Văn 9 Đồng Chí (Chính Hữu)

xuanle17

Cựu Mod Ngữ Văn
Thành viên
14 Tháng chín 2018
805
1,015
181
26
Thừa Thiên Huế
Đh sư phạm huế
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

ĐỒNG CHÍ
I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả
- Tên thật: Trần Đình Đác. Bút danh: Chính Hữu
- Là nhà thơ – chiến sĩ trong suốt thời gian chống Pháp – Mỹ
- Sáng tác: chủ yếu tập trung vào hình ảnh người lính trong hai cuộc kháng chiến. Đặc biệt là tình cảm đồng chí, đồng đội, sự gắn bó của tiền tuyến với hậu phương.
- Phong cách thơ: Bình dị, cảm xúc dồn nén, vừa thiết tha, trầm hùng lại vừa sâu lắng, hàm súc.
2. Tác phẩm
Chính Hữu(1926 - 2005) là nhà thơ quân đội trưởng thành từ hai cuộc KC chống
Pháp và chống Mỹ)
3. Thời gian:
Bài thơ sáng tác mùa xuân 1948, thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Bài thơ được đánh giá là tiêu biểu của thơ ca kháng chiến giai đoạn 1946 – 1954, nó đã làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu
4. Thể loại: Thơ tự do
5. Nội dung và nghệ thuật
- Nội dung: Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng của những người lính CM. Đồng thời còn làm hiện lên hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Nghệ thuật: Bài thơ sử dụng những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng và giàu sức biểu cảm.
6. Nhan đề
Từ sau CM tháng Tám 1945 “đồng chí” là cách xưng hô quen thuộc trong các cơ quan, đoàn thể CM, đơn vị bộ đội. Vì vậy, tình đồng chí là bản chất cách mạng của tinh thần đồng đội và thể hiện sâu sắc tình đồng đội.
7. Bố cục: 3 phần
- Đoạn 1 (7 câu thơ đầu): Cơ sở hình thành tình đồng chí của những người lính
- Đoạn 2 (10 câu thơ tiếp theo): Những biểu hiện của tình đồng chí và sức mạnh của tình cảm ấy ở những người lính.
- Đoạn 3 (3 câu kết): Biểu tượng đẹp về tình đồng chí

II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
1. Đoạn đầu (7 câu đầu)
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”​
Hai câu thơ đầu tiên Chính Hữu giới thiệu quê hương “anh và tôi” - những người lính cùng chung xuất thân từ nông dân. “Nước mặn đồng chua” là vùng đất ven biển nhiễm phèn khó làm ăn, “đất cày lên sỏi đá” là nơi đồi núi, trung du, đất bị đá ong hóa, khó canh tác. Hai câu tiếp này tác giả đã đề cập đến vấn đề đất đai. Đây là vấn đề mà ai là nông dân cũng phải quan tâm ít nhiều. Chính sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân nghèo khó ấy chính là cơ sở sự đồng cảm giai cấp của những người lính cách mạng.
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”​
Tự phương trời tuy chẳng quen nhau nhưng cùng tham gia chiến đấu giữa họ nảy nở một thứ tình cảm cao đẹp là tình đồng chí. Tình cảm ấy không phải là cùng cảnh ngộ mà còn là một sự gắn kết trọn vẹn về cả lý trí, lẫn lý tưởng và mục đích cao cả: sống, chiến đấu giành độc lập tự do cho tổ quốc.
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”​
Tình đồng chí còn được nảy nở và trở nên bền chặt trong sự chan hòa chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui, nỗi buồn. Đó là mối tình tri kỷ của của những người bạn chí cốt được biểu hiện bằng hình ảnh cụ thể,, giản dị mà hết sức gợi cảm “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. “Chung chăn” có nghĩa là chung cái khắc nghiệt của cuộc đời người lính, nhất là chung hơi ấm để vượt qua cái lạnh, mà sự gắn bó đó là thành thật với nhau. Câu thơ đầy ắp và ấm áp tình đồng chí, đồng đội.
Có sự chuyển đổi đại từ nhân xưng: đầu tiên là “anh” và “tôi” như một kiểu xưng danh khi mới gặp gỡ, dường như vẫn là hai thế giới riêng biệt. Đến “đôi người” là những “đôi người xa lạ” và rồi đã biến thành đôi tri kỉ - một tình bạn keo sơn gắn bó. Và cao hơn nữa là đồng chí. Như vậy, từ rời rạc, riêng lẻ, hai người đã dần nhập chung, thành một, khó tách rời.
Hai tiếng “Đồng chí !” kết thúc khổ thơ thật đặc biệt, sâu lắng chỉ với hai chữ “đồng chí” và dấu chấm cảm, tạo một nét nhấn như một điểm tựa, điểm chốt, như đòn gánh, gánh hai đầu là những câu thơ đồ sộ. Nó vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định, một tiếng gọi trầm, xúc động từ trong tim, lắng động trong lòng người về 2 tiếng mới mẻ, thiêng liêng ấy.
2. Mười câu thơ tiếp theo (diễn tả những biểu hiện cụ thể về vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí đồng đội)
Giữa những người đồng chí, họ có sự cảm thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng thầm kín :
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”​
Với người nông dân, ruộng nương, căn nhà là cả cơ nghiệp, là ước mơ ngàn đời của họ; họ luôn gắn bó, giữ gìn và chắt bóp cho những gì mình có. Vậy mà họ đã gác lại tất cả để đi ra đánh giặc. Câu thơ “Gian nhà không mặc kệ gió lung lay” hết sức tạo hình và biểu cảm. Để cả cơ nghiệp của mình hoang trống mà ra đi biết người thân ở lại trống trải nhưng cũng mặc kệ thì đó quả là sự hi sinh lớn lao và đó cũng là quyết ra đi mà không hề dửng dưng vô tình. Phải chăng chỉ có những người cùng cảnh ngộ mới có thể hiểu nhau đến thế. Các anh hiểu rõ lòng nhau và còn hiểu rõ nỗi niềm ngưởi thân của nhau ở hậu phương: “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”, “ Giếng nước” “gốc đa” là hình ảnh hoán dụ về quê hương, về người thân nơi hậu phương của người lính. Như vậy, Câu thơ nói quê hương nhớ người lính mà thực chất là người lính nhớ nhà, nỗi nhớ hai chiều ngày càng da diết. Người lính có thể vì vậy mà sẵn sàng chia sẻ với nhau mọi tâm tư, nỗi niềm, chia sẻ cả những chuyện thầm kín, riêng tư nhất. Họ cùng sống với nhau trong kỉ niệm, trong nỗi nhớ và vượt lên trên nỗi nhớ.

Không chỉ chia sẻ cùng nhau những niềm vui, nỗi buồn hay các câu chuyện tâm tình nơi quê nhà mà họ còn chia sẻ những gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính – “Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Sống trong hoàn cảnh khó khăn, hiểm nguy lại luôn bị bệnh tật đe dọa, ngay chính bản thân người lính cũng biết rằng mình nên sống biết chia sẻ. Họ cùng thiếu, cùng rách. Đây là hoàn cảnh chung của bộ đội ta trong những năm kháng chiến chông Pháp. Những hình ảnh thơ được đưa ra rất chân thực nhưng cô đọng và gợi cảm nhằm diễn tả sâu sắc sự gắn bó đồng cam cộng khổ của các anh, giúp các anh vượt qua mọi thiếu thốn gian truân cực nhọc của đời lính.
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân tay không giày”​
Tác giả đã xây dựng những cặp câu sóng đôi, đối ứng nhau (trong từng cặp câu và từng câu), đáng chú ý là người lính bao giờ cũng nhìn bạn, nói về bạn trước khi nói về mình, chữ “anh” bao giờ cũng xuất hiện trước chữ “tôi”. Cách nói ấy phải chăng thể hiện nét đẹp trong tình cảm thương người như thể thương thân, trọng người hơn trọng mình. Chính tình đồng đội đã làm ấm lòng những người lính để họ vẫn cười trong buốt giá và vượt lên trên buốt giá.
Hình ảnh truyền cho nhau hơi ấm “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” là một cử chỉ nhỏ bé thôi nhưng chứa đựng nhiều tình cảm chân thành. Nó không phải bắt tay thông thường mà hai bàn tay tự tìm đến với nhau truyền cho nhau hơi ấm để vượt lên trên buốt giá, những bàn tay biết nói. Họ gắn bó với nhau trong đời thường để cùng gắn bó trong chiến đấu, đồng cam cộng khổ khiến tình đồng chí thêm sâu dày để đi tới chiều cao: cùng sống chết cho lí tưởng. Trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ đầy gian lao vất vả ấy, tình cảm đồng chí đã đi vào chiều sâu của sự sống và tâm hồn người chiến sỹ để trở thành những kỉ niệm không bao giờ quên. Câu thơ không chỉ nói lên tình cảm gắn bó sâu nặng của những người lính mà còn thể hiện sức mạnh của tình cảm ấy.


3. Ba câu cuối của bài thơ
(là biểu tượng đẹp nhất, giàu chất thơ nhất về tình đồng chí, đồng đội cao đẹp)
Bài thơ kết thúc bằng những hình ảnh rất đặc sắc:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”​
Ba câu thơ cuối đã dựng nên bức tượng đài sừng sững về tình đồng chí. Trên cái nền hùng vĩ và khắc nghiệt của thiên nhiên: Trong cảnh “Rừng hoang sương muối” nhưng những người lính vẫn đứng cạnh bên nhau, im lặng, phục kích, chờ giặc tới. Từ “Chờ” diễn tả tư thế chủ động. Hình ảnh của họ sát cánh bên nhau vững chãi làm mờ đi cái gian khổ ác liệt của cuộc chiến, tạo nên tư thế thành đồng vách sắt trước quân thù. Tình đồng chí khiến họ vẫn bình thản và lãng mạn bên thềm cuộc chiến đấu, thấy cuộc đời vẫn đẹp và thơ mộng ngay giữa nguy hiểm gian lao.
Hai câu thơ đối nhau thật chỉnh và gợi cảm giữa khung cảnh và toàn cảnh, khung cảnh lạnh lẽo, buốt giá. Toàn cảnh và tình cảm ấm nồng của người lính với đồng đội của anh -> Ca ngợi sức mạnh của tình đồng đội đã giúp người lính vượt lên tất cả sự khắc nghiệt của thời tiết. Tình đồng đội đã sưởi ấm lòng các anh giữa rừng hoang mùa đông và sương muối buốt giá.
Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là hình ảnh độc đáo bất ngờ, là điểm nhấn của phần 3, điểm sáng của toàn bài thơ. Hình ảnh rất thực và cũng rất lãng mạn. Hình ảnh này có thật trong cảm giác, được nhận ra từ những đêm hành quân, phục kích chờ giặc. Trong những đêm phục kích giặc giữa rừng khuya, người lính còn có thêm một người bạn nữa là trăng. Trăng treo trên nền trời, nhìn trăng treo lên trên đầu ngọn súng. Nhịp thơ ở đây là nhịp 2 -2 như gợi lên nhịp lắc của một cái gì chung chiêng lơ lửng trong bát ngát chứ không phải là cột chặt, vừa thực vừa gợi lên nhiều liên tưởng phong phú: Súng là hình ảnh của chiến tranh khói lửa, trăng là hình ảnh của thiên nhiên trong mát, của cuộc sống thanh bình. Sự hòa hợp giữa súng và trăng toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính và tình đồng đội của họ, vừa nói lên ý nghĩa cao cả cuộc chiến tranh yêu nước: Người lính cầm súng là để bảo vệ cuộc sống hòa bình, độc lập, tự do cho tổ quốc. Súng trăng là gần và xa, là chiến sĩ và thi sĩ, là thực tại và mơ mộng. Câu thơ như nhãn tư của cả bài, vừa mang tính hiện thực, vừa mang sắc thái lãng mạn, là một biểu tượng cao đẹp của tình đồng chí thân thiết.

4. Nghệ thuật
- Ngôn ngữ thơ cô đọng, hình ảnh chân thực, gợi tả, có sức khái quát cao, nhằm diễn tả cụ thể quá trình phát triển của một tình cảm.
- Giọng thơ sâu lắng, xúc động như một lời tâm tình tha thiết.
- Bài thơ đã đánh dấu 1 bước ngoặt mới cho khuynh hướng sáng tác thơ kháng chiến. Đặc biệt là cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ cách mạng, anh bộ đội cụ Hồ trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
 
Last edited:

xuanle17

Cựu Mod Ngữ Văn
Thành viên
14 Tháng chín 2018
805
1,015
181
26
Thừa Thiên Huế
Đh sư phạm huế
Đề bài: Cảm nhận về hình ảnh anh bộ đội thời kháng chiến chống Pháp.
1. Mở bài: Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm và đề cập đến hình ảnh anh bộ đội cụ hồ thời kháng chiến chống Pháp
2. Thân bài:
Bài thơ “Đồng chí” làm hiện lên hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ buổi đầu kháng chiến bình dị mà cao cả:
- Đó là những người lính xuất thân từ nông dân: “Quê hương anh nước mặn đồng chua – Làng tôi nghèo cày lên sỏi đá”.
- Họ đã sẵn sàng bỏ lại những gì thân thiết quý giá của cuộc sống nơi đồng quê để ra đi vì nghĩa lớn, nhưng vẫn nặng lòng gắn bó với đồng quê thân yêu. Họ không chỉ nhớ quê mà còn cảm nhận được nỗi nhớ từ quê hương: “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày – Gian nhà không mặc kệ gió lung lay – Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.
- Những người lính cách mạng đã trải qua những gian lao, thiếu thốn tột cùng, những “cơn sốt run người”, trang phục phong phanh giũa mùa đông giá lạnh. Họ vẫn “Cười trong buốt giá” vẫn nhìn thấy cái nên thơ lãng mạn của thiên nhiên rừng núi giũa cuộc chiến đấu gian khổ, ác liệt. Những gian lao, thiếu thốn càng làm sáng lên vẻ đẹp của người lính, sáng lên trong nụ cười của họ.
Vẻ đẹp nhất ở họ tình đồng chí, đồng đội sâu sắc, thắm thiết xuất phát từ tình yêu nước “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Đó là cội nguồn của sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả và chiến thắng. Kết tinh vẻ đẹp của người lính và tình đồng chí của họ là bức tranh đặc sắc trong 3 câu cuối bài.
3. Kết bài:
- Khẳng định lại một lần nữa vấn đề
- Trình bày quan điểm cá nhân về tình đồng chí
 
  • Like
Reactions: dangtiendung1201
Top Bottom