Đề ôn thi môn văn học kì II đây !!!

N

nhocxinh_12muh

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Tại sao có thể nói "Ngắm trăng" là một cuộc vượt ngục về tinh thần của Bác

Đề này đứa bạn thân bảo mình là có thể vào nên mình nghi nghi:khi (58)::khi (58):, mọi người cố gắng giúp mình càng nhanh càng tốt nhé, gấp lắm, sắp thi rùi:khi (15)::khi (15)::khi (68)::khi (35):
 
Last edited by a moderator:
N

nhocxinh_12muh

tại sao không ai giúp mình làm đề này vậy,:-SS:-SS:-SS mai thi rùi mà hổng bít làm:(:( tính sao đây:-S:-S
 
N

nhoc_nhoc_baby

Nhà văn Hoài Thanh có nói: “Thơ Bác đầy trăng”. Thật vậy, Bác đã viết nhiều bài thơ trăng. Trong số đó, bài “Ngắm trăng” là bài thơ tuyệt tác, mang phong vị Đường thi, được nhiều người ưa thích. Nguyên tác bằng chữ Hán, đây là bản dịch bải thơ:

NGẮM TRĂNG

“Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.

Bài thơ rút trong “Nhật ký trong tù”; tập nhật ký bằng thơ được viết trong một hoàn cảnh đoạ đầy đau khổ, từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943 khi Bác Hồ bị bọn Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ. Bài thơ ghi lại một cảnh ngắm trăng trong nhà tù, qua đó nói lên một tình yêu trăng, yêu thiên nhiên tha thiết. Đọc bài thơ đầu ẩn chứa một nụ cười thoáng hiện.

Hai câu thơ đầu ẩn chứa một nụ cười thoáng hiện. Đang sống trong nghịch cảnh, và đó cũng là sự thật “Trong tù không rượu cúng không hoa” thế mà Bác vẫn thấy lòng mình bối rối, vô cùng xúc động trước vầng tăng xuất hiện trước cửa ngục đêm nay. Một niềm vui chợt đến cho thi nhân bao cảm xúc, bồi hồi.

Trăng, hoa, rượu là ba thú vui tao nhã của khách tài tử văn chương. Đêm nay trong tù, Bác thiếu hản rượu và hoa, nhưng tâm hồn Bác vẫn dạt dào trước vẻ đẹp hữu tình của thiên nhiên. Câu thơ bình dị mà dồi dào cảm xúc. Bác vừa băn khoăn, vừa bối rối tự hỏi mình trước nghịch cảnh: Tâm hồn thì thơ mộng mà chân tay lại bị cùm trói, trăng đẹp thế mà chẳng có rượu, có hoa để thưởng trăng?

“Trong tù không rượu cũng không hoa,

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ”.

Sự tự ý thức về cảnh ngộ đã tạo cho tư thế ngắm trăng của người tù một ý nghia sâu sắc hơn các cuộc ngắm trăng, thưởng trăng thường tình. Qua song sắt nhà tù, Bác ngắm vầng trăng đẹp. Người tù ngắm trăng với tất cả tình yêu trăng, với một tâm thế “vượt ngục” đích thực? Song sắt nhà tù không thể nào giam hãm được tinh thần người tù có bản lĩnh phi thường như Bác:

“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ”…

Từ phòng giam tăm tối, Bác hướng tới vầng trăng, nhìn về ánh sáng, tâm hồn thêm thư thái. Song sắt nhà tù tỉnh Quảng Tây không thể nào ngăn cách được người tù và vầng trăng! Máu và bạo lực không thể nào dìm được chân lý, vì người tù là một thi nhân, một chiến sĩ vĩ đại tuy “thân thể ở trong lao” nhưng “tinh thần” ở ngoài lao”

Câu thứ tư nói về vầng trăng. Trăng có nét mặt, có ánh mắt và tâm tư. Trăng được nhân hóa như một người bạn tri âm, tri kỷ từ viễn xứ đến chốn ngục tù tăm tối thăm Bác. Trăng ái ngại nhìn Bác, cảm động không nói nên lời, Trăng và Bác tri ngộ “đối diện đàm tâm”, cảm thông nhau qua ánh mắt. Hai câu 3 và 4 được cấu trúc đăng đối tạo nên sự cân xứng hài hoà giữa người và trăng, giữa ngôn từ, hình ảnh và ý thơ:

“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.

Ta thấy: “Nhân, Nguyệt” rồi lại “Nguyệt, Thi gia” ở hai đầu câu thơ và cái song sắt nhà tù chắn ở giữa. Trăng và người tù tâm sự với nhau qua cái song sắt nhà tù đáng sợ ấy. Khoảnh khắc giao cảm giữa thiên nhiên và con người xuất hiện một sự hóa thân kỳ diệu: “Tù nhân” đã biến thành thi gia. Lời thơ đẹp đầy ý vị. Nó biểu hiện một tư thế ngắm trăng hiếm thấy. Tư thế ấy chính là phong thái ung dung, tự tại, lạc quan yêu đời, yêu tự do. “Ngắm trăng” là một bài thơ trữ tình đặc sắc. Bài thơ không hề có một chữ “thép” nào mà vẫn sáng ngời chất “thép”. Trong gian khổ tù đầy, tâm hồn Bác vẫn có những giây phút thảnh thơi, tự do ngắm trăng, thưởng trăng.

Bác không chỉ ngắm trăng trong tù. Bác còn có biết bao vần thơ đặc sắc nói về trăng và niềm vui ngắm trăng: Ngắm trăng trung thu, ngắm trăng ngàn Việt Bắc, đi thuyền ngắm trăng,… Túi thơ của Bác đầy trăng: “Trăng vào cửa sổ đòi thơ…”, “… Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền…”, “Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng thưo…” Trăng tròn, trăg sáng… xuất hiện trong thơ Bác vì Bác là một nhà thơ giàu tình yêu thiên nhiên, vì Bác là một chiến sĩ giàu tình yêu đất nước quê hương. Bác đã tô điểm cho nền thi ca dân tộc một số bài thơ trăng đẹp.

Đọc bài thơ tứ tuyệt “Ngắm trăng” này, ta được thưởng một thi phẩm mang vẻ đẹp cổ kính, hoa lệ. Bác đã kế thừa thơ ca dân tộc, những bài ca dao ói về trăng làng quê thôn dã, trăng thanh nơi Côn Sơn của Nguyễn Trãi, trăng thề nguyền, trăng chia ly, trăng đoàn tụ, trăng Truyện Kiều. “Song thưa để mặc bóng trăng vào”… của Tam Nguyên Yên Đổ, v.v….

Uống rượu, ngắm trăng là cái thú thanh cao của các tao nhân mặc khách xưa, nay – “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén” (Nguyễn Trãi). Ngắm trăng, thưởng trăng đối với Bác Hồ là một nét đẹp của tâm hồn rất yêu đời và khát khao tự do. Tự do cho con người. Tự do để tận hưởng mọi vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương xứ sở. Đó là cảm nhận của nhiều người khi đọc bài thơ “Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh.



Trong đề này em đi sâu vào phân tích ý "Cuộc vượt ngục tinh thần": Bác tự do rung động với vầng trăng, với cảnh đẹp bất chấp hoàn cảnh, bất chấp cái song sắt tàn bạo - biểu tượng cụ thể của nhà tù.. ..
 
U

uocmovahoaibao

Từ trước đến nay, khi phân tích, bình giảng bài thơ Vọng nguyệt của Hồ Chí Minh, nhiều người vẫn cho rằng: Đây là “cuộc vượt ngục tinh thần” của Bác, là bài thơ có chất thép. Thế nhưng, đọc lại tập Nhật ký trong tù và bài thơ Vọng nguyệt, chúng tôi thấy, phải chăng nên coi bài thơ này là sự xót xa, là nỗi buồn đau của một tâm hồn thi sĩ lớn?
Đặt vấn đề như vậy là bởi chúng tôi coi câu thơ “Hòa lệ thành thơ tả nỗi này” trong bài thơ Đêm thu là nội dung quan trọng trong quan niệm về thơ của Hồ Chí Minh ở tập Nhật ký trong tù. Bởi vì thơ trong tù của Bác là thơ tả thực-trữ tình cảnh ngộ và thân phận tù đày, là biểu lộ tình yêu và khát vọng tự do; là tiếng nói thiết tha, mạnh mẽ của tình yêu Tổ quốc, của nghị lực phi thường và tinh thần tranh đấu... Hiểu như thế, ta thấy thơ Nhật ký trong tù có rất nhiều nỗi đau, nhiều giọt lệ. Có những giọt lệ lặng lẽ xót xa cho thân phận tù đày; có những giọt lệ xót thương cho bao kiếp người đau khổ; có những nỗi đau vì tạo vật như trong bài Vãn cảnh (Cảnh chiều hôm); có những nỗi đau chất chứa sự bất bình căm giận: “Phạm tội gì đây? Ta thử hỏi/ Tội trung với nước với dân à?”...

Vọng nguyệt
Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.
Dịch nghĩa:
Trong tù không có rượu, cũng không có hoa
Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?
Người hướng ra trước song cửa ngắm trăng sáng.
Từ ngoài khe cửa, trăng ngắm nhà thơ.
Dịch thơ:
Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài của sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ
HỒ CHÍ MINH
(Rút trong tập “Nhật ký trong tù”. Viện Văn học dịch, chỉnh lý và bổ sung. NXB Văn học-1990)
Xuất phát từ một cách nhìn như thế, chúng tôi cho rằng, nên tiếp cận và phân tích bài thơ Vọng nguyệt từ quan niệm “Hòa lệ thành thơ tả nỗi này” của Hồ Chí Minh. Tuy thế, chúng tôi cũng xin được nói thêm một điều: Chuyện “hòa lệ thành thơ tả nỗi này” cũng cần được hiểu một cách linh hoạt. Trong bài Bệnh trọng (Ốm nặng), Bác viết: “Bản ưng thốc khống bước cuồng ca” (Đáng khóc mà ta cứ hát tràn). Về điểm này, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh có một ý kiến khá chí lý: “Hát tràn” dịch chữ “cuồng ca”. Nhưng “Cuồng ca” đâu phải là hát vui. Đó là nỗi đau khổ không cùng mà tiếng khóc không thể nào bày tỏ cho hết được”.

Trở lại với bài thơ Vọng nguyệt, trước hết nói về chữ “vọng” và chữ “khán” trong bài thơ. Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh thì hai chữ “vọng nguyệt” có các nghĩa: mặt trăng đúng rằm; ngửa mặt lên trông mặt trăng. Còn chữ “khán” có các nghĩa: xem; giữ gìn; đãi ngộ. Nhà thơ Vũ Quần Phương trong cuốn “Thơ với lời bình” (NXB Giáo dục-1997) có viết: “Nhân-nguyệt rồi nguyệt-thi gia ở hai đầu câu thơ, cái song sắt chắn giữa. Trong mối tương giao tri kỷ tri âm giữa con người và vầng trăng, cái song sắt hiện lên thật thô bạo nhưng bất lực”. Đây là một nhận xét khá xác đáng. Nếu ta quan niệm tứ thơ như một hình ảnh thơ đặc sắc, khám phá được bản chất hiện thực cuộc sống, kết tinh được tư tưởng, tình cảm và tài năng sáng tạo của nhà thơ, có khả năng tạo ra những rung động thẩm mỹ, thì hình ảnh người tù cách mạng trông trăng trong cảnh ngục tù là một tứ thơ hay, đầy cảm xúc tâm trạng và rất giàu ý nghĩa. Mở đầu bài thơ, tác giả nêu lên một nhận xét rất tự nhiên “ngục trung vô tửu diệc vô hoa”. Nhưng cảnh đêm nay đẹp. Người tù lại là người rất yêu trăng, yêu cái đẹp của thiên nhiên. Bởi thế, câu thơ “Đối thử lương tiêu nại nhược hà” như một lời lý giải và biểu hiện khoảnh khắc bối rối rất thi sĩ của Hồ Chí Minh. Rõ ràng lời thơ dịch “Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ” chưa thể hiện được nét tâm trạng rất điển hình này. Ba chữ “nại nhược hà” (biết làm thế nào) trong bối cảnh mà lời thơ nguyên tác gợi ra hiển hiện rất rõ vẻ bối rối trong tâm trạng của người tù thi sĩ. Câu thơ thứ hai phải chăng là vẻ “bồn chồn náo nức” (chữ dùng của Hoài Thanh)? Thực ra trong câu thơ ấy ẩn chứa một nỗi buồn lặng lẽ, sâu lắng, một nỗi xót xa của một tâm hồn thơ giàu tình yêu cái đẹp của vầng trăng thiên nhiên. Nhịp thơ 4/3, hạ thấp giọng ở ba chữ “nại nhược hà” nói rõ thêm điều đó.
Ở hai câu thơ kết tác giả viết: “Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt/ Nguyệt tòng song khích khán thi gia”. Chữ “hướng” trong nguyên tác gắn với cử chỉ người nhìn trăng, còn chữ “tòng” gắn với hành động của trăng (đã được nhân hóa). Giữa trăng và người là cái song sắt nhà tù. Người phải hướng tầm mắt ra ngoài song sắt để nhìn trăng sáng. Trăng theo khe cửa để nhìn nhà thơ. Ý thơ là như thế, làm sao có thể nói rằng bài thơ là cuộc vượt ngục tinh thần của Hồ Chí Minh được? Về hai câu thơ này, giáo sư Trần Đình Sử có lời bình hợp lý hơn: “Người tù chủ động hướng ra cửa ngục để ngắm trăng sáng. Và lạ chưa, dường như trăng cũng muốn đến với con người, cảm động vì tình người và nhận ra đó là một nhà thơ”. Như vậy, giữa trăng và người tù thi sĩ có một cuộc đối thoại im lặng trong tù ngục. Và ẩn sâu trong cuộc đối thoại im lặng ấy là một nỗi buồn sâu sắc, một niềm đau. Bởi vì, người tù Hồ Chí Minh là một người có tâm hồn thi sĩ, dễ rung cảm trước cái đẹp của vầng trăng thiên nhiên. Người thi sĩ ấy rất yêu trăng mà không được tự do thưởng thức cái đẹp của vầng trăng thiên nhiên. Phải trông trăng (vọng nguyệt) qua song sắt nhà tù chẳng phải là một nỗi buồn, một niềm đau của người tù thi sĩ đó sao? Nếu ta muốn nói đến một cuộc vượt ngục tinh thần của Hồ Chí Minh ta phải tìm đến những tứ thơ khác ở Nhật ký trong tù.
Bài thơ Vọng nguyệt, còn biểu hiện lòng khao khát được tự do của Hồ Chí Minh. Một nhà nghiên cứu đã nói rất đúng rằng: Hình ảnh vầng trăng trong thơ Nhật ký trong tù thường gợi nhiều cảm xúc và khát vọng tự do. Vọng nguyệt-ngửa mặt lên trông mặt trăng qua song sắt nhà tù với tâm trạng khao khát tự do-thể hiện nỗi buồn đau của một tâm hồn lớn. Hiểu bài thơ là nỗi buồn, là niềm đau như thế giá trị của bài thơ không hề giảm đi. Trái lại, càng làm cho ta thấm thía hơn nỗi lòng yêu quý của thi nhân với vầng trăng tri kỷ, với tự do. Đó cũng là một biểu hiện phẩm chất của Danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh đã được thế giới ngợi ca và tôn vinh.


______________
Tham khảo nhá! Nếu thấy có ích thì click "Đúng" hoặc thank hộ mình ^^
Nguồn: net
 
Top Bottom