu thốn quân trang, quân dụng,phải đối mặt với sốt rét rừng,cái lạnh giá của màn đêm.....Chỉ đôi mảnh quần vá,cái áo rách vai, người lính vẫn vững lòng theo kháng chiến, mặc dù nụ cười ấy là nụ cười giá buốt, lặng câm. Tình đồng đội quả thật càng trong gian khổ lại càng tỏa sáng,nó gần gũi mà chân thực, không giả dối, cao xa....Tình cảm ấy lan tỏa trong lòng của tất cả những người lính. Tình đồng chí:
"Là hớp nước uống chung, năm cơm bẻ nửa
Là chia nhâu một trưa nắng, một chiều mưa
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà
Chia nhau đứng trong chiến hào chặt hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết"
( Nhớ- hồng Nguyên)
Một nụ cười lạc quan, một niềm tin tất thắng, một tình cảm chân thành đã được Chính Hữu cô lại chỉ với nụ cười - biểu tượng của người lính khi chiến đấu, trong hòa bình cũng như khi xây dựng Tổ quốc, một nụ cười ngạo nghễ, yêu thương, một nụ cười lạc quan chiến thắng...
"Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giác tới"
Nhịp thơ đều đều 2/2/2 - 2/2/3 cô đọng tất cả nét đẹp của những người lính. Đó cũng chính là vẻ đẹp ngời sáng trog gian khổ của người lính. Vượt lên trên tất cả, tình đồng đội, đồng chí như được sưởi ấm bằng những trái tim người lính đầy nhiệt huyết. Vẫn đứng canh giư cho bầu trời Việt Nam dù đêm đã khuya, sương đã xuống, màn đêm cũng chìm vào quên lãng. Hình ảnh người lính bỗng trở nên đẹp hơn, thơ mộng hơn. Đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu. Xem vào cái chân thực của cả bài thơ,câu thơ cuối cùng vẫn trở nên rất nên thơ:
" Đầu súng trăng treo"

Ánh trăng gần như gắn liền với người lính:
" Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ"
( Ánh trăng- nguyễn Duy)
Một hình ảnh nên thơ, lãng mạn nhưng cũng đậm chất chân thực, trữ tình. Một sự quyện hòa giữa không gian, thời gian,ánh trăng và người lính. Cái thực đan xen vào cái mộng, cái dũng khí chiến đấu đan xen vào tình yêu làm cho biểu tượng người lính không những chân thực mà còn rực rỡ đến lạ kì. Chất lính hòa vào chất thơ, chất trữ tình hòa vào chất Cách mạng, chất thép hòa vào chất thi ca. Độ rung động và xao xuyến của cả bài thơ có lẽ chỉ nhờ vào hình ảnh ánh trăng này. Tình đồng chí cũng thế, lan tỏa trong không gian, xoa dịu nỗi nhớ, làm vơi đi cái giá lạnh của màn đêm. người chiến sĩ như cất cao tiếng hát ngợi ca tình đồng chí. Thiêng liêng biết nhường nào, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ sát cạnh vai nhau " kề vai sát cánh" cùng chiến hào đấu tranh giành độc lập.

Quả thật, một bài thơ là một xúc cảm thiêng liêng, là một tình yêu rộng lớn, trong cái lớn lao nhất của đời người. Gặp nhau trên cungf một con đường Cách mạng, tình đồng chí như được thắt chặt hơn bằng một sợi dây yêu thương vô hình.

Bài thơ " Đồng chí" với ngôn ngữ chân thực, hình ảnh lãng mạn, nụ cười ngạo nghễ của các chiến sĩ đã lay động biết bao trái tim con người. Tình đồng chí ấy có lẽ sẽ sống mãi với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hôm nay, ngày mai hay mãi mãi về sau.....

===> google.com
 
Top Bottom