Cùng với chiếc áo dài của người phụ nữ nông dân đương thời quanh năm lo việc đồng áng, hay chiếc áo bà ba của người miền Tây Nam Bộ sớm chiều ngược xuôi trên chiếc xuồng ba lá, với sông nước mênh mông, chiếc nón lá luôn theo chân người Việt Nam dãi dầm mưa nắng. Và cũng từ lâu, chiếc nón lá đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong trang phục của người phụ nữ Việt Nam.
Chiếc nón lá xuất hiện từ khi nào không ai biết, chỉ biết rằng hình ảnh của nó được chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trống đồng Đông Sơn, trên thạp đồng Bảo Thịnh từ 2500-3000 năm về trước. Điều đó cũng cho thấy từ rất lâu đời, ông cha ta đã biết lấy lá buộc lại làm vật che mưa, che nắng và cũng từ đó, chiếc nón lá được hình thành.
Nón dùng để đội đầu, hình chóp tròn, được lợp bằng lá, màu trắng. Thường có dây đeo bằng vải mềm hoặc nhung, lụa để giữ trên cổ. Tuy thật đơn sơ, giản dị, nhưng để làm ra một chiếc nón lá vừa bền, vừa đẹp là cả một quá trình, yêu cầu người làm ra phải thật khéo léo và tỉ mỉ.
Ngày nay, hình ảnh chiếc nón lá trở nên quan thuộc và gần gũi đối với mỗi con người, nhưng có ai biết rằng để có cái nón lá để đội đầu, che nắng che mưa ,và để làm duyên nữa, ngày xưa ông cha ta đã tốn bao tâm sức để nghĩ ra và làm nên? Phải nói rằng người Việt nam từ nông thôn đến thành thị, ai cũng đã từng sự dụng qua chiếc nón lá, nhưng mấy ai quan tâm chiếc nón có bao nhiêu vành, đười kính rộng bao nhiêu? Nguyện liệu làm nón không phứ tạp. Nơi nào cũng vậy, để lam được một chiếc nón lá phải dùng lá của một loại cọ nhỏ mọc hoang, dùng sợi nón, một loại sợi rất dai lấy từ bẹ cây móc (ngày nay người ta hay sử dụng sợi chỉ nilon) và tre. Nóc Chuông có 16 lớp vành. Con số 16 là kết quả của quá trình nghiên cứu, lựa chọn qua nhiều năm, cho đến ngày nay đã trở thành một nguyên tắc không thay đổi. Nhưng vẻ đẹp của chiếc nón chuyếu nhờ vào đôi bàn tay khéo léo của nguời thợ tạo nên. Người thợ khâu nón được ví như người thợ thêu. Vòng tre được đặt lên khuông sắn, lá xếp vào khuôn xong là công việc của người khâu.Những mũi kim khâu được ước lượng mà đều như đo. Những sợi móc dùng để khâu thường có độ dài, ngắn khác nhau. Muốn khâu cho liên tục thì gần hết sợi nọ phải nối tiếp sợi kia. Các múi nối sợi móc được dấu kín, khiến khi nhìn vào chiếc nón chỉ thấy tăm tắp những mũi khâu mịn màng. Sợi móc len theo từng mũi kim qua 16 lớp vòng thì chiếc nón lá duyên dáng đã thành hình.
Nón như vậy đã có mặt lâu đời ở nước ta. Từ khi có mặt với chức năng là “cái nón”, thì chiếc nón đã theo chân người nông phu ra đồng, theo người phụ nữ đi sớm về trưa, được bà dùng để quạt đưa cháu vào giấc ngủ, được các bà mẹ vỗ về đội vào đầu và nắm tay dìu con đến trường. Nón cùng với người lính thú xông pha ngoài chiến trận, nón theo tài tử giai nhân đi trẩy hội, nón theo cung phi vào cung cấm, nón theo các nàng công chúa, các bà hoàng đi chùa cầu duyên cầu tự. Nón cũng được các bà mẹ sụt sùi nước mắt đặt nhẹ lên đầu người con gái thương yêu trước khi lên xe hoa về nhà chồng... Trong những năm chiến tranh, tiễn người yêu ra chiến trường, các cô gái thường đội nón với quai màu tím thủy chung. Chỉ vậy thôi đã hơn những lời thề non hẹn biển, làm yên lòng người ra trận .Chiếc nón có mặt trong sách vở thi ca, qua câu hò tiếng hát của người bình dân để ngợi ca tình yêu trai gái... và chiếc nón thực sự trở thành một phần trong đời sống vô cùng đẹp và lãng mạn của người mình. Có lẽ không ở nơi đâu có nhiều nữ sinh duyên dáng với mái tóc đen dài óng ả phủ kín bờ vai, với tà áo dài trắng tha thướt và chiếc nón bài thơ e ấp như ở Huế. Mỗi buổi tan trường, các cô nữ sinh Đồng Khánh ngày xưa, với cả rừng nón nhấp nhô, làm đẹp các ngả đường và tạo nét đẹp lãng mạn trên vai cầu Trường Tiền bắc qua dòng sông Hương xanh biếc. Những cô gái Huế thường thẹn thùng kéo nón che nghiêng ấy đã khiến bao tâm hồn phải bâng khuâng :
Sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón?
Chiều mùa thu mây che có nắng đâu.
(Trần Quang Long
Đối với người dân quê chiếc nón lá màu ngà có biết bao công dụng. Ngoài việc dùng nón thường xuyên để che mưa, che nắng, bác nông dân hay bà mẹ quê, mỗi khi lỡ đường, khát nước, chỉ việc ghé xuống sông dùng nón múc nước uống, giản tiện vô cùng. Giải cơn khát xong, nón lại được phe phẩy quạt để tìm chút hơi mát, nhất là khi phải đi đường xa trong những ngày mùa hè nóng nực. Bên một cánh đồng, em bé chăn trâu nằm dưới gốc cây, cả bác thợ cày cũng vậy, dùng nón che mặt, để tránh nắng, vừa ngăn ruồi muỗi khỏi quấy rầy giấc ngủ trưa hiền hòa...
Ấy, chiếc nón lá đơn sơ mà bình dị, theo bước con người trên mọi nẻo đường đi, mang vào đó sự hiền hòa, thủy chuyng, son sắt , chút thơ mộng của một thời tuổi trẻ, như một biểu tượng vô cùng đẹp đẽ trong tiềm thức của con người và đất nước Việt Nam.
Một người Việt Nam xa xứ, là giáo đang giảng dạy ở đại học Washington, Hoa Kì đã có suy nghĩ rất hay về chiếc nón lá:Tôi đã đi khắp bốn phương trời, đã thấy nhiều kiểu nón, kiểu mũ của nhiều đất nước và nhiều dân tộc thiểu số, nhưng chưa thấy chiếc nón nào gồm đủ sắc thái bình dị và đoan trang yêu kiều, duyên dáng, đơn sơ và thực tiễn như chiến nón lá Việt Nam. Chiếc nón lá đâu chỉ là vật tiện dụng mà còn là nét đẹp thầm kín của văn hóa Việt Nam, sẽ còn tồn tại mãi, dù cuộc sống có đổi thay, nó sẽ luôn là lời gọi, là tiếng lòng thổn thức của những người con xa xứ, mang vào trái tim con người dấu ấn của quê hương.