Văn Đề văn HKI

Cừuconxinhxắn

Học sinh mới
Thành viên
10 Tháng sáu 2017
22
5
6
21
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

bài thơ đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận làm nổi bật bức tranh người lao động mới trong 1 xã hội mới. Em hãy làm sáng tỏ điều đó bằng những hiểu biết của mình về bài thơ.
Mọi người giúp mình với, mai mình kiểm tra rồi. Cảm ơn mọi người
 

Do Thi Thu Huong

Học sinh tiến bộ
Thành viên
2 Tháng ba 2017
227
66
154
bài thơ đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận làm nổi bật bức tranh người lao động mới trong 1 xã hội mới. Em hãy làm sáng tỏ điều đó bằng những hiểu biết của mình về bài thơ.
Mọi người giúp mình với, mai mình kiểm tra rồi. Cảm ơn mọi người
Tự hào trước tài nguyên biển cả mà họ đã được làm chủ, nếu không khí lao động vô cùng khẩn trương, khí thế lao động như đoàn quân xung trận: “Dàn đan thế trận – lưới vây giăng”. Tác giả cảm nhận sâu sắc tinh thần đó ở người lao động, kết hợp với nguồn cảm hứng về thiên nhiên, vũ trụ đã tạo nên chất thơ hào hùng của cảnh đánh cá trên biển: Hình ảnh người lao động và công việc của họ mà tượng trưng là hình ảnh Đoàn thuyền đánh cáđược đặt vào không gian rộng lớn của biển trời, trăng sao để làm tăng thêm kích thước, tầm vóc, vị thế của con người:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng​
Câu thơ gợi lên giữa trời biển mênh mông, hình ảnh trung tâm, là con thuyền lướt trên biển khơi bao la. Đây là hình ảnh thơ hào hùng nhưng cũng rất thơ mộng. Vì nó có “gió” làm “lái”, có “trăng” làm “buồm” nên lướt đi giữa “biển bằng” mà tưởng như lướt trên “mây cao”. Cảnh thực mà như ảo, bởi vì Huy Cận đã thổi vào câu thơ cảm hứng lãng mạn bay bổng làm con thuyền bỗng trở nên kì vĩ, hoà vào tầm kích của vũ trụ. Qua đó, có thể hình dung người dân chài trên con thuyền ấy cũng dc nâng lên tầm những vị thần chinh phục thiên nhiên, vũ trụ. Rồi khi bình minh lên hình ảnh họ trở thành tượng đài rắn chắc tạc vào thiên nhiên lộng lẫy: Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.

Nhịp lao động cũng được thể hiện trong nhịp thơ cuồn cuộn, diễn tả rõ nhịp làm việc khẩn trương, đuổi kịp và vượt nhịp chuyển vận của thiên nhiên. Sự hài hoà giữa người lao động và vũ trụ thể hiện ở sự nhịp nhàng giữa nhịp điệu vận hành của thiên nhiên và trình tự công việc lao động của người dân chài. Khi mặt trời xuống biển, vũ trụ vào đêm cũng là lúc khởi đầu một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá. Con thuyền ra khơi làm việc giữa “mây cao”, “biển bằng”, gõ thuyền đuổi cá vào lưới cũng theo nhịp trăng sao. Đến lúc sao mờ, tức là khi đêm sắp tàn họ đã kéo lưới thu hoạch và khi họ xếp lưới ngơi tay thì cũng là lúc nắng bỗng lên (Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng). Đúng như Huy Cận đã từng tâm sự “Bài thơ của tôi là cuộc chạy đua giữa con người với thiên nhiên và con người đã chiến thắng”.
 

Ph Thủy

Học sinh
Thành viên
10 Tháng bảy 2017
28
39
21
22
Phú Thọ
THPT Chuyên Hùng Vương
Nêu cảm nhận của em về 1 trong 3 bài thơ sau:
1.Tỏ lòng (Phạm Ngũ Lão)
2.Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
3.Cảnh ngày hè ( Ng Trãi)
Có ai có bài mẫu không ạ? E cảm ơn!
 

Ngọc Đạt

Banned
Banned
TV ấn tượng nhất 2017
11 Tháng năm 2017
5,281
7,952
829
21
Lâm Đồng
THCS Lộc Nga
Nêu cảm nhận của em về 1 trong 3 bài thơ sau:
1.Tỏ lòng (Phạm Ngũ Lão)
2.Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
3.Cảnh ngày hè ( Ng Trãi)
Có ai có bài mẫu không ạ? E cảm ơn!
Mấy bài thơ trên không có trong chương trình Ngữ Văn 9 học kì á bạn, vậy sao có thể biết nội dung của nó mà cảm nhận được bạn nhỉ?
 

baochau1112

Cựu Phụ trách nhóm Văn | CN CLB Khu vườn ngôn từ
Thành viên
6 Tháng bảy 2015
6,549
13,984
1,304
Quảng Nam
Vi vu tứ phương
Nêu cảm nhận của em về 1 trong 3 bài thơ sau:
1.Tỏ lòng (Phạm Ngũ Lão)
2.Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
3.Cảnh ngày hè ( Ng Trãi)
Có ai có bài mẫu không ạ? E cảm ơn!
Em tham khảo bài văn mẫu ở đề 1 này nhé ^^
Triều đại nhà Trần (1226 – 1400) là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng nước và giữ nước của lịch sử dân tộc ta. Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông, nhà Trần đã ghi vào pho sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử.
Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử gia ngợi ca là “hào khí Đông A”. Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng — thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. “Hịch tuớng sĩ” của Trần Quôc Tuấn, “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão, “Tụng giá hoàn kinh su” của Trần Quang Khải, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu… là những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc.
Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: “Thuật hoài” và “Vãn Thượng tướng Quôc công Hưng Đạo Đại vương".
Bài thơ “Thuật hoài” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi tổ quốc bị xâm lăng. Đó là bức chân dung tự họa của danh tướng Phạm Ngũ Lão.
Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đâu vô cùng hiên ngang dũng mãnh. Câu thơ “Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu” là một câu thơ có hình tượng kì vĩ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc không gian (giang sơn) vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch sử (cáp kỉ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “bình Nguyên” ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm: cắp ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý.
Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo (tì hổ) quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Với khí thế ngút trời, đội quân “phụ tử chi binh” ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thôn Ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời. Biện pháp tu từ thậm xưng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, cao rộng như vũ trụ: “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân “Sát Thát” đánh đâu thắng đấy mà còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:
"Thuyền bè muôn đội;
Tinh kì phấp phới
Tì hổ ba quân
Giáo gươm sáng chói
(Bạch Đằng giang phú)
“Giang sơn hoành sóc, khí thôn Ngưu”.
(Vịnh Phạm Ngũ Lão – Đặng Minh Khiêm)
Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng! “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Trần Quốc Toản) – “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ Độ). “…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng” (Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên đang gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã:
“Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu”.
“Công danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, bàng tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dùng cảm. Không chỉ “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu”, mà tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu “khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thế bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững: “Non sông nghìn thuở vững âu vàng” (Trần Nhân Tông).
“Thuật hoài” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng tráng, mạnh mẽ. Ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng ki vĩ, tráng lệ, giọng thơ hào hùng, trang nghiêm, mang phong vị anh hùng ca. Nó mãi mãi là khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời Trần, sáng ngời “hào khí Đông A”.
 
  • Like
Reactions: Ye Ye

baochau1112

Cựu Phụ trách nhóm Văn | CN CLB Khu vườn ngôn từ
Thành viên
6 Tháng bảy 2015
6,549
13,984
1,304
Quảng Nam
Vi vu tứ phương
Do chủ đề này đăng trong box văn 9 á chị, với lại post #1 của chủ đề là văn 9 nên em nghĩ bạn này lớp 9 .
Chắc là bạn này là thành viên mới nên chưa biết khởi tạo topic chủ đề. Có gì để chị nhắc lại bạn ấy sau em nhé ^^
Nêu cảm nhận của em về 1 trong 3 bài thơ sau:
1.Tỏ lòng (Phạm Ngũ Lão)
2.Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
3.Cảnh ngày hè ( Ng Trãi)
Có ai có bài mẫu không ạ? E cảm ơn!
Dàn ý cho bài thơ Nhàn của nhà thơ NBK ^^
a) Đặt vấn đề
- Nói đến vẻ đẹp thiên nhiên chắc hẳn ai cũng say mê, ai cũng hứng thư skhi nói về vẻ đẹp tựa chiêm bao đó. Nếu như Nguyễn Trãi thể hiện một tâm hồn khôn khéo trước thiên nhiên “Tình như một bức phong còn kín /Gió nơi đâu gượng mở xem” thì Nguyễn Bình Khiêm lại với những nét an nhàn trước thời cuộc “một mai, một cuốc, một cần câu”
- Những vẻ đẹp thiên nhiên vùng quê thanh bình, an yên được Nguyễn Bỉnh Khiêm vẻ nên thật đơn sơ những cũng đầy chất lạ lầm trong các câu thơ được thể hiện trong bài thơ”Nhàn”
b) Triển khai
- Nếu như các nhà thơ khác vẽ nên thiên nhiên bằng ngòi bút với ngôn từ cầu kì, sắc nét diễn tả hết vẻ đẹp thiên nhiên mà người mẹ trời đất ban cho một cách cầu kì, đặc tả
Thì Nguyễn BỈnh Khiêm lại khác, ông vẻ nên một chân dung thiên nhiên thật đẹp bằng ngôn từ giản dị đến lạ thường nhưng cũng không kém phần đặc sắc
- Đọc những câu thơ đầu tiên trong bài thơ này, người đọc cảm thấy lạ, thích thú với các nét vẻ mà tác gải vẻ ra đầu tiên
+ Đầu tiên là bức tranh hiện lên với những cái được nhìn thấy hằng ngày của một con người như biết chiếm lĩnh thiên nhiên:
“ một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”
Bức tranh đơn sắc một màu hiện lên một cách phong đãng nhất, bình yên nhất, hài hòa nhất
+ Tác giả đã dùng điệp từ để nhấn mạnh mỗi cảnh vật, tô thêm chút sắc nét tỉ mỉ của bức tranh phong cảnh ấy
+ Đừng trước nó là một con ngưởi thông thái, yêu đời, yêu cuộc sông
+ Nếu như với người thường họ thấy đó là cảnh rất chi là bình thường mà mỗi ngày có thể đi qua, có thể nhìn thấy hoặc họ không cảm nhận hết vẻ đẹp của nó nhưng đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm một vị quan truốt bỏ công danh về với cảnh vật yên lành đó
+ Thì cảnh vật đó luôn đpẹ trước mắt ông, ông làm bạn với những thứ đơn sơ ấy để làm lòng mình lắng đọng lại
- Hai câu thơ tiếp như đi vào các trang viết của những người yêu thơ văn”ta dại…lao xao”
+ Ông cho ông dại khi tìm nơi vắng vẻ này mà sống, một nơi không có phù hoa, một nơi không sung sướng như chốn lao xao kia nhưng người đọc ngầm hiểu được rằng cái nơi ông cho lao xao đó là nơi ông từng trải qua ông đã nếm đủ mùi vị đắng cay nơi đó
Ông không dại làm ngược lại ông rất biết tìm nơi nào là nơi cho ông cảm giác yên bình, đẹp đẽ để hưởng thụ những năm tháng còn lại cuộc đời
- Ông hòa mình vào thiên nhiên từng chút một, đồ ăn từ thiên nhiên đến sinh hoạt cũng gắn với thiên nhiên cây cỏ
- Ông nhìn phú quý bằng ánh mắt coi thường, khinh bỉ, không đáng ông suy nghĩ, bận tâm tới
c) Kết
Nhàn là bài thơ hay và đặc sắc của Nguyễn BỈnh Khiêm, ông viết ra với những dòng thơ từ đáy lòng mình, một người yêu thiên nhiên.
 

Cừuconxinhxắn

Học sinh mới
Thành viên
10 Tháng sáu 2017
22
5
6
21
Tự hào trước tài nguyên biển cả mà họ đã được làm chủ, nếu không khí lao động vô cùng khẩn trương, khí thế lao động như đoàn quân xung trận: “Dàn đan thế trận – lưới vây giăng”. Tác giả cảm nhận sâu sắc tinh thần đó ở người lao động, kết hợp với nguồn cảm hứng về thiên nhiên, vũ trụ đã tạo nên chất thơ hào hùng của cảnh đánh cá trên biển: Hình ảnh người lao động và công việc của họ mà tượng trưng là hình ảnh Đoàn thuyền đánh cáđược đặt vào không gian rộng lớn của biển trời, trăng sao để làm tăng thêm kích thước, tầm vóc, vị thế của con người:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng​
Câu thơ gợi lên giữa trời biển mênh mông, hình ảnh trung tâm, là con thuyền lướt trên biển khơi bao la. Đây là hình ảnh thơ hào hùng nhưng cũng rất thơ mộng. Vì nó có “gió” làm “lái”, có “trăng” làm “buồm” nên lướt đi giữa “biển bằng” mà tưởng như lướt trên “mây cao”. Cảnh thực mà như ảo, bởi vì Huy Cận đã thổi vào câu thơ cảm hứng lãng mạn bay bổng làm con thuyền bỗng trở nên kì vĩ, hoà vào tầm kích của vũ trụ. Qua đó, có thể hình dung người dân chài trên con thuyền ấy cũng dc nâng lên tầm những vị thần chinh phục thiên nhiên, vũ trụ. Rồi khi bình minh lên hình ảnh họ trở thành tượng đài rắn chắc tạc vào thiên nhiên lộng lẫy: Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.

Nhịp lao động cũng được thể hiện trong nhịp thơ cuồn cuộn, diễn tả rõ nhịp làm việc khẩn trương, đuổi kịp và vượt nhịp chuyển vận của thiên nhiên. Sự hài hoà giữa người lao động và vũ trụ thể hiện ở sự nhịp nhàng giữa nhịp điệu vận hành của thiên nhiên và trình tự công việc lao động của người dân chài. Khi mặt trời xuống biển, vũ trụ vào đêm cũng là lúc khởi đầu một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá. Con thuyền ra khơi làm việc giữa “mây cao”, “biển bằng”, gõ thuyền đuổi cá vào lưới cũng theo nhịp trăng sao. Đến lúc sao mờ, tức là khi đêm sắp tàn họ đã kéo lưới thu hoạch và khi họ xếp lưới ngơi tay thì cũng là lúc nắng bỗng lên (Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng). Đúng như Huy Cận đã từng tâm sự “Bài thơ của tôi là cuộc chạy đua giữa con người với thiên nhiên và con người đã chiến thắng”.
có chắc chắn đúng ko vậy bạn, mình thấy bài này trên mạng rồi
 
Top Bottom