Cung Oán Ngâm Khúc là một bi khúc về nỗi lòng của Nguyễn Gia Thiều (1741-1798). Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã mượn lời cung nữ để ví thân mình qua 356 câu thơ vừa thất ngôn vừa lục bát dàn trải một tâm lý thao thức,một nội tâm quằn quại như lời tự thán cho chính mình, giữa một xã hội mà tiên sinh sống và gánh chịu; không nói nên lời. Đọc hai chữ cung oán ta thấy được nỗi ngậm ngùi của cung tần mỹ nữ mà mỗi khi được tiến cử vào cung vua; có phải đó là ơn sủng hạnh phúc hay là một hiến dâng mà sự hiến dâng đó có được trọng đãi dài lâu hay chỉ một cuộc giải quyết nhất thời của đấng quân vương và rồi đây hóa thân kiếp đời chim lồng cá chậu ở cửu trùng ? Âu đó là thân phận ray rứt của Ôn Như Hầu tiên sinh. Cho nên người cung nữ mang nặng tâm tư hờn oán vì bị chối bỏ tài sắc mà không được hưởng ơn mưa móc, nhiều cung nhân ôm nỗi đau viết ra lời cung oán, hoặc các nhà thơ đặt ra lời cung oán, mượn lời cung nữ mà tỷ nghĩ thân phận mình nhất là các công thần cùng một nỗi niềm tương tợ như cung tần, nói lên sự oán hờn đối xử vua tôi, một tình đời chua cay tục vị nếm mùi tân khổ, nghĩ đến cái thân phận phù thế mà đau đớn lòng:
Khóc vì nỗi đau sự thế
Ai bày trò bãi bể nương dâu*
Đó là vấn đề thuộc phạm trù triết học nhân sinh; thuộc vũ trụ quan, vũ trụ hiện hữu như thế nào, đó là chuyện của con người và của mỗi một con người. Tâm trạng đau đớn và uất nghẹn chính là thảm kịch nội tại. Ôn tiên sinh gắn bó tâm trạng mình trong tâm trạng cung phi là một tâm trạng phản kháng nội tại giữa người với người, từ chỗ tự trách phận mình hẩm hiu bị lu mờ trước long nhan hay do sự sắp xếp của những tay cận thần dùng thủ đọan trù dập hoặc đặt điều xấu tốt, rồi biến mình trong cái vũ trụ cô đơn, bản thể đắm chìm trong thế giới biệt lập đó là tâm tư của cung nữ, là tâm tư của Nguyễn tiên sinh. Người tự cho mình như Khuất Nguyên nước Sở ngày xưa, có tài mà không trọng tài, ngược lại còn đem lòng dèm pha, bôi bác, miệt thị đi tới lãng quên; từ những thương mong đó đem lại sự phẫn uất nội tại và được cởi trói tâm thức qua một vai trò tha nhân khác nói lên nỗi đắng cay thân phận làm người; tuy nhiên sự oán ở đây là sự oán của chính mình, oán để xoa dịu tâm thức vị tha, hợp lẽ tu thân xử thế đạo luân thường. Cung oán là niềm đau thầm kín; oán mà không giận (oán nhi bất nộ), oán mà vẫn giữ được lòng trung trinh với đạo vua tôi, để hưng khởi cho chính mình. Cái “khả dỉ hưng” nói lên cái hưng-khởi-chí-khí của chính mình mà hiện hữu với hữu thể đưa lại trạng thái tâm linh, dù có được bao che, phong gấm rũ là cũng như Nguyễn Gia Thiều tiên sinh, tài sắc văn võ kiêm toàn mà quân vương có đoái hoài cho chăng? Hay vua đã lãng quên mình? Đó là nghi vấn nội tại đối với tiên sinh:
Tài sắc đã vang lừng trong nước
Bướm ong càng xao xác ngoài hiên
Nhưng nghĩ cho cùng; cuộc đời là phong ba là đớn đau nhân thế, cái thân trôi nổi ở cõi đời này là phù thế. ”Phù thế giáo một vài câu thanh nghị” (Nguyễn Công Trứ) như bèo bọt trong bể khổ lênh đênh không còn một tia sáng cho tương lai:
Gót danh lợi bùn pha sắc xám
Mặt phong trần nắng nám mùi dâu
Nghĩ thân phù thế mà đau
Bọt trong bể khổ bèo đầu bến mê
Suốt đời sống trong khiêm tốn, khép mình dưới trướng vẫn luôn luôn “mơ về” cõi sáng để chứng minh lòng trung trinh cao cả, thế nhưng phải ôm gối chiếc chốn the phòng hay lạc lõng giữa cửa quan trường; thì chính trong cái giấc mơ về với cuộc đời đã có ngay cái chết của cuộc đời. Tất nhiên đó là cái nhìn chủ thể của cung nữ về cuộc đời mà mỗi khi đi vào đời với những dự phóng khác nhau nhưng đã mang thân phận cung tần thì điều đó không thoát khỏi phủ phàng của đời cũng như sự tàn tạ, đìu hiu của số phận mà Ôn tiên sinh phải cam tâm gánh chịu với đời…
Nếu qui định số phận giữa cuộc đời của Nguyễn tiên sinh thì tất cả cái nhìn biên giới của số phận được thấy rõ: vào đời;không thấy đời mà thấy một lối khép đời và chỉ thấy ngõ cụt trước mắt mà thời gian âm thầm trôi và tàn phá. Tất cả cái “thương mong” đó chính là tự thương cho số kiếp cũng là thương cho thân phận làm người mà không bao giờ mình bằng lòng về số phận đó cả. Thành ra bao nhiêu thương mong là “thương về sau” nghĩa là thương nhận như lỡ nhận mà điều ấy vốn đã là giấc mộng không có không gian và thời gian thể hiện. Đó là nỗi đau hiện hữu của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, đó là nỗi buồn tàn tạ, đìu hiu của cung nữ. Hiện hữu như thế là không đáng sống mà đành phải sống trong cái vô-nghĩa-lý-sống; sống để trả cho xong cái gọi là túc-trái-tiền-nhân.
Vì thế trong Cung Oán Ngâm Khúc có hai đối tượng của TA. Ta cuộc đời của cung nữ là hủy hoại, chôn vùi. Ta của Ôn Như Hầu là tàn tạ, bôi bát. Tuy hai cõi sống khác nhau nhưng là một vì trong tương quan ấy ta hằng hiến dâng tất cả tâm hồn đích thực nghĩa là của một tự thế còn nguyên hương, ý nghĩa của một tấm lòng tuyệt đối, một ngọn lửa muốn soi sáng cho cuộc đời có tương quan giữa hai nỗi lòng cùng có một tâm tư khắc khoải. Đó là thương mong nhưng thực thể của cuộc đời là gì? Là phù du, là bả vinh hoa mà vinh hoa, là thuốc độc làm mồi lợi danh và hại cho kẻ công-khanh. Tất cả cái bả vinh hoa đó là mộng đưa tới lãng quên là “bất tình” chỉ còn lại bàn tay rỗng !
Giấc Nam Kha khéo bất tình
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không
Sân đào lý giâm hồng man mác
Nên đỉnh chung nguyệt gác mơ màng
Cánh buồm bể hoạn thênh thang
Cái phong ba khéo cợt phường lợi danh
Cuộc đời chỉ làm bằng những sự đã rồi, cung nữ cũng như sự đã rồi của an bài định mệnh và cái gì đã rồi là hiện hữu u-buồn, hiện hữu cô-tịch; mất tương quan thì không còn gì để cứu vãn được nữa. Con người có một ý thức về số mệnh về thân phận chung để thấy rằng không còn đợi gì được ở nơi cuộc đời, nơi cung cấm, không còn mong đợi và tự thân trở nên vô ngôn giữa cuộc đời này.
st