Dành cho những bạn thích truyện khinh dị- ma quái...

U

uocmolamnhavan

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Án mạng đêm cuối năm
__ Agatha Christie__
Luật sư Mayher chăm chú quan sát chàng trai ngồi trước mặt ông, con người bị buộc tội giết người có dự mưu.
- Voler, tôi thiết nghĩ, anh nên thành thật khai báo, tôi mới có thể bào chữa cho anh được.
- Biết nói thế nào nhỉ. Tôi không thể bị buộc một tội mà tôi không hề làm. Tôi vô tội, tôi vô tội. Ông phải hiểu điều đó.
- Vâng. Tôi đang cố gắng lo cho anh được tự dọ Nhưng mọi bằng cớ đều chống lại anh. Không phải cứ la lên là mình sẽ vô tội.
- Tôi xin thề trước Thượng đế là tôi bị nghi oan. Tôi đã rơi vào một cái lưới không thể thoát ra được.
- Anh đừng thề mà hãy nói rõ cho tôi nghe, anh quen bà Fren trong trường hợp nào?
- Hôm đó, bà Fren suýt bị xe buýt tông, nên hoảng hồn đánh rơi đồ đạc tung toé ra đường. Tôi có mặt ở đó nên đã nhặt giùm cho bà ấy. Sau đó, tôi gặp lại bà trong một bữa tiệc tại nhà người bạn. Bà nhận ra tôi, nói chuyện với tôi rất thân mật, và khi ra về, bà yêu cầu tôi ghé thăm bà. Bạn tôi nói bà là một cô gái già rất giàu có, sống một mình với chị người làm và tám con mèo.
- Anh đang túng thiếu, lại làm quen với một bà già giàu sụ và cố tình kéo dài sự liên hệ thân mật. Nếu chúng ta chứng tỏ rằng anh không hề biết bà Fren giàu và anh chỉ đến thăm vì xã giao...
Mặt Voler tái đi:
- Havey, bạn tôi đã nói vụ bà Fren giàu trước mặt tôi và rất nhiều người, một vài người còn chế giễu tôi là chuột sa hũ nếp nữa chứ.
- Như vậy thì tôi phải giải thích sao khi một người trẻ tuổi đẹp trai như anh lại mất thì giờ cho một bà đã luống tuổi có tính khí khác thường.
- Thú thật với ông, sau lần viếng thăm đầu tiên, bà đã khẩn khoản mời tôi đến nữa. Bà than rằng bà cô đơn quá, nên xem tôi như con. Bà tử tế, nuông chiều tôi, do đó, tôi thực sự cảm mến bà như một người mẹ.
- Đến lúc nào thì bà ấy yêu cầu anh trông nom sổ sách cho bà?
- Sau bốn, năm lần viếng thăm. Bà ấy tính toán kém trong việc hùn hạp làm ăn.
- Vậy mà chị hầu phòng Jannette quả quyết rằng bà chủ của chị rất thạo việc. Đấy cũng là ý kiến của các ngân hàng có tài khoản của bà ấy.
- Họ nói sao ấy chứ trước mặt tôi, bà ấy tỏ ra rất vụng về.
Luật sư Mayher nhìn Voler. Ông tin vào sự vô tội của chàng thanh niên. Voler đã nói thật. Tâm lý các cô gái già là thường giả bộ ngây thơ để nhận ở những người đàn ông sự giúp đỡ. Và Voler đã đáp ứng được điều đó. Tằng hắng, ông hỏi:
- Có bao giờ anh lợi dụng lòng tin của Fren để kiếm lợi riêng cho anh không? Tôi sẽ có hai cách để bào chữa. Nếu trung thực, anh sẽ không cần nhúng tay vào máu để kiếm được món tiền mà anh có thể kiếm được một cách lương thiện. Bằng ngược lại, anh có những thủ đoạn mà bên công tố biết và sẽ đưa ra. Khi đó, tôi sẽ bảo rằng anh chẳng dài gì mà giết con gà đẻ trứng vàng ấy cả.
- Cảm ơn lòng tốt của ông. Tôi lúc nào cũng ngay thẳng khi làm việc với bà ấy. Nếu người ta cho rằng, tôi lợi dụng vật chất nơi bà ấy, thì cái chết của bà chỉ thiệt hại cho tôi thôi.
Luật sư Mayher nhìn thẳng vào mắt Voler:
- Anh có biết là bà Fren đã lập di chúc để một phần lớn tài sản cho anh không?
Voler nhỏm dậy như bị điện giật"
- Ông nói sao? Bà ấy để của cho tôi à? Vô lý.
Giọng luật sư vẫn điềm tĩnh:
- Anh không biết việc này thật à?
- Ồ, tôi hoàn toàn không biết gì cả.
- Vậy mà cô Jannette lại quả quyết là anh biết cơ đấy. Chính bà Fren đã tiết lộ với cô ta về chuyện này.
- Jannette ghét tôi nên bịa đặt đấy. Ông phải tin lời tôi.
- Anh đã đến nhà bà Fren vài buổi tối, chỉ có mình bà, và sáng hôm sau bà bị giết ở phòng khách. Quả thật tối hôm đó, lúc 9 giờ rưỡi, Jannette có ghé nhà bằng cửa sau để lấy một vài món lặt vặt ở phòng riêng rồi đi ngaỵ Cô ấy khai là có nghe thấy tiếng nói chuyện giữa bà chủ và một người đàn ông từ phòng khách.
Voler đứng phắt dậy:
- Vậy là tôi thoát nạn rồi. Vào lúc chín rưỡi, tôi đã về tới nhà. Vợ tôi có thể chứng minh cho tôi. Cảm ơn Thượng đế xui khiến Jannette ghé về đúng lúc.
Nét mặt luật sư vẫn không bớt đăm chiêu:
- Vậy theo ý anh, ai đã giết bà Fren?
- Một tên cướp. Y đã dùng thanh sắt đập vào đầu bà Fren. Một cánh cửa sổ bị phá vỡ, một số đồ vật bị lấy đi. Nếu không có sự nghi ngờ vô lý của Jannette và ác cảm của cô ta đối với tôi...
- Sự việc không đơn giản như vậy đâu. Anh nói anh về nhà lúc chín rưỡi, vậy mà Jannette lại nghe tiếng đàn ông nói chuyện với bà chủ trong phòng khách. Không lý bà ấy đi nói chuyện bình thường với một tên cướp?
- Dù sao đi nữa, người đó cũng không phải là tôi. Tôi đã có mặt tại nhà lúc chín rưỡi. Xin ông hãy đến gặp Romen, vợ tôi sẽ xác nhận lời khai của tôi.
- Bà Fren biết anh có vợ không?
- Dĩ nhiên là có.
- Jannette đã khai là chưa bao giờ anh đem vợ đến thăm bà Fren, cho nên bà ấy tưởng anh độc thân và có ý định sẽ lập gia đình với anh.
- Vô lý, bà ta quá già.
- Chuyện đó không thành vấn đề.
Voler đỏ mặt:
- Đó chỉ là sự tưởng tượng của Jannettẹ Tôi van ông, hãy đến gặp vợ tôi.
Romen, vợ Voler là một phụ nữ cao lớn, tiều tụy. Bà tiếp luật sư Mayher với vẻ hững hờ. Trông bà bình tĩnh đến lạnh lùng, điều này đã làm cho luật sư e ngại. Dù muốn dù không, ông cũng phải trình bày mọi việc cho người đàn bà ấy nghe. Im lặng một lát, Romen cất giọng đanh thép:
- Voler muốn tôi xác nhận là tối hôm đó, hắn trở về nhà lúc 9 giờ 20 phút chứ gì. Đừng hòng. Tôi không bao giờ đồng lõa với kẻ sát nhân đâu. Ông hãy nghe cho rõ đây, tôi xác nhận là Voler đã biết Fren có để lại gia tài cho hắn nên hắn đã giết mụ già để sớm được vinh thân. Tối hôm đó hắn trở về lúc 10 giờ hai mươi, trên áo đầy máu. Hắn thú nhận tất cả với tôi. Tôi sẽ là nhân chứng buộc tội hắn.
- Chị không thể làm chứng chống lại chồng.
- Hắn không phải là chồng tôi mà là một người đàn ông tồi tệ. Tôi căm thù hắn. Tôi muốn trông thấy hắn bị treo cổ.
- Tôi sẽ đến gặp chị sau khi liên hệ với Voler.
Romen bĩu môi:
- Ông tin là hắn vô tội ư? Thật đáng thương!
Trước ngày tòa xử, luật sư Mayher nhận được một lá thư, nét chữ nguệch ngoạc: "Nếu ông muốn vạch mặt mụ đàn bà đã hại chồng mình như thế nào, mời ông mang theo 2.000 đô la, đến địa chỉ X... vào lúc 19 giờ, hỏi bà Motion".
Khó khăn lắm, luật sư Mayher mới tìm thấy địa chỉ căn nhà. Đó là một túp lều ổ chuột nằm trong một con hẻm lầy lội, dơ dáy. Một mụ già lưng còng đợi ông sau cánh cửa:
- Chào anh chàng luật sự Vào đây, vào đây.
Ngọn đèn trên trần tỏa ánh sáng lờ mờ. Luật sư Mayher giật mình khi thấy gương mặt mụ già đầy những vết sần sùi đỏ hỏn. Mụ cất tiếng the thé:
- Axit đấy, anh bạn trẻ ạ. Tôi sẽ trả thù, trả thù.
- Thôi đi, bà hãy vào vấn đề nhanh lên.
Bàn tay gầy đét với những ngón cáu bẩn đưa ra:
- Thế tiền đâu? Phải đủ hai ngàn đấy nhé.
- Nếu bà biết điều gì đó, bà có bổn phận ra tòa làm chứng.
- Không. Tôi chả biết quái gì cả, nhưng tôi có thể cho anh một vài thứ rất haỵ Anh có thích đọc một lá thư của mụ Romen không? Rất cần thiết cho anh đấy. Đưa tiền đây.
- Tôi chỉ có một ngàn thôi. Nếu bà không chịu tôi xin kiếu.
- Quỷ tha ma bắt anh đi. Nào, bốc xỉa ngay.
Mụ già rút dưới tấm nệm rách ra một xấp bì thư, ném trước mặt Mayher:
- Chắc chắn anh sẽ khoái lá thư trên cùng.
Tất cả đều là những bức thư tình, do Romen viết gửi cho một người tên Mac. Lá thư cuối cùng viết đúng ngày Voler bị bắt: "Mac yêu quý, Voler vừa bị bắt vì tình nghi giết người. Em biết, Voler là một tên hiền như bụt, không hại đến một con ruồi. Nhưng em sẽ khai trước tòa là hắn trở về nhà với máu me đầy mình và đã thú nhận tội lỗi với em. Hắn sẽ bị treo cổ và chúng ta sẽ có nhau... ".
Mụ già nói thêm:
- Mac là chồng tôi. Ngày xưa, vì con bé Romen mà anh ta đã tạt axit vào mặt tôi. Tôi thù nó và đã theo dõi, rình rập nó trong bao nhiêu năm trời. Bây giờ nó sẽ bị trừng phạt vì tội khai man để đẩy chồng vào tù. Anh cứ tin đi. Hãy đến rạp chiếu bóng Eden đưa tấm hình Romen ra, người ta sẽ cho anh biết sự thật.
Không bỏ phí thời gian, luật sư Mayher đến ngay rạp chiếu bóng và ông đã đạt được ý muốn. Chẳng qua, trước khi lấy Voler, Romen từng là diễn viên kịch, nên nhiều người biết mặt. Họ xác nhận, đêm hôm xảy ra án mạng, Romen vào rạp coi xuất chót, vào lúc 10 giờ 20.
Ngày họp tòa. Romen khai rằng buổi tối hôm xảy ra án mạng, Voler ra khỏi nhà mang theo một thanh sắt. Hắn trở về lúc 10 giờ 20 và thú nhận với chị là đã giết bà Fren, hắn còn dọa sẽ giết chị nếu chị nói sự thật.
Lập tức, lá thư tội lỗi được đưa ra. Các chuyên viên về chữ viết đã xác nhận chữ trong thư đúng là của Romen. Người đàn bà điêu ngoa đã phải gục đầu thú nhận. Quả thật, Voler đã trở về nhà lúc 9 giờ 20 như lời anh đã khai.
Voler được trắng án.
Nhưng sự việc không ngừng ở đây, bởi lương tâm luật sư Mayher cảm thấy không yên. Lòng dạ Ông bồn chồn khi nhớ lại những cử chỉ của Romen trước vành móng ngựa. Lưng chị hơi còng, bàn tay phải luôn xòe ra, một thói quen kỳ la... hình như ông đã thấy một người cũng có cái tật như thế. Ai? Luật sư giật nẩy mình. Đúng rồi, Romen đã từng là kịch sĩ... mụ già mặt thẹo!
Ông tìm đến nơi Romen đang trả giá ba tháng tù vì tội khai man. Đầu óc ông quay cuồng với bao câu hỏi. Tại sao? Tại sao?
Người đàn bà trở lại vẻ lạnh lùng cố hữu:
- Tại sao tôi lại chơi cái trò ấy à? Tôi phải cứu chồng tôi chứ. Một lời khai của người vợ thương chồng đâu có thuyết phục được ai. Nếu những lời nói của tôi không tự ý mình, mà do những tác động bên ngoài bắt buộc thì ai cũng phải tin. Tôi bị phạt tù vì khai man hại chồng, nhưng chồng tôi sẽ được cảm tình của tòa và mọi việc sẽ thuận theo chiều hướng tốt đẹp.
- Còn tập thử Còn anh chàng Mac?
- Nếu chỉ viết một lá thư thì có vẻ giả tạo quá. Còn anh chàng Mac ư? Làm gì có, đó chỉ là một cái tên ma.
Luật sư Mayher hậm hực:
- Lẽ ra chị không nên làm thế. Chúng ta có thể chứng minh sự vô tội của Voler bằng một cách hợp pháp hơn.
Romen nhếch mép:
- Thế ông vẫn tin Voler vô tội ư?
- Dĩ nhiên. Chị đã rõ là tôi tin như vậy.
- Tôi thì chả rõ gì cả. Tôi biết chắc là chồng tôi đã giết bà Fren. Để làm gì ư? Vì chúng tôi quá nghèo, ngài luật sư ạ.

Hết
 
U

uocmolamnhavan

Chiếc áo bùa ma
__dino buzzati__
Mặc dù tôi yêu thích sự trang phục lịch sự, nhưng thông thường tôi không hề chú ý đến sự hoàn mỹ dù lớn dù nhỏ của đường nét may cắt từ các bộ đồ vét mà những người đồng loại với tôi mặc.
Thế mà một buổi chiều nọ, trong một buổi tiệc chiêu đãi tại một nhà xuất bản Milan, tôi gặp một người đàn ông tuổi độ bốn mươi rực rỡ trong bộ đồ vét tuyệt đẹp với đường nét thẳng tắp, thuần mỹ tuyệt đối.



Tôi không biết ông ta là ai, đây là lần đầu tôi gặp ông ấy và trong lúc được giới thiệu, tôi không nghe rõ kịp tên ông ta , một việc thường hay xảy ra vào những dịp như thế. Nhưng vào một lúc nào đó trong buổi chiều, tôi đứng kề cạnh ông ta và chúng tôi bắt đầu trò chuyện. Ông ta lễ phép và khá lịch thiệp tuy lộ vẻ hơi buồn. Với một sự thân mật có lẽ thái quá - phải chi trời đừng sinh tôi ra như thế ! - tôi khen ngợi ông ta về cung cách ăn mặc lịch sự của ông ta ; và tôi còn cả gan hỏi tên hiệu người thợ may của ông ấy.
Ông ta nở một nụ cười mỉm khó hiểu, tựa như ông đã chờ sẵn câu hỏi ấy.



<<Hầu như chả một ai biết đến người thợ may này cả, ông ta nói, thế mà đó lại là một người thợ tài hoa. Nhưng ông ta chỉ làm việc tùy theo hứng thú. Chỉ làm cho một vài khách hàng thôi.
- Do đó tôi...?
- Ồ ! ông cứ thử, ông cứ thử xem. Ông ta tên là Corticella, Alfonso Corticella, đường Ferrera số 17.
- Ông ta chắc hẳn lấy giá rất đắt, tôi đoán thế.
- Tôi nghĩ thế, vâng, nhưng thật tình mà nói tôi chả biết sao cả. Bộ đồ này ông ta đã may cho tôi cách đây ba năm và ông ta chưa gửi cho tôi hoá đơn.
- Corticella ? đường Ferrara, số 17, ông nói thế ?
- Đúng thế >>, người đàn ông vô danh trả lời.
Và ông ta bỏ mặc tôi đứng đấy để hoà nhập vào một nhóm người khác.
Tại số 17 đường Ferrara tôi tìm thấy một ngôi nhà như bao ngôi nhà khác, và căn nhà của Alfonso Corticella cũng giống như những căn nhà của các thợ may khác. Đích thân ông ấy mở cửa đón tôi. Đó là một cụ già người thấp bé với một mái tóc đen nhánh chắc hẳn là đã được nhuộm.
 
U

uocmolamnhavan

tiếp...
Trước sự ngạc nhiên to lớn của tôi, ông cụ không làm ra vẻ khó dễ gì cả. Ngược lại ông biểu lộ ý muốn tôi trở thành khách hàng của ông. Tôi giải thích với ông bằng cách nào mà tôi đã có được địa chỉ ông. Tôi khen ngợi ông cụ về đường nét cắt may của ông ấy và nhờ ông may cho tôi một bộ đồ lớn.Chúng tôi chọn một loại vải len mượt màu xám và ông cụ đo lấy kích thước người tôi rồi đề nghị sẽ mang bộ đồ đến tận nhà tôi để thử. Tôi hỏi ông giá tiền. Không có gì gấp cả, ông ấy trả lời tôi, chúng ta sẽ thỏa thuận với nhau thôi. Thật là một người đáng mến ! thoạt đầu tôi nghĩ vậy. Tuy nhiên, một lát sau, trên đường trở về nhà, tôi cảm nhận rằng ông cụ già thấp bé này đã tạo cho tôi môt cái cảm giác khó chịu ( có lẽ vì những nụ cười thật quá mơn trớn và ngọt ngào của ông ta). Nói thực ra tôi không có ý muốn gặp lại ông ta. Thế nhưng bộ đồ đã được đặt rồi. Và độ chừng hai mươi hôm sau nó đã được hoàn tất.





Khi họ giao bộ đồ cho tôi, tôi mặc thử, độ vài giây, trước gương. Đúng là một tuyệt tác. Nhưng không hiểu sao, có thể chỉ vì cái ấn tượng khó chịu mà ông cụ già thấp bé đã để lại trong tôi, tôi không muốn mặc nó. Và nhiều tuần trôi qua trước khi tôi có quyết định.
Ngày hôm đó, tôi sẽ vĩnh viễn nhớ mãi. Đó là vào một ngày thứ ba của tháng tư và trời đổ mưa. Sau khi tôi đã mặc vào người bộ com-lê (complet) - chiếc quần dài, áo gi-lê (gilet) và áo vét - tôi nhận thấy một cách thú vị rằng bộ đồ không gò bó và làm tôi vướng víu ở những khúc khuỳu trên người như những bộ quần áo mới toanh. Thế mà nó lại thật vừa vặn ôm lấy thân hình tôi.
Theo thói quen tôi không để gì cả trong chiếc túi bên phải của áo vét, các giấy tờ tùy thân tôi cho vào chiếc túi bên trái. Vì thế cho nên hai tiếng đồng hồ sau, ở hãng, khi tình cờ thọc tay vào túi áo bên phải, tôi chợt nhận thấy có một mảnh giấy trong túi. Có lẽ là tờ hóa đơn của người thợ may chăng ?
Không. Đấy là tờ giấy bạc mười nghìn lia. (lire : đồng tiền Ý)
Tôi bàng hoàng sửng sốt. Dĩ nhiên là đã không do chính tôi cất vào túi rồi. Với lại thật là điên rồ nếu cho rằng đây là một lối đùa giỡn của ông thợ may Corticella. Lại càng không thể là một món quà của bà giúp việc nhà cho tôi, người duy nhất đã có dịp đến gần bộ đồ sau ông thợ may. Hay đây là tờ giấy bạc của bà Thánh Mẫu Trò Đùa ? Tôi nhìn tờ giấy bạc xuyên qua ánh sáng, tôi so sánh nó với những tờ giấy bạc khác. Không thể nào có tờ giấy bạc nào thật hơn được nữa.
Lời giải thích duy nhất, một sự đãng trí của Corticella. Có thể là một khách hàng đã trả trước cho ông một khoản tiền, và vào lúc đó, ông ta không có ví tiền sẳn đấy và, không muốn vứt tiền bừa bãi, ông ta đã giúi nó vào chiếc áo vét của tôi đang treo trên móc áo. Đấy là những chuyện có thể xảy ra.
Tôi ấn sát nút chiếc chuông để gọi cô thư ký. Tôi sẽ viết vài giòng cho Corticella và hoàn món tiền này lại cho ông ta vì đó không phải là tiền của tôi. Nhưng, ngay lúc ấy, và tôi không thể giải thích được vì sao, tôi lại cho tay vào túi một lần nữa.
<< Thưa ông, cái gì thế cơ ạ ? Ông không được khoẻ à ? >> cô thư ký buông lời hỏi tôi lúc cô bước vào .
Có lẽ mặt tôi xanh như xác chết. Trong túi áo các ngón tay tôi chạm phải bìa của một mảnh giấy mà trước đó không có nó.
<< Không, không, không sao cả, tôi nói, tôi hơi bị chóng mặt. Dạo này tôi thỉnh thoảng hay bị như thế. Chắc vì bị mệt tí xíu. Cô có thể đi ra được rồi, tôi phải đọc một lá thư cho cô viết nhưng chúng ta sẽ làm chốc nữa.
Chỉ sau khi cô thư ký đã ra khỏi phòng tôi mới rút tờ giấy ra khỏi túi. Đó là một tờ giấy bạc mười nghìn lia khác. Thế là tôi thử thêm một lần thứ ba. Và một tờ giấy bạc thứ ba chui ra.
Tim tôi bắt đầu đánh trống loạn.Tôi có cảm giác như bị lôi cuốn , bởi những lý do huyền bí nào đó, vào trong vũ điệu nhảy múa vòng quanh của một chuyện thần tiên giống như những chuyện thần tiên mà người lớn kể cho con trẻ nghe và không một ai tin là có thật.
Viện cớ là không được khoẻ, tôi rời hãng và về nhà. Tôi cần yên tĩnh một mình. May thay bà giúp việc cho tôi đã xong công việc và đã ra về. Tôi đóng các cửa lại, hạ các tấm sáo xuống và bắt đầu lôi một cách thật nhanh mà sức tôi có thể làm được, những tờ giấy bạc từ tờ này đến tờ khác từ chiếc túi dường như không cạn.
Tôi làm việc với một sự căng thẳng co giựt của các giây thần kinh trong nỗi lo sợ điều huyền diệu kia sẽ ngưng lại trong phút chốc. Tôi có ý định tiếp tục suốt cả buổi chiều, suốt cả đêm để tích tụ hằng tỉ bạc. Tuy nhiên, đến một lúc nào đó, tôi không còn đủ sức nữa.
Trước mặt tôi là một đống giấy bạc đồ sộ. Việc hệ trọng nhất hiện thời là giấu số giấy bạc này, để không một ai biết đến. Tôi dốc một chiếc rương chứa đầy thảm. và, dưới đáy rương, tôi chất vào từng xấp giấy bạc mà tôi đếm lần lượt. Tổng số tiền vượt qua khá xa con số năm mươi triệu.





Khi tôi tỉnh giấc vào sáng hôm sau, bà giúp việc đã có mặt tại đấy, vẻ mặt sửng sốt khi trông thấy tôi nằm trên giường trong bộ y phục đi làm. Tôi cố gượng cười, giải thích với bà ấy rằng chiều hôm qua tôi lỡ uống rượu quá chén và đã ngã lăn ra ngủ lúc nào không biết.
Thêm một điểm lo ngại khác nữa lại đến : bà ấy tỏ ý muốn giúp tôi cởi áo vét ra để cho bà ta chải sơ lại mặt vải.
Tôi trả lời rằng tôi phải đi ra ngoài ngay và không có thời giờ để thay y phục. Và liền sau đó tôi vội vã đi đến một cửa hiệu chuyên bán y trang để chọn mua một bộ đồ giống như đúc bộ tôi đang mặc; tôi sẽ đưa bộ mới cho bà giúp việc; bộ đồ của tôi, cái bộ mà trong vòng chỉ có vài ngày đã biến tôi trở thành một trong những người có quyền lực nhất trên đời, tôi sẽ giấu nó vào một chỗ kín.
Tôi không hiểu có phải tôi đang mơ chăng, tôi có sung sướng không hay là ngược lại tôi đang ngột thở dưới sức nặng của một định mệnh quá lớn. Trên đường đi, qua lớp áo choàng khoác bên ngoài, tôi sờ nắn không ngừng chiếc túi kỳ diệu. Cứ mỗi lần như thế tôi lại thở ra nhẹ nhõm. Dưới lớp vải tiếng sột soạt của tờ giấy bạc làm tôi vững lòng.
Thế nhưng một việc trùng hợp lạ lùng làm nguội lạnh nỗi vui cuồng điên của tôi. Trên các tờ nhật báo chạy những hàng tít lớn : sự thông tin về một vụ trộm xảy ra chiều qua chiếm gần như trọn vẹn cả trang đầu. Một chiếc xe thùng bọc sắt của một ngân hàng, sau khi đã lươn qua các chi nhánh của ngân hàng, sắp chở về trụ sở chính những số tiền thu được trong ngày, đã bị chận lại và bị vơ vét sạch bởi bốn tên cướp tại đường Palmanova. Khi mọi người đổ xô đến, một tên trong bọn cướp, để tháo thân, đã nổ súng. Một người đi đường đã thiệt mạng. Nhưng thực sự chính là con số tiền bị cướp làm tôi chú ý : đúng năm mươi triệu ( như số tiền của tôi).
Có thể nào có một mối liên quan giữa sự giàu có thình lình của tôi với việc đánh cướp này đã xảy ra gần như cùng lúc chăng ? Suy diễn như thế trông có vẻ buồn cười. Và tôi lại không mê tín dị đoan. Dù sao sự kiện này cũng làm cho tôi rất hoang mang.
Càng có nhiều ta càng ước muốn nhiều. Tôi đã giàu rồi, so với những thói quen sống giản dị của tôi. Nhưng cái ảo tượng của một cuốc sống xa hoa phóng túng kích thích tôi. Và ngay buổi chiều hôm đó tôi bắt đầu làm lại việc ấy. Bây giờ tôi thực hành một cách bình tĩnh hơn và các giây thần kinh ít căng thẳng hơn. Một trăm ba mươi lăm triệu khác thêm vào cái kho tàng hôm trước.
Đêm hôm đó tôi không tài nào nhắm mắt được. Có phải chăng là sự linh cảm về một mối nguy ? Hay là lương tâm cắn rứt của một người mặc dù không xứng đáng đã có được một tài sản phi thường ? Hay là một thứ hối hận mơ hồ ? Trời vừa hừng sáng tôi rời khỏi giường, thay quần áo và chạy ra đường tìm mua báo.
Trong khi đọc, tôi kinh hoàng đến nghẹn thở. Một cơn hỏa hoạn khủng khiếp, gây ra bởi một kho tồn dầu hỏa bị bốc cháy, đã hoàn toàn thiêu hủy một căn phố lầu trên con đường San Cloro, ngay giữa trung tâm thành phố. Thêm vào đấy, các tủ sắt của một đại văn phòng địa ốc chứa đựng hơn một trăm ba mươi triệu tiền mặt đã bị thiêu hủy. Hai đội viên cứu hỏa đã bị thiệt mạng trong lúc chữa cháy.
Bây giờ tôi có cần phải liệt kê những tội ác của tôi không ? Vâng, bởi vì từ đây tôi đã hiểu rằng đồng tiền mà cái áo vét mang lại cho tôi đến từ tội lỗi, từ xương máu, từ tuyệt vọng, từ cái chết, nó đến từ địa ngục. Thế mà bằng một cách lừa lọc xảo trá, cái lẽ phải của tôi từ chối một cách giễu cợt nhận lấy một phần trách nhiệm nào đó. Và thế là sự cám dỗ trở lại, và thế là bàn tay tôi - thật quá ư dễ dàng - trườn vào chiếc túi áo và những ngón tay tôi, với một cơn khoái lạc đột nhiên, ghì siết bìa góc của một tờ giấy bạc luôn luôn mới tinh. Tiền, ôi đồng tiền thần thánh !
Không dọn khỏi căn nhà cũ của tôi (để tránh sự chú ý tò mò), tôi đã mua cho mình một ngôi biệt thư lớn, tôi có một bộ sưu tập tranh họa quý giá, tôi lái những loại xe đắc tiền và, sau khi nghỉ hãng vì "lý do sức khoẻ", tôi đi du lịch và đi khắp hoàn cầu với những người đàn bà đẹp tuyệt trần.

Tôi thừa hiểu rằng mỗi lần tôi moi tiền từ chiếc áo vét của tôi, thì sẽ xảy ra trên đời một cái gì đó đê tiện và đau thương. Tuy nhiên đó là một sự phù hợp mông lung, không được dựa trên những chứng minh hợp lý. Trong khi chờ đợi, cứ mỗi lần tôi thu thập tiền, lương tri của tôi băng hoại, càng lúc càng thêm hèn hạ. Thế còn người thợ may kia ? Tôi điện cho ông ta để hỏi hóa đơn nhưng không một ai trả lời. Qua con đường Ferrara người ta cho tôi biết ông ta đã di cư, ông ta đang sống ở nước ngoài, chẳng biết nơi đâu. Tất cả mọi âm mưu cho tôi thấy rằng tôi đã vô tình ký kết với ác quỷ.
Mọi sự kéo dài cho đến cái ngày mà trong căn phố lầu mà tôi cư ngụ từ nhiều năm dài qua, người ta khám phá vào một buổi sáng một người đàn bà về hưu sáu mươi tuổi chết ngạt vì hơi đốt ; bà ta đã tự sát vì bị mất ba mươi nghìn lia tiền hưu mà bà vừa mới lĩnh chiều hôm trước (và số tiền này đã nằm trong tay tôi).
Đủ rồi, đủ rồi ! để khỏi chìm sâu vào vực thẳm, tôi phải vứt bỏ chiếc áo vét của tôi. Nhưng không phải là nhường nó lại cho ai khác, bởi lẽ sự đê hèn kia sẽ vẫn còn tiếp tục ( ai mà có đủ nghị lực để cưỡng lại một sức quyến rũ như thế ?). Việc hủy diệt chiếc áo trở nên cần thiết.
Tôi lái xe đến một thung lũng hoang vắng trong vùng miền núi Alpes. Tôi để xe tại một nền đất đắp cao phủ cỏ và tôi tiến thẳng vào rừng. Không một bóng người lai vãng. Sau khi qua khỏi thị trấn tại đấy, tôi lên đến vùng băng tích đầy sỏi đá. Nơi đây, giữa hai tảng đá khổng lồ, tôi lôi từ chiếc sắc đeo trên lưng cái áo vét bỉ ổi ấy và châm lửa vào. Trong vòng vài phút chỉ còn trơ lại đống tro tàn.
Nhưng dưới ánh sáng của ngọn lửa tàn, sau lưng tôi - cách chừng hai hoặc ba thước có lẽ vậy -, một giọng người vang lên : << Đã trễ rồi, đã trễ rồi ! >> Kinh hoàng tôi xoay người lại trong một động tác đột ngột như thể bị rắn cắn. Nhưng chẳng thấy ai cả. Tôi lùng kiếm chung quanh, nhảy từ khối đá này đến khối đá khác, để lôi bật ra tên khốn kiếp đã giỡn mặt tôi. Không một ai cả. Chỉ toàn là những khối đá.
Mặc dù còn cảm thấy kinh hoàng, tội đi trở xuống thung lũng, với một cảm giác nhẹ nhõm. Thế là đựợc tự do. Và may mắn thay lại giàu nữa.
Nhưng trên nền đất cao phủ cỏ, chiếc xe tôi không còn đó nữa. Và khi tôi trở về thành phố, ngôi biệt thự đồ sộ của tôi đã biến mất ; thay vào chỗ đó, một cánh đồng cỏ bỏ hoang với tấm biển nhỏ " Đất công xã cần bán ". Và những trương mục trong ngân hàng của tôi, tôi không biết giải thích ra sao, hoàn toàn cạn sạch. Mất hết từ nhiều tủ sắt của tôi những bó chứng khoán dày cộm. Và bụi bặm, chỉ toàn là bụi bặm, trong chiếc rương cũ.





Thế rồi từ đó, tôi đi làm việc trở lại một cách cực nhọc, đời sống tôi thật khó khăn, và thật lạ lùng, chẳng ai tỏ vẻ kinh ngạc về sự sạt nghiệp đột ngột của tôi.
Và tôi thừa hiểu rằng mọi chuyện chưa hẳn là đã chấm dứt. Tôi biết rằng một ngày kia chuông cửa sẽ vang lên, tôi sẽ ra mở cửa và tôi sẽ thấy trước mặt tên thợ may tai hại kia, với nụ cười đê tiện của lão, đến đòi thanh toán món nợ cuối cùng.
hết
 
U

uocmolamnhavan

Cánh cửa mở

-Thưa ông, cô tôi sắp xuống tới.
Cô gái mười lăm tuổi nói với Falton bằng một giọng dạn dĩ.
Falton cố gắng tìm trong trí nhớ những lời lẽ có thể làm vui lòng cô bé. Riêng ông, ông không tin tưởng chút nào vào loạt viếng thăm một lô người hoàn toàn xa lạ mà ông đang làm đây, trong chương trình trị cái bệnh suy nhược thần kinh của mình.
Khi sắp sửa lui về đồng quê, em gái ông đã bảo:
- Anh vùi mình vào không khí đồng ruộng mà không có ai để trò chuyện thì bệnh anh ngày càng nặng thêm. Để em viết mấy cái thư giới thiệu anh với các chị bạn em ở vùng ấy. Em nhớ có nhiều người trong số đó cũng dễ thương lắm!
Falton tự hỏi chẳng biết có nên sắp bà Sake mà ông vừa trình thư giới thiệu vào hạng những người dễ thương kia không.
- Ông có quen biết nhiều người ở đây không? - cô bé hỏi.
- Không quen ai cả. Em gái tôi đã ở đây cách bốn năm nay, tại nhà ông Mục sư, cô ấy viết cho tôi mấy cái thư giới thiệu.
Falton nói câu chót với một giọng hối tiếc rõ rệt như việc đi làm quen với người khác là một cực hình đối với ông.
Cô gái bảo:
- Như vậy, ông không biết gì về cô tôi?
- Chỉ biết tên và địa chỉ mà thôi.
Falton thú thật. Ông tự hỏi chẳng biết bà Sake là goá phụ hay hiện đang ở với chồng. Trong gian phòng có một cái gì khó tả chỉ rằng có đàn ông sống tại đây.
Cô gái tiếp:
- Một thảm kịch đã xảy ra cho cô tôi cách đây đúng ba năm, nghĩa là sau ngày em ông đi khỏi vùng này.
- Một thảm kịch? - Falton hỏi ngạc nhiên, vì tại đồng quê yên lặng này, thảm kịch gì có thể xảy ra?
Cô cháu gái của bà Sake chỉ cái cửa hông mở ra một sân cỏ.
- Có lẽ ông không hiểu tại sao cái cửa kia lại mở vào một chiều thu lạnh lẽo này phải không?
- Cửa hông ấy có dính dáng đến tấn thảm kịch à?
- Cách đây ba năm, dượng tôi và hai người em trai của ông đã ra khỏi nhà bằng cánh cửa này để đi săn. Họ không bao giờ trở về nữa. Ba người đi qua một cánh đồng lầy để tới đất săn thì rơi vào một vũng sình nào không biết, rồi bị lấp luôn dưới đó. Mưa nhiều quá ở mùa hè trước, cho nên những nơi mà mấy năm trước người ta đi ngang qua không sao, bỗng nhiên mùa hè đó lại sụp dưới chân người. Không ai tìm được thây của ba anh em dượng tôi. Thật là rùng rợn!
Đến đây, giọng của cô bé có vẻ mất tự chủ và run run:
- Cô tôi rất khổ sở, nhưng tin một ngày kia ba anh em dượng tôi và cả con chó săn màu đất sẽ trở về, vào nhà bằng cái cửa đó cũng như những bận đi săn khác. Vì vậy mà chiều nào cô tôi cũng mở cửa cho tới tối. Tội nghiệp cô tôi. Cô thường kể lại cuộc đi săn ấy của ba người. Dượng tôi mang chiếc áo mưa trắng trên tay, còn chú út vừa đi vừa hát bài "Beetie, tại sao em nhảy cỡn" để ghẹo cô tôi, vì cô tôi ghét bài đó lắm. Ông biết không, những buổi chiều êm đềm như thế này, tôi có cảm tưởng rằng họ sẽ trở về bằng cái cửa này và tôi nổi da gà lên lận ông ơi!
Cô bé ngừng nói và rùng mình. Bỗng Falton thấy nhẹ nhõm người vì bà Sake vừa bước vào phòng khách, xin lỗi đã để ông chờ khá lâu. Và có lẽ nhận thấy Falton liếc cái cửa mở, bà bảo:
- Ông đừng thắc mắc vì cái cửa mở vào mùa này. Chồng tôi và các em chồng tôi đi săn sắp về tới bây giờ. Họ phải đi qua một quãng đất bùn, nên mấy tấm thảm của tôi một lát nữa đây thế nào cũng dính bùn be bét. Nhưng đàn ông nào chắc cũng thế, phải không ông?
Rồi bà tiếp tục nói chuyện vui vẻ về sự lý thú, về những con vịt trời mùa đông. Falton rợn người. Ông hết sức đổi đề câu chuyện để khỏi nghe bà Sake nói chuyện đi săn, nhưng bà vẫn không chú ý, thỉnh thoảng, trong lúc nói chuyện, bà liếc nhìn ra cánh cửa mở.
Falton cho rằng mình xui xẻo lắm nên đến nhằm ngày có lẽ là ngày kỷ niệm cuộc đi săn không trở về của chồng bà.
Ông bảo:
- Các bác sỹ đều đồng ý bảo tôi phải tĩnh dưỡng hoàn toàn, tránh sự xúc động tinh thần và môn thể thao dùng nhiều sức lực.
Ông tin rằng những người lạ và những người quen biết rất quan tâm đến bệnh trạng của mình, nên tiếp:
- Về sự ăn uống thì các bác sỹ lại không đồng ý kiến với nhau xem phải bắt tôi kiêng cử những gì.
- Thế à? - Bà Sake hờ hững hỏi qua một cái ngáp vặt mà bà cố chế ngự. Bỗng nhiên mắt bà sáng lên, tươi tỉnh ngay:
- Họ về kìa! Bùn sình tận đầu và đúng giờ uống trà dữ a!
Falton lạnh xương sống quay sang nhìn cô bé một cách thông cảm. Cô bé đang nhìn ra cái cửa mở, vẻ mặt đầy hốt hoảng. Falton cũng nhìn theo mắt cô gái.
Ba bóng người đang qua sân cỏ trong hoàng hôn và đến gần cánh cửa mở. Cả ba đều mang súng. Một trong ba người có mang áo mưa trắng trên vai, con chó săn màu đất mệt mỏi theo sau chân họ. Họ tiến lặng lẽ vào nhà, và một giọng trẻ trung cất lên trong ánh sáng lờ mờ:
- "Beetie, tại sao em nhảy cỡn?".
Falton vội vàng lấy "can", cầm mũ, như cái máy, xô cửa bước ra, hấp tấp theo lối trải sỏi, cắm đầu vượt qua cửa hàng rào. Một ông già đi xe đạp ngang qua, Falton phải sấn bừa vào hàng rào để khỏi đụng ông ta.
Người mang áo mưa trắng bảo to:
- Tụi anh mình mẩy đầy bùn, nhưng đã khô rồi, không làm dơ thảm đâu. Người nào lại cắm đầu phóng đi khi thấy tụi anh về vậy?
- Cái ông Falton lạ lùng ấy chẳng biết nữa. Ông ta đang nói chuyện với em về bệnh trạng của ông ta, rồi lại rút lui không từ giã gì cả khi thấy anh và hai chú về tới. Bộ dạng ông ta như là kẻ cắp gặp ma vậy! - Bà Sake trả lời chồng.
Cô bé xen vào, bình thản:
- Chắc sợ ông ấy sợ chó. Ông có nói với con ông ấy sợ chó lắm. Có lần chó rượt ổng vào tận gò mả trên sông, cả một đàn chó của bọn đinh ấn Độ, làm ổng phải nằm một đêm dưới một cái huyệt mới đào, còn đàn chó thì sùi bọt mép gầm gừ trên bờ huyệt. Có lẽ vì vậy mà thấy chó, ổng sợ ngay!
Cả vùng này đều biết rằng cô cháu bà Sake có óc tưởng tượng rất phong phú và có tài ứng khẩu chuyện này chuyện nọ lẹ làng như thật.
 
B

baobinh44

hay thật.................................................nhưng đúng là sợ
 
U

uocmolamnhavan

Chiếc rương oan nghiệt
Tác giả: Agatha Christie
Thám tử Poirot bước vào phòng làm việc. Ông đưa tay chào cô Lemon, thư ký riêng của ông. Như thường lệ, ông lật tờ báo buổi sáng trên bàn ra xem. Tin một vụ án mạng đăng trên trang nhất làm ông chú ý. Sáu nhân vật gồm thiếu tá Ritz, ông bà Clayton, trung tá hải quân Mac Laren, ông bà Spend cũng tham dự một bữa tiệc chiêu đãi, nhưng chỉ có 5 người ăn uống và khiêu vũ, còn người thứ sáu đã nằm chết cứng trong rương không biết từ lúc nào? Cạnh bản tin, có in hình một phụ nữ rất đẹp, bà Clayton, vợ nạn nhân. Poirot đưa tờ báo cho cô thư ký.
- Cô hãy nhìn kỹ mặt người này, cô thấy thế nào?
- Tôi biết bà này. Trước kia bà ta là vợ Ông Giám đốc Ngân hàng nhưng lại ngoại tình với một ông nghệ sĩ. Ông chồng ghen đến nỗi tự sát bằng một viên đạn vào đầu. Sau bà ta cũng không lấy chàng nghệ sĩ, khiến chàng ta tuyệt vọng nhảy lầu tự tử, may mà được cứu sống.
Poirot gật gù:
- Ghê thật, giờ bà ta lại liên quan đến một xác chết. Phiền cô hãy tóm tắt lại các bài báo nói về vụ án này rồi báo cáo cho tôi rõ.
Hôm sau, cô Lemon trình bản báo cáo: "Thiếu tá Ritz, 48 tuổi, nhà giàu, độc thân. Tối hôm đó, ông mời vài người bạn đến nhà chơi. Họ gồm có ông bà Clayton, ông bà Spend và trung tá hải quân Mac Laren, 46 tuổi. Ông này là bạn thân của Ritz và vợ chồng Clayton. Bà Clayton nhũ danh Marguerita, 37 tuổi, rất trẻ so với chồng đã 55 tuổi. Đến phút chót, ông Clayton phải đi Ecot có việc gấp nên không dự cuộc vui được. Buổi tiệc kéo dài đến 11 giờ 45, mọi người ra về cùng trên một chiếc taxị Mac là người đầu tiên bước xuống xe để vào câu lạc bộ của ông, sau đó vợ chồng Spend đưa bà Clayton về nhà trước khi quay lại nhà mình. Sáng hôm sau, người làm của Ritz là William phát hiện ra ông Clayton bị đâm vào cổ, chết cứng trong chiếc rương gỗ từ lâu vẫn để ở phòng khách. Bà Clayton khai là bà nhìn thấy chồng lần cuối vào lúc 6 giờ chiều hôm đó, ông về nhà với vẻ buồn phiền vì phải đi Ecot, không đến nhà Ritz được. Sau đó, ông qua Câu lạc bộ uống một ly rượu với Mac. Trước khi đi, ông có điện thoại cho Ritz nhưng đường dây bị bận. Anh hầu William khai rằng, tối hôm đó, khoảng gần 8 giờ, ông Clayton có ghé nhà. Vì Ritz chưa về nên ông ngỏ ý muốn viết vài chữ cho bạn. Thế là anh ta vào phòng khách rồi xuống bếp lo chuẩn bị bữa tiệc. Một lát, ông chủ ló đầu vào cửa bếp sai anh đi mua gói thuốc lá cho bà Spend. Khi trở về, anh chỉ thấy chủ anh ngồi trong phòng khách, không biết ông Clayton đã về từ lúc nào. Thiếu tá Ritz thì cho biết, khi về nhà, ông không thấy Clayton, cả thư từ để lại cũng không nốt. Mãi đến khi các bạn đến, ông mới hay ông ta đã đi Ecot. Hiện giờ, bà Clayton đau khổ bỏ nhà đi đâu không rõ, còn thiếu tá Ritz đã bị bắt vì bị tình nghi là thủ phạm".
- Tôi nghĩ đến Ritz rất nhiều. Còn cô, cô có nghi cho anh ta không?
- À, người ta còn bảo rằng, Ritz và bà Clayton là nhân tình của nhau... nhưng đó chỉ là lời đồn.
- Cứ giả dụ hai người yêu nhau đi, Ritz muốn khử anh chồng để được tự do với người đẹp... có thể hai người đã cãi lộn, Ritz rút dao đâm Clayton, xong giấu xác trong rương. Rồi khách khứa đến, Ritz vui chơi cùng họ, sau đó, thản nhiên đi ngủ... <còn>
 
U

uocmolamnhavan

Mất tích

Tác giả: Agatha Christie

Vào một buổi chiều thứ bảy đẹp trời, ông Davehem, một chủ ngân hàng tên tuổi, bước ra khỏi nhà và không trở lại nữa. Ông ta đã mất tích.
Sáng nay, tôi và thám tử Poirot ngồi bên bàn trà chờ một người bạn là thanh tra Jack. Ông này đến trễ và phân bua:
- Xin lỗi, tôi bận việc với thanh tra Mile, người chịu trách nhiệm về vụ mất tích của ông Davehem.
Thám tử Poirot cười cười:
- Mất tích? Theo anh thì vụ mất tích này thuộc vào loại nào?
- Loại nào? Anh nói gì? Tôi không hiểu.
- Anh không biết sao? Này nhé, có ba loại mất tích. Loại một, thường thấy nhất, đó là tự ý mất tích. Loại hai là bị giết rồi giấu xác, loại thứ ba hiếm hơn, đó là trường hợp những người mất trí, bỏ nhà ra đi một cách vô ý thức.
- Như vậy thì theo tôi, một người tên tuổi như Davehem rất khó che đậy tai mắt mọi người. Nếu ông ta đã bị giết, sớm hay muộn, cảnh sát sẽ phát hiện. Còn ông ta bỏ nhà ra đi ư? Với các phương tiện giao thông hiện đại, rất khó mà...
- Chưa chắc đâu. Một người khi đã quyết định làm mất tích người khác hoặc chính mình, hắn sẽ đặt ra những phương án rất chặt chẽ để đánh lừa cảnh sát.
Thanh tra Jack cười nheo mắt:
- Cảnh sát thì có thể, nhưng còn Poirot, hắn dám giỡn mặt hay sao chớ?
Poirot khiêm tốn:
- Sợ gì mà không dám, mặc dù tôi có những phương pháp điều tra rất khoa học.
- Ông Mile cũng vậy, đúng là một con cáo già trong ngành cảnh sát. Ông ta sẽ không bỏ qua một chi tiết nào, dù nhỏ nhặt nhất.
- Đúng. Trong cuộc điều tra, mọi chi tiết đều có giá trị, một chút tàn thuốc, một mẩu bánh mì, một vết nhỏ hoặc một sợi tóc trên gối... Giác quan rất dễ đánh lừa tạ Sự thật thưởng ở bên trong hơn là ở bên ngoài.
- Ý anh nói là anh có thể khám phá ra sự thật mà không cần phải ra khỏi nhà?
- Đúng. Nếu những người liên quan không giấu diếm sự thật.
Thanh tra Jack xoa hai tay vào nhau:
- Tôi đánh cuộc 5 bảng Anh là anh không thể tóm cổ được ông Davehem dù sống hay đã chết sau một tuần lễ, kể từ hôm nay.
- Anh hãy kể rõ ràng cho tôi nghe nào. Biết đâu đấy!
Thanh tra Jack tằng hắng:
- Thứ bảy vừa qua, vào lúc 12 giờ 40 phút, ông Davehem đáp chuyến xe lửa từ Victoria đến ngôi biệt thự của ông ở vùng Sinsai. Ông hoàn toàn bình thường. Sau khi uống trà vào buổi chiều, ông đảo một vòng quanh vườn rồi bảo vợ: "Tôi sang làng bên bỏ mấy lá thư, nếu có một ông tên Lowen đến tìm tôi thì bảo gia nhân đưa vào phòng làm việc của tôi, chờ tôi một lát".
Rồi ông bước qua cửa chính, ra vườn, khuất sau cánh cổng. Chừng mười lăm phút sau, một ông già xưng tên Lowen đến và được đưa vào phòng làm việc của ông Davehem. Một giờ trôi qua, ông Davehem vẫn mất tăm. Không thể chờ lâu hơn, ông Lowen tỏ ý tiếc và cáo từ. Bà Devehem đành xin lỗi, tiễn ông ra cổng. Hôm sau, tức là ngày chủ nhật, gia đình ông Davehem báo cảnh sát nhưng cảnh sát không thể tìm ra ông. Hình như ông đã tan biến vào không gian. Chả ai trông thấy ông cả, trên đường làng cũng như ở nhà bưu điện. Nhân viên nhà ga khẳng định, ông không đáp xe lửa. Xe riêng của ông cũng không rời ga, và nếu ông ta có thuê xe thì chắc chắn tài xế phải báo lại để được lãnh món tiền thưởng hậu hĩnh. Ngoài ra hôm đó, cách nhà ông Davehem có tổ chức đua ngựa, nếu trà trộn vào đám đông để lên xe lửa tại chỗ này thì có thể không ai nhìn thấy ông.

<còn>
 
U

uocmolamnhavan

<tiếp>
- Một chi tiết hay đấy. Còn gì nữa không?
- Một sự việc bất ngờ xảy ra vào sáng hôm thứ hai: chiếc két sắt sau bức tranh nơi phòng làm việc của ông Davehem bị lục tung. Các cửa sổ đều chốt bên trong, chứng tỏ kẻ gian không thể từ bên ngoài đột nhập vào, trừ khi có nội ứng. Có thể vụ phá két xảy ra hôm thứ bảy, nhưng đến thứ hai mới được khám phá.
Poirot ngắt lời:
- Thế người ta có bắt ông Lowen không?
- Cảnh sát đang theo dõi ông ta rất chặt chẽ.
- Tình trạng chiếc két sắt như thế nào?
- Bị vét sạch. Bà Davehem khai rằng hình như trong két có nhiều ngân phiếu lớn, một số tiền mặt khổng lồ và rất nhiều nữ trang. Dạo này, chồng bà thường mua nhiều đồ trang sức quý giá.
- Chà, mẻ lưới lớn quá! Còn ông Lowen? Ông ta đã khai gì với cảnh sát?
- Hình như quan hệ giữa ông ta và ông Davehem không được tốt đẹp lắm. Lowen là một kẻ đầu cơ, đã nhiều lần qua mặt ông Davehem. Từ lâu họ không còn liên lạc với nhau nữa. Lần này, ông chủ ngân hàng Davehem hẹn gặp Lowen vì những cổ phần ở Nam Mỹ.
- Ông Davehem có những quyền lợi ở Nam Mỹ.
- Bà Davehem xác nhận là mùa thu vừa qua, bà có đi nghỉ ở đó.
- Hai ông bà có hạnh phúc không?
- Cũng bình thường. Bà Davehem không được thông minh lắm nhưng khá tốt.
- Ông Davehem có kẻ thù không?
- Ông ta có nhiều đối thủ, nhưng họ không giết ông ta đâu. Thời buổi này giấu xác chết đâu có dễ! À, còn việc này nữa, bác làm vườn khai rằng, hình như có ai đó đi từ phòng làm việc của ông Davehem ra vườn. Lúc đó, bác đứng quá xa nên không chắc bóng người đó có phải là ông Davehem không.
- Ông Davehem rời nhà lúc mấy giờ?
- Khoảng 5 giờ rưỡi.
- Phía ngoài vườn còn có gì không?
- Một cái hồ, một kho chứa xuồng trong đó có hai trăm chiếc. Anh nghĩ rằng ông ta tự tử ư? Anh yên tâm đi. Ngay ngày mai, thanh tra Mile sẽ cho tát hồ, dùng kính lúp soi từng cuống rong rêu.
Poirot cầm tờ báo mới phát hành, nhìn kỹ hình ông Davehem đăng nơi trang nhất, lẩm bẩm:
- Tóc quăn dài, râu rậm, cằm nhọn, lông mày chổi xể, mắt đen... Vụ việc phức tạp đấy. Nhưng đó là dấu hiệu tốt. Nếu tất cả đều rõ như ban ngày thì coi chừng, anh đang bị đánh lừa đấy. Chỉ cần anh cho biết những dữ kiện thu lượm được, đặc biệt là kết quả điều tra của ông Mile, tôi sẽ tìm ra ông Davehem cho anh.
Jack ra về. Thám tử Poirot nhìn tôi, hóm hỉnh:
- Hình như anh bạn không tin tôi lắm? Nói đi nào, chúng ta sẽ cùng xem xét các dữ kiện.
- Anh nghĩ sao về hồ nước? Cả kho chứa xuồng nữa?
Poirot nở nụ cười khó hiểu, không đáp.

o0o

Tối hôm sau, khoảng 9 giờ, thanh tra Jack trở lại. Poirot vồn vã:
- Có gì lạ không, anh bạn? Nhưng nói trước là tôi không tin rằng quý vị đã vớt được xác ông Davehem từ trong hồ đâu nhé.
- Gần đúng. Không phải xác nhưng người ta đã tìm thấy trong hồ bộ quần áo mà ông Davehem đã mặc hôm mất tích. Anh nghĩ thế nào?
- Anh cứ nói tiếp đi.
- Chúng tôi đã bắt Lowen. Cô hầu phòng khai rằng, cô đã thấy ông ta quanh quẩn trong vườn trước khi rời biệt thự. Còn một việc quan trọng nữa, chiều thứ bảy hôm đó, người ta bắt gặp Kolet, một tên vô lại có tiền án cướp giật, móc túi, vào một hiệu cầm đồ ở London để cầm một chiếc nhẫn mặt ngọc, sau đó nhậu nhẹt, gây sự đánh lộn làm náo động cả hàng quán. Rốt cuộc, y bị cảnh sát tóm cổ. Chúng tôi đã xác định, chiếc nhẫn mặt ngọc là của ông Davehem. Tên Kolet đã khai như sau: "Hôm thứ bảy, y đến trường đua để móc túi nhưng không gặp vận maỵ Lúc quay về, ngồi nghỉ sau một đống đá, y nhìn thấy một ông quý tộc da nâu, ria mép, từ xa đi đến. Ngang qua chỗ y nấp, ông này rút trong túi ra một vật nhỏ ném xuống đất rồi đi về phía nhà gạ Y đến lượm lên và mừng rỡ vì nhận ra đó là chiếc nhẫn quý". Nhưng theo tôi, chính tên này đã giết Davehem để cướp của.
Poirot lắc đầu:
- Không đúng đâu. Nếu ông Davehem bị giết thì từ đó đến nay người ta đã tìm thấy xác rồi. Hơn nữa, một tên móc túi hạng bét không bao giờ dám giết người cả, lại còn đi cầm chiếc nhẫn công khai nữa chứ.
- Lời khai của Kolet về người đàn ông liệng chiếc nhẫn giống hệt Lowen. Tuy nhiên, điều này rất phi lý, chẳng lẽ Lowen không tìm cách nào tốt hơn để phi tang chiếc nhẫn sao.
Tôi thắc mắc:
- Tại sao Lowen cần phải rút chiếc nhẫn ra khỏi tay nạn nhân?
Jack giải thích:
- Có lý do đấy. Ngay phía sau hồ có một hố vôi tôi. Vôi có thể làm tiêu xác người nhưng không ăn mòn được chiếc nhẫn.
- Trời ơi, nếu đúng như vậy, xác ông Davehem đã... quả là một án mạng khủng khiếp.
Thám tử Poirot vẫn điềm tĩnh:
- Xin anh cho biết, ông bà Davehem có ở cùng phòng không?
Câu hỏi lạc đề một cách ngớ ngẩn. Thanh tra Jack cố nén cười.
- Tôi không rõ lắm. Anh cần biết vụ này lắm sao?
- Rất cần. Anh giúp tôi được chứ?
- Nếu anh muốn.
- Tôi rất cảm ơn nếu được anh cho biết sớm.
Poirot chìm trong sự suy tưởng. Không muốn quấy rầy bạn, tôi lấy giấy ra ghi chép. Một lát, Poirot vỗ vào vai tôi.
- Anh bạn đang làm gì vậy?
- Tôi ghi những nhận xét của tôi. Anh có muốn tôi đọc không?
- Đương nhiên.
- Thứ nhất, Lowen đã phá két, thứ hai nếu Kolet kể đúng, chính Lowen có liên quan đến vụ mất tích của...
Poirot ngắt lời:
- Thật đáng buồn. Rõ ràng là anh không có năng khiếu suy luận. Lowen không thể biết trước sự vắng mặt của ông Davehem, mà nếu ông ta muốn lợi dụng thời cơ đi nữa, thì ông ta cũng không thể mở két sắt được. Muốn phá két sắt phải có đồ nghề của dân chuyên nghiệp chớ.
- Còn giả thiết thứ hai của tôi?
- Điểm này anh nói không được rõ ràng lắm. Liên quan như thế nào? Tại sao anh không chú ý đến hai điểm quan trọng này nhỉ. Thứ nhất là, thời gian gần đây, ông Davehem mua rất nhiều đồ trang sức, thứ hai là, mùa thu vừa rồi, ông ta có đến Nam Mỹ. Đó là lý do tôi đã đặt câu hỏi: "Ông ta và vợ có ở chung phòng không?", tôi đang chờ thanh tra Jack trả lời đây.
Ngày hôm sau, thám tử Poirot nhận được câu trả lời: "Từ mùa đông vừa qua, hai ông bà Davehem ngủ riêng".
Poirot reo lên: "Thế là rõ", rồi ông hỏi tôi:
- Anh không có tiền gởi ở ngân hàng Davehem chứ?
Tôi lắc đầu. Poirot tiếp:
- Hay quá. Vậy nhờ anh đánh giùm cho tôi bức điện gửi thanh tra Jack: "Hãy rút tiền khỏi ngân hàng Davehem trước khi quá muộn".
Tôi làm theo lời Poirot tuy lòng đầy nghi hoặc. Nhưng hai ngày sau, tôi mới thấy rõ tài đoán như thần của bạn tôi. Các báo đều loan tin vụ phá sản chấn động của ngân hàng Davehem. Sự mất tích của Davehem mang một chiều hướng mới khi người ta khám phá ra nhiều vụ làm ăn bê bối của ngân hàng này.
Khi chúng tôi đang dùng cơm thì thanh tra Jack cầm tờ báo tung cửa chạy vào:
- Poirot, anh là phù thủy chắc?
Poirot cười:
- Sau khi nhận được câu trả lời của anh, tôi tin là mình nghĩ đúng. Ngay từ đầu, vụ phá két sắt đầy vẻ giả tạo, rồi bao nhiêu tư trang, vàng bạc biến mất quá dễ dàng! Tôi nghi là ông Davehem đã đem hết tiền bạc mua nữ trang nhưng lại thay đồ giả vào két sắt. Bằng cách đó, ông ta chuyển được một tài sản khổng lồ dưới một tên giả đến một chỗ bí mật, chờ khi có điều kiện sẽ thừa hưởng. Sau khi chuẩn bị xong, ông mở két sắt rồi hẹn gặp Lowen để trút hết tội lỗi lên đầu đối thủ của mình. Trong khi đó, ông ta ra đi. Đi về đâu nhỉ?
Thanh tra Jack sốt ruột:
- Tôi muốn biết ông Davehem hiện trốn ở đâu? Anh đừng dài dòng nữa.
- Ông ta đi đến nơi cần phải đến. Đó là chỗ ẩn náu bất ngờ nhất. Quả là một người có trí tuệ hảo hạng.
- Khổ quá, hay hãy nói đi nào.
Poirot nhìn tôi:
- Anh bạn thân mến, nếu anh ở vào địa vị Ông ta, anh sẽ trốn ở đâu?
Tôi nói không suy nghĩ:
- Tôi sẽ ở ngay London, một đô thị đông người và tôi sẽ lẫn vào đám đông ấy. Không đâu an toàn bằng ở giữa đám đông.
Thám tử Poirot đưa mắt nhìn thanh tra Jack:
- Còn anh?
- Tôi không đồng ý. Nếu tôi sang đoạt được một số tài sản khổng lồ như vậy, tôi sẽ biến thật xa đến tận cùng trời cuối đất.
Ngưng một lúc, Jack giục:
- Anh cũng phải nói ý kiến của mình đi chớ.
- Tôi ấy à? Nếu cần trốn cảnh sát, tôi sẽ chạy thẳng vào tù.
-...
- Các anh truy lùng ông Davehem để tống vào nhà giam nhưng không bao giờ các anh vào trong nhà giam để tìm bắt ông tạ Anh nói bà Davehem kém thông minh, nhưng nếu anh đưa bà ta vào nhà tù gặp Kolet, bà ta sẽ nhận ra chồng mình ngay, dù bây giờ râu ria ông ta bờm xờm, đầu tóc bù xù, quần áo te tua.
- Kolet? Anh nói cái gì? Đó là một tên vô lại có tiền án đã được ghi tên vào sổ đen.
- Tôi chả nói với anh, Davehem cực kỳ thông minh sao? Hắn đã chuẩn bị việc này từ lâu. Mùa thu năm rồi, hắn không đi Nam Mỹ, mà ở lại để tạo ra nhân vật Kolet, tên này quậy tùm lum rồi ngồi tù ba tháng. Đến khi cần trốn, Davehem lại trở thành Kolet để được vào tù. Hắn đã chơi một canh bạc lớn, nếu được, hắn sẽ có trong tay một tài sản khổng lồ. Vậy thì vài tháng trong nhà giam có là bao. Năm ngoái khi ở tù ra, hắn đã đeo râu tóc giả để trở thành Davehem. Nhưng đeo râu tóc giả rất khó chịu, nên chẳng tội gì nằm cạnh vợ cho phiền, nhất định hai người phải ngủ riêng phòng, thế là giả thiết của tôi phần nào ăn khớp. Bác làm vườn nói đã thấy người từ trong phòng ông chủ đi ra, đó chính là Davehem đã ra nơi để xuồng sau khi mặc bộ đồ của Kolet và quăng áo quần mình xuống hồ. Sau đó, theo kế hoạch, hắn công khai cầm nhẫn, đánh lộn để được tống giam một cách an toàn.
- Ồ... không thể tin được.
- Vậy thì hãy yêu cầu bà vợ Davehem đến nhận diện.
Hôm sau, Poirot nhận được một phong thư của thanh tra Jack, bên trong có 5 bảng Anh. Ông bạn của tôi cười:
- Khốn khổ, tôi lại được cuộc nữa rồi. Thế này nhé, chiều nay ba chúng ta sẽ chén một bữa ra trò.
 
U

uocmolamnhavan

Bùa Ngãi Ở San Jose
<t/g:khuyết danh>
Khi tôi đến bấm chuông ở ngôi nhà số 2924 Garden Avẹ, San Jose, CA 95111 vào lúc 03:00 giờ chiều ngày 26-11-2002 thì một người đàn bà đứng tuổi, có làn da mịn hồng đã mở cửa bước ra mời tôi vào nhà.
Cánh cửa rất hẹp mặc dầu ngôi nhà cũng khá rộng. Qua khỏi cửa, tôi ngửi thấy mùi nhang khói và mùi trầm hương cùng với mùi nước hoa quyện vào nhau ở bên trong căn nhà. Người đàn bà lại mở một cánh cửa rất hẹp vừa cho tôi nghiêng người lách qua để đi vào một căn phòng khác nằm chếch bên trái của cửa chính ra vào. Đây là cả một thế giới huyền bí của người đàn bà đã gọi điện thoại cho tòa soạn Việt Báo để mời tôi đến thăm cơ sở kinh doanh của bà ta.
Cơ sở của bà là một căn phòng nhỏ lối hơn 10 thước vuông. Khắp bốn bức tường và ngay trên cánh cửa vào phòng đều được dán kín với những hình bùa phép, các tượng ảnh mang những biểu trưng bí ẩn gì đó. Phía tường ngay lối cửa là một bàn thờ đủ các loại thần linh và tượng Phật theo điêu khắc của Thái Lan. Chung quanh bàn thờ là các lá bùa vẽ rồng rắn khó hiểu và dưới chân tượng Phật là các loại hoa quả, và đặc biệt có mấy mâm chứa đầy trứng vịt sống với nhang đèn nghi ngút. Bức tường đối diện với bàn thờ là bàn làm việc của người đàn bà được đặt sát một cửa sổ nhỏ làm bằng kính mờ.
Người đàn bà ngồi vào chiếc ghế phía sau bàn làm việc, lưng bà sát vào cái kệ tủ có nhiều ngăn lộ thiên đặt những cái khay lớn nhỏ khác nhaụ Trên từng mỗi cái khay có những hàng chữ viết bằng chữ Việt dán lên như những ngăn tủ thuốc có đề tên trong một tiệm thuốc bắc. Các hàng chữ ghi rõ như "Bùa đem chồng con về", "Phép uống thương", "Bùa hộ mệnh bình an", "Phép sang bán xe nhà tiệm quán", "Phép đốt móng", "Giải bùa thư yếm", "Phép đốt", "Bùa lớn", "Nàng Quốc", v.v...
Tôi ngồi xuống cái ghế duy nhất đặt đối diện với người đàn bà. Sát cái bàn ngay bên cạnh tôi là một tủ sắt nhỏ có từng ngăn chia thành nhiều hàng và mỗi hàng lại ngăn ra từng ô nhỏ bên ngoài đề các tên khác nhaụ Nhìn qua lớp kính mỏng tôi thấy bên trong giống như là những loại rễ cây hoặc lá khô.. Người đàn bà đưa tay bật sáng cây đèn loại dành cho bàn viết và chiếu ánh sáng vào phía những ngăn nhỏ trên tủ sắt rồi nói:

- Đây là 100 loại Ngãi quý nhất mà tôi có đủ. Tôi cam đoan chắc rằng hiện nay có nhiều người nuôi Ngãi, nhưng không ai có những loại Ngãi quý hiếm nầy.

Người đàn nhìn tôi chăm chú như muốn xem phản ứng của tôi như thế nàọ Bà ta chìa ra trước mặt tôi một tờ Việt Báo đã cũ và một tờ giấy ghi tên tôi, địa chỉ tòa soạn Việt Báo và số điện thoại:

- Tôi đã đọc bài của ông viết về nhiều cơ sở trên Việt Báo rất vô tư và xây dựng. Có một cái chợ tôi tưởng rằng nó đã chết, nhưng nhờ bài viết của ông mà nó sống lại sầm uất. Tôi đã ghi tên ông và địa chỉ để liên lạc nhưng tôi phải đi về Thái-Lan thỉnh phép một thời gian. Nay trở lại San Jose, tôi mạnh dạn gọi điện thoại mời ông đến xem xét công việc của tôi đang làm.

- Bà có thể vui lòng cho tôi biết bà làm nghề gì? Việt Báo chỉ giới thiệu người thật, việc thật, công việc hợp pháp mà thôị Sự giới thiệu là hoàn toàn miễn phí.

Người đàn bà đưa ra Giấy Phép Hành Nghề và nói: "Xin gọi tôi bằng Cô là được rồi." Tôi chưa có chồng và không bao giờ được phép gần đàn ông về thể xác. Đây là License của tôi. Việc làm chính của tôi hiện nay là "Làm phúc, là cứu người".

<còn >

 
U

uocmolamnhavan

Hai ông già!

Hai ông già
Tác giả: Sơn Nam

Giặc Pháp tràn vào xóm, khoảng đầu năm 1946. Hay tin ấy, thầy giáo Chích rất buồn phiền và căm hận. Suốt đêm, thầy ngủ không yên. Dường như giặc Pháp bắn chơi cho vui, vì đạn dược còn quá nhiều. Và tuy không phải người lính chiến đã từng xông pha trong trận địa, thầy gật gù, kết luận:
- Tụi Thanh Niên Tiền Phong đã rút lui, chẳng dám bắn một phát súng để cứu vớt thể diện cho đám con Hồng cháu Lạc, cho đàn cháu của Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Đình Chiểu...

Về khuya, tiếng súng thưa thớt dần. Và trong xóm vắng đã bị “tiêu thổ”, vài con chó tru nghe thảm thiết. Thầy giáo Chích lồm cồm ngồi dậy, tắt ngọn đèn dầu cá rồi nằm xuống mặt đất. Gió thổi lào rào, sương lùa vào, gian nhà lạnh lẽo. Bàn tay thầy giáo mân mê cái mền rách nát, còn tạm dùng được nhưng đầy rận rệp.

Ngoài cửa, có tiếng ho hen sù sụ. Thầy giáo ngồi dậy, chưa dám lên tiếng.
- Thầy giáo ơi! Thầy giáo...
Hồi lâu, giọng nói ấy nghe ấm áp hơn:
- Tôi mà. Tôi là hương cả An, mở cửa ra! Bộ thầy quên tôi rồi sao? Tôi muốn bàn với thầy một chuyện quan trọng... Ủa, sao không trả lời. Tôi rình ngoài vách, thấy rõ thầy thổi cái đèn cho tắt kia mà.
Thôi thì giáo Chích đành lên tiếng:
- Mời ông vô. Thời buổi này, khó sống quá. Tôi sợ...
Ông hương cả An đốt đèn rồi nói rỉ vào tai người bạn trẻ:
- Tây đóng đồn, coi bộ mạnh lắm đó. Nó chiếm tới chợ Cà Mau rồi, nghĩa là khắp Nam Kỳ lục tỉnh, như thời xưa vậy. Mấy thằng Thanh Niên Tiền Phong tệ quá...
Vô tình ông hương cả đánh trúng tim đen thầy giáo Chích. Thầy gật đầu:
- Tệ thật... Họ không giữ được chữ tín với bà con chòm xóm. Họ thề ăn thua tới giọt máu cuối cùng, vậy mà... họ rút lui không kèn không trống. Như tôi đây cũng là thơ ký kiêm ban cứu thương vậy mà họ đi mất dạng không cho tôi hay biết... Té ra, họ sợ giặc, mất tất cả sự trầm tĩnh của con người... công dân!

Thế rồi từ lúc nửa đêm về sáng, hương cả An và thầy giáo Chích trở thành hai người bạn tương thân tương đắc giống hệt nhau từ nhân sinh quan đến vũ trụ quan! Ông hương cả An cho biết “bọn” Thanh Niên Tiền Phong là nhóm người ô hợp, trong đó có khá nhiều phần tử ở mướn, và... tay sai của thực dân từ trước. Mấy câu sấm truyền “Long vĩ xà đầu” được gợi lại, bàn tán. Bỗng dưng mà thầy giáo Chích đâm ra hoài cổ, ngâm khe khẽ câu thơ “khiển hoài” của ông Đặng Dung hay Đặng Tất, đời nhà Trần: “Thế sự du du nại lão hà?... Thời lai đồ điếu thành công dị. Vận khứ anh hùng ẩm hận đa...”

Ông hương cả nói:
- Đúng lắm. Hễ bọn thất phu mà gặp thời thì lên mặt phách lối. Kẻ anh hùng cam nuốt giận, nuốt rất nhiều. Như thằng cháu rể của bác, bác rành lắm. Vài đứa chạy xuống miệt Cà Mau, đem theo vàng mà đồng bào lạc quyên để mua súng đạn. Dọc đường, lại dám tri hô bị ăn cướp chận đánh. Rồi sau đó...
Thầy giáo Chích gật gù:
- Sau đó. Đem vàng bạc về Sài Gòn, làm ăn mua bán... Tốt hơn, mình nên lo phận mình cho qua ngày qua tháng, chờ khi nào sáng tỏ hơn. Bây giờ, vàng thau lẫn lộn.
Gà gáy sáng, gáy thưa thớt ở tận trong ngọn rạch. Súng ngoài đồn nổ vang. Ông hương cả tạm biệt thầy giáo Chích, nói với lại:
- Thầy yên tâm. Mình nên ở ẩn một thời gian, mặc cho đời dị nghị. Rồi đây, mười năm sau, người đời hiểu mình hơn.
- Chừng nào ông trở lại? Đừng quên cháu, nghe bác. Ở đây một mình, buồn lắm.
- Đừng lo...

Nói xong, ông hương cả về nhà.

Thầy giáo Chích, sống trơ trọi một mình. Từ hồi binh đao bắt đầu dấy lên ở tận Sài Gòn, thầy đã biết lo xa, cho vợ con về Bến Tre để khỏi bận rộn thê nhi.

Người trong xóm lần lượt tản cư, cất chòi ngoài ruộng. Thầy giáo Chích tha hồ lục lọi những nhà vô chủ. Ngày vui sướng nhứt trong đời đã đến: tình cờ gặp một bộ truyện Đông Châu Liệt Quốc, suốt ngày đêm, thầy nằm vùi, đọc không bỏ sót một hàng, đọc tới đọc lui. Năm bữa sau, tự dưng thầy giáo Chích tự phong mình làm nhà... thông thái. Thầy ghi chép những cảm nghĩ lên giấy, phê bình các nhân vật Đông Châu. Dưới mắt thầy, Kinh Kha là kẻ khờ dại, Khánh Kỵ Yếu Ly là kép hát vô danh, Thái tử Đan là kẻ chí lớn tài mọn... Thầy muốn ghi lại những kinh nghiệm từ ngàn xưa để hy vọng lưu truyền cho hậu thế...
Ông hương cả lắc đầu:
- Thầy giáo nhớ tới tôi, tôi cám ơn. Ngặt trong thời loạn ly, khó làm thi phú cho có thần.
Thầy giáo Chích nài nỉ:
- Hết giấy rồi, uổng quá, tôi lục lạo mấy cuốn tập cũ của học trò, bằng không thì bộ sách nầy còn dày thêm cả trăm trang. Ông cứ làm một bài thơ bát cú để khi nào in ra thành sách, cháu in bài thơ đó lên hàng đầu, ông ghém tâm trạng u uất vô bài thơ, ví thời đại nầy như thời Đông Châu Liệt Quốc, ai dám bắt bẻ...
Rốt cuộc, ông hương cả nhận lời với một điều kiện nghe qua thì hữu lý:
- Thanh Niên Tiền Phong biết được bài thơ đó thì nguy lắm. Cũng như tập sách bình luận cổ kim của thầy có thể làm “bên kia” thắc mắc. Tốt hơn, thầy xin làm thầy giáo vô ngạch... nhà nước. Ông quan hai Phẹt-Năng ở ngoài chợ T.B là người hiền hậu. Hôm qua, ông ta mời những thân hào tới, lập lại ban hương chức hội tề để người “An Nam cai trị người An Nam”, còn ổng thì sớm muộn gì cũng về Mạc-Xây, làm nghề điều khiển hành khách du lịch...
<còn nữa>
 
U

uocmolamnhavan

<tiếp>...hai ông già!

Giáo Chích nhận lời. Trên đường đi ra chợ T.B, trong một thoáng, thầy ta hơi chạnh lòng. Làm sao lừa dối lương tâm được. Như vầy là... theo Tây rồi! Một kiểu theo Tây hơi sạch sẽ. Nhứt là khi thấy vài cụ già ngồi làm cỏ vườn cây ăn trái, hai bên đường. Trai tơ gái lứa đều vắng. Các cụ hiên ngang ở lại, giả dại, giả ngây:
- Chào ông đại hương cả! Chào thầy giáo!
Giáo Chích gật đầu, lấy lệ:
- Chào mấy ông...
- Bậy nè! Nay mai, thầy lên chức “ông” mấy hồi. Quan hai Phẹt-Năng là người trọng dụng tất cả nhơn tài. Thầy là người trí thức... sướng hơn tụi tui... Tụi tui tối ngày săm soi mấy gốc mận... cho tới chết.
Ông hương cả day qua thầy giáo Chích:
- Hay quá. Mình kiếm vài chục trái mận sọc tặng cho ông quan hai Phẹt-Năng. Ổng ưa trái cây lắm.

Vùng đất T.B từ lâu nổi danh về mận. Ở đây, có hai loại mận to trái, ngọt như đường, không có hột. Nhiều người nhìn nhận: ăn mận nầy ngon hơn ăn trái bôm, trái xá lỵ. Màu mè tươi tắn hơn.

Thầy giáo Chích gật đầu:
- Mận hồng điều, ăn ngon vô kể. Bên Tây, làm sao tìm cho ra thứ trái đó.
Vào buổi giao thông vận tải còn quá khó khăn dân làng sẵn sàng tặng cho giáo Chích hàng trăm trái mận hồng điều. Họ nói vài câu nghe đau xót mà chân thành:
- Để mà làm gì, nó rụng xuống mương cũng uổng. Miễn là mấy ông Tây đừng đốn cái vườn mận là tụi tôi vui rồi. Trái cây mà! Hiếm hiệm. Miễn gốc còn thì trái còn...

Câu nói xa xôi mơ hồ ấy khiến thầy giáo Chích hơi buồn. Phải chăng mấy người đó muốn ám chỉ kẻ làm Việt gian... chạy theo bơ sữa của quan hai Phẹt-Năng là mất gốc?

Sau khi trình diện với quan hai Phẹt-Năng, giáo Chích được cấp cho cái giấy thông hành tạm. Quan hai căn dặn:
- Chừng hai ngày nữa, tôi cho thầy dạy học tại chợ nầy.
Giáo Chích ngỏ lời cảm ơn. Quan hai Phẹt-Năng nói tiếp:
- Tôi muốn cho thầy làm thơ ký trong đồn nầy nhưng bấp bênh lắm.

Rồi quan hai Phẹt-Năng phàn nàn về một vụ trộm cắp hết sức “dơ dáy”. Cách chừng ba hôm trước, bọn lính Pháp và bọn thân binh phơi quần áo kaki bên hông đồn. Dè đâu, dân ở gần đồn rủ nhau trộm, lấy tất cả quần áo và dây kẽm gai. Thủ phạm là một lũ trẻ con. Theo giả thuyết của ông Phẹt-Năng thì chính bọn người lớn điều khiển, cho trẻ con thi hành. Chúng nó nhảy vô vòng rào, cắt hai đầu dây rồi dùng dây đó mà quấn tròn, gói ghém tất cả quần áo của lính.
Ông Phẹt-Năng điều tra thêm:
- Dân ở đây sống bằng nghề gì?
Giáo Chích đáp:
- Nghề trồng mận. Mận nầy ngon nổi tiếng, nên bán với giá cao: mận sọc đỏ và mận sọc xanh.
Trong một thoáng, ông Phẹt-Năng cau mày suy nghĩ rồi mỉm cười:
- Dường như hai loại mận nầy quí báu lắm. Ở xứ khác có không? Tại sao xứ nầy có?
Giáo Chích ngơ ngác:
- Bẩm ông...
Quan hai dịu giọng ngay:
- Ai đem hai thứ mận này tới đây? Thầy giáo tìm tài liệu giùm tôi. Mận sọc đỏ, mận sọc xanh là thứ trái cây mới xuất hiện.
- Tôi nào biết...
- Nhưng mấy người lối xóm chắc biết rõ. Họ ở đây lâu đời, phải không thầy giáo?
Giáo Chích trả lời giọng ngây thơ:
- Bẩm quan lớn. Để tôi mời hai ông già cố cựu xóm nầy tới đây... cho quan lớn điều tra.
Vô tình mà giáo Chích lọt vào quỉ kế của quan hai Phẹt-Năng. Số là tên quan hai nầy muốn nghiên cứu phong tục, dò xét sự phản ứng của dân chúng khi người Pháp đến tảo thanh Thanh Niên Tiền Phong. Hắn muốn đo lường sự trung thành của dân chúng đối với chánh phủ Pháp tới mức nào.
Độ mười phút sau, giáo Chích trở lại đồn. Quan hai ăn mặc chỉnh tề, vào phòng làm việc để đóng vai nhân vật quan trọng. Qua khung cửa sổ, hắn thấy thầy giáo Chích và hai ông lão tiến vào cửa, đội trên đầu hai thúng đựng đầy những trái mận đỏ, mận xanh no tròn.
Người lính canh chạy vô báo tin. Quan hai Phẹt-Năng nói khẽ:
- Cho vô tự nhiên nhưng phải để hai thúng mận ngoài cổng. Mầy lục soát thử coi có vũ khí gì trong thúng không!
Giáo Chích được mời ngồi ghế. Quan hai gọi lính đem vào phòng hai cái ghế rồi mời hai ông lão ngồi. Hai ông lắc đầu, day qua giáo Chích như phân trần:
- Ngồi dưới gạch, dựa lưng vô vách được rồi. Tụi tôi đâu dám ngồi ghế... kiểu Tây.
Giáo Chích nài nỉ:
- Ngồi trên ghế cho rồi mà. Quan lớn ra lịnh!
Một ông lão đáp:
- Người An Nam mình ngồi trên bộ ván chớ không ngồi ghế. Có hai kiểu ngồi: chồm hỗm hoặc xếp bàn tròn (xếp bằng), thế thôi. Ngồi ghế, hai cái tay cái chân nó... tòn ten, kỳ cục lắm. Xưa nay, ghế chỉ dùng cho vua hay quan lớn mà thôi...
Quan hai trố mắt khi nghe giáo Chích “thông ngôn” lời ông lão. Thế là ông hương cả được gọi vào. Ông hương cả xác nhận:
- Người bình dân An Nam có hai cách ngồi là xếp bằng và ngồi chồm hỗm mà thôi!
Quan hai hơi bực dọc. Hai ông lão cứ khoanh tay, nhìn nhau. Quan hai hỏi:
- Sao họ day mặt chỗ khác? Họ khinh tôi hả?
Giáo Chích khuyên nhủ. Nhưng hai ông lão vẫn cứ cúi mặt. Giải thích rằng:
- Sợ lắm. Thời xưa, theo tục lệ An Nam thì dân phải kính trọng xá quan, quì lạy vua. Nhìn thẳng vào mặt người ta là vô phép. Bởi vậy, khi tâu với vua, mấy ông tể tướng còn phải quì cúi mặt.
Đã đến lúc không còn nhịn được nữa. Nhưng quan hai Phẹt-Năng là kẻ được đào tạo ngành gián điệp từ bên Pháp. Hắn đã lôi cuốn được hầu hết mấy ông cựu hương chức hội tề, luôn cả thầy giáo Chích.
Dưới mắt hắn, hai ông lão kia thuộc vào loại người khó mua chuộc. Và trước khi mua chuộc thì hắn cần phải hăm dọa khéo léo. Dùng lời ngon ngọt nhưng gợi nhiều ý nghĩa xa xôi để hai ông lão suy nghĩ và càng suy nghĩ thì càng sợ oai lực nhà nước Pháp.
- Ông già này, tên gì?
Giọng nói của quan hai trở nên cứng rắn. Ông lão thứ nhứt vụt đứng dậy:
- Quan lớn gọi tôi?
Quan hai Phẹt-Năng khoát tay:
- Ngồi xuống!
Ông lão lẩm bẩm:
- Ngồi mà nói chuyện là vô phép. Hay là...
Giáo Chích chận lời:
- Ổng sợ ông chạy trốn. Cứ ngồi mà nói. Ông tên gì?
- Dạ, tên Mười Bạch.
Quan hai nói chẫm rãi:
- Nhà ông trồng mận đỏ?
- Dạ, đó là mận hồng đào. Xưa kia xứ nầy không có mận đỏ. Mấy thứ kia trái ăn hơi chát, bán rẻ. Gọi là mận ta.
- Mận hồng đào có từ bao giờ? Tại sao trước kia chẳng nghe ai nói?
Lão Mười Bạch gãi đầu, day qua giáo Chích khẩn cầu nhờ giải thích giùm. Giáo Chích muốn khoe khoang sự hiểu biết của mình với quan trưởng đồn:
- Thưa ông, hầu hết loại trái cây... đều từ xứ lạ đem tới...
Rồi như nhận thấy sự lẩm cẩm của mình, giáo Chích sửa lại:
- Thưa ông tôi muốn nói: sầu riêng, chôm chôm, măng cụt... đều là giống cây ở miền dưới, tức là Mã Lai, Nam Dương đem lên Nam Kỳ. Còn trái mận hồng đào thì...
Giáo Chích cụt hứng, cố tiếp lời:
- Ông Mười Bạch ở xóm nầy hơn 50 năm, chắc hiểu rành hơn tôi. Cách đây chừng ba năm, mận hồng đào chưa có. Ai đem giống mận đó tới vậy?
Lão Mười Bạch thở dài rồi cười nhếch mép:
- Dạ nói ra sợ quan lớn chưa tin. Tôi là người đầu tiên trồng giống mận hồng đào tại xứ nầy.
- Giống mận ở đâu mà có?
- Trời mà biết! Số là...
Lão Mười Bạch ngưng một chập rồi tiếp lời:
- Số là năm đó trong vườn tôi trồng nhiều mận ta. Tôi ra vườn hái trái, thấy một cây mận hơi lạ... Lá nó lớn, bông nó to... Nó kết trái. Đó là trái mận hồng đào. Tôi sực nhớ mấy năm trước chim bay qua vườn của tôi từng bầy. Và có một con chim lạ to lớn, mặt mày quái dị. Tôi muốn nói là...
Quan hai nửa tin nửa nghi bèn thúc hối:
- Nói mau đi!
Lão Mười Bạch đáp:
- Nói ra sợ quan lớn chê bai. Số là con chim đó ăn mận từ xứ lạ, bay qua đây rồi tình cờ... ỉa xuống. Cái hột mận còn nguyên, châm rễ, mọc lá... Sự tích mận hồng đào là vậy!
Quan hai Phẹt-Năng hỏi:
- Còn mận sọc xanh? Ai đem nó tới?
Mười Bạch nhìn ông bạn già là Tư Nếp.
Anh cắt nghĩa đầu đuôi phải quấy cho quan am tường. Tôi nói chuyện mận hồng đào. Anh bạn nói chuyện mận sọc xanh đi! Sự tích cũng giống như vậy thôi...
Lão Tư Nếp vừa nói, vừa gãi đầu:
- Dạ năm đó, tôi ra ngoài biển Cà Mau mà đánh lưới. Tình cờ gặp con cá hình thù quái dị. Chừng đem về xẻ làm khô, tôi thấy trong ruột cá có cái hột gì đen thui, trồng thử thì nó sống nhăn, mọc lên, trổ ra trái mận sọc xanh. Mận xanh, mận hồng điều đều chiết nhánh được. Lần hồi hai thứ mận mọc lan tràn. Thiên hạ chê thứ mận ta, chát ngầm.
Quan hai Phẹt-Năng đứng dậy:
- Cho hai ông già nầy về! Nghe chán quá. Một thứ thì do cá dưới nước, một thứ thì do chim trên trời. Hai ông già nói dóc. Coi chừng tôi!
Rồi day qua giáo Chích:
- Xong rồi! Đưa hai ông già ra cửa.
Đến cổng, giáo Chích tạm biệt lão Mười Bạch và Tư Nếp.
Mười Bạch nói:
- Thầy giáo phá tôi hoài. Để tôi ở yên. Tại sao mấy ông Tây ưa cắt nghĩa quá.
- Thì người Pháp muốn biết nguồn gốc vài thứ trái cây lạ ở thuộc địa, vậy thôi. Mà hồi nãy mấy ông nói thiệt hả?
Lão Tư Nếp đáp:
- Thì ông bà mình có câu “cá nước chim trời...”. Cái gì lạ thì do cá nước chim trời... đem tới. Trời mà biết. Cắt nghĩa làm chi. Hai thứ mận đó ăn ngon, hợp với phong thổ, nó sống hoài. Thầy giáo biểu tôi cắt nghĩa cho ông quan hai nghe sự tích. Làm sao cắt nghĩa... Cũng như thầy giáo hỏi tại sao tôi biết ăn, biết thở. Từ rày về sau, thầy đừng làm vậy nữa. Tôi phiền lắm!
Giáo Chích bẽn lẽn:
- Tôi hứa để hai ông ở yên, trừ khi nào quan hai muốn điều tra...
Mười Bạch nói gắt, chỉ ngón tay vào một gốc cây đã trụi nhánh, trong sân.
- Đây là cây mận hồng điều. Muốn biết thì cứ coi nó trổ bông kết trái. Mấy cha nội Tây ưa đốn ngang để làm nọc giăng sợi dây phơi quần áo. Coi bộ nó còn mọc hoài...
Nói xong, hai ông lão vừa đi vừa chạy... Giáo Chích bị chạm tự ái, đến gặp quan hai để mong giữ uy tín:
- Hai ông già đó lợi hại lắm, có con cháu theo Thanh Niên Tiền Phong đó quan lớn!
Quan hai Phẹt-Năng gật đầu rồi đưa tay vỗ nhẹ lên đầu giáo Chích như người cha khen đứa con có hiếu. Thầy giáo Chích thấy đau xót lạ lùng.
 
U

uocmolamnhavan

Hết Thời Oanh Liệt

Hết Thời Oanh Liệt
Tác giả: Sơn Nam
,


Non trăm năm về trước, làn sóng người Việt Nam từ Cần Thơ, Vĩnh Long đổ xuống Rạch Giá, Cà Mau để khai khẩn đất hoang. Họ đã gặp những trở ngại thiên nhiên nào? Tài trí, sự dũng cảm của họ ra sao? Lòng chúng ta không khỏi phập phồng âu lo khi ngày nay đọc lại quyển Truyện Đời Xưa của cụ Trương Vĩnh Ký. Cụ có nhắc lại câu chuyện cọp ở vùng Gò Quao. Cọp ta đi dạo xuống bãi sông để tìm mồi, rủi bị kẹt đuôi trong bụi dừa nước...
Rõ ràng thời ấy cọp quá lộng hành dám bỏ rừng sâu, bén mảng đến các xóm nhà sát mé sông, nơi mà chúng bị cô lập, thất thế nhứt. Ông cha ta đã đánh đuổi lũ cọp ấy như thế nào? Có người đáp: nhờ các thầy võ giỏi chuyên môn đánh cọp xuất thân ở các trường võ Quảng Nam, Quảng Ngãi. Gặp lúc nước nhà loạn lạc, các thầy chạy vào vùng Cà Mau mà ẩn lánh. Võ nghệ của các thầy quá đỗi cao cường, gặp cọp là rượt bắt lại, nắm gáy đè xuống, nện vào lưng cọp những quả đấm thôi sơn chẳng khác nào chúng ta ngày ngay đánh một con mèo hoặc một con chó con...
Người khác bảo rằng: họ đã từng gặp mấy ông thầy bùa Xiêm, chuyên môn dụ dỗ cọp. Các thầy Xiêm nằm ngửa dưới gốc cây giữa rừng mà thổi kè, nói đúng hơn là thổi vào một miếng lá tre. Tức thời cọp mẹ, cọp con chạy lại, quỳ xuống hầu hạ canh gác cho thầy ngủ. Sau khi thức dậy, thầy xiêm võ về từng con, nhổ vài sợi râu hoặc vài sợi lông để nuôi sâu. Lông cọp, râu cọp được đem về cắm trong măng tre đang mọc. Vài hôm sau thì ô hô, mỗi sợi là một con sâu. Tục truyền rằng loại sâu ấy lớn bằng cườm tay, mặt đỏ hói, mình mảy vằn vện, có đuôi dài ngoe nguẩy. Nhiều người nuôi nó trong một cái hũ kín mít để giữ nhà. Khi có khách đến sâu cọp nhảy dựng trong hũ nghe rổn rảng rồi la hét! Ngoài ra, *** của loại sâu này rất quý giá vì nó là vị thuốc độc, giết người trong nháy mắt. v.v...
Sự thật ra sao?
Cọp U Minh, cọp Gò Quao ngày nay bị tiêu diệt hoặc bị xua về Bảy Núi, về Tà Lơn phải chăng là nhờ các thầy võ Quảng Nam hoặc các thầy Xiêm có bùa phép?
Trả lời câu hỏi ấy, cách hay nhứt là đến tìm các ông bà lão hiện còn sống ở vùng Gò Quao, Trà Ban. Mấy ông này nếu không trực tiếp đánh cọp thì ít ra cũng đã thấy và nghe rõ ràng hơn chúng ta. Vậy xin mời các bạn đọc thân mến đến phỏng vấn và nghe các ông trả lời.
- Thưa ông, ông xuống đây lập nghiệp từ hồi nào?
- Ðiều đó không nhớ chắc chắn ngày tháng. Nhưng mà mấy cháu nên nhớ: hồi Tây đánh nước mình, miệt Rạch Giá, Cà Mau còn hoang vu. Ngoài biển, có ghe đánh lưới của người Hải Nam. Còn trong đất liền chỉ có mấy nhóm người Triều Châu, Phước Kiến qua đây từ đời ông Mạc Cửu. Họ ở gần chợ Rạch Giá, chợ Bạc Liêu bây giờ. Kỳ dư, có vài sóc người Miên ở giữa đồng. Thưa thớt lắm. Sông Cái Lớn, Gò Quao này nhiều khi chèo ghe suốt ngày mà không gặp một nhà nào. Nghe nói hồi Gia Long tẩu quốc, nhiều người cất nhà ở Tân Bằng, Cán Gáo, Tàu Dừa, Cái Nước. Hồi tôi xuống Gò Quao này, ở miệt dưới đã có vườn tược, có cau lão rồi. Nhưng đó là chuyện xa xôi, cách mình một khoảng rừng trên trăm cây số. Nghe nói chớ tôi chưa từng đi tới.
- Lúc đó miệt Trà Ban này phải chăng là hoàn toàn không có ai ở?
- Sự thật như vậy. Vài nhà người Miên ở tận giữa đồng nhưng họ không làm ăn chung đụng với người mình. Kỳ dư, ven sông Cái Lớn này toàn là rừng. Trên bờ có cọp, dưới sông có sấu. Mình chèo ghe ban ngày, chừng vài trăm trước là thấy sấu nổi trước mũi ghe. Trời chạng vạng, nghe cọp rống, mấy ổng úp mặt xuống đất nên có tiếng dội...
- Hồi mới tới cất nhà, chắc cọp khuấy rối mình dữ lắm!
- Không có! Không có! Mình ngu dại gì vô tuốt trong ngọn cùng mà cất chòi. Làm như vậy có hai điều lợi. Một là trong mấy ngọn rạch không có rừng già. Rừng chỉ ăn dài theo mé sông cái, bề sâu vô chừng hai ba ngàn thước... Phía trong toàn là sậy, đế, cây mốp, rừng chồi. Mình có thể phá gấp sậy để đó để làm ruộng trước, có lúa gạo mà ăn liền. Ðiều lợi thứ hai là ở xa cọp. Lúc mới xuống làm ăn, mình cần sự yên ổn. Hơi đâu mà lo chuyện đánh cọp, trong lúc mình không rành võ nghệ.
- Ở hẻo lánh như vậy, chắc sợ cọp dữ lắm. Cọp ưa tìm người mà ăn thịt...
- Vài người lo xa. Họ rào chung quanh chuồng heo. Sợ nhứt là khi mình đi ruộng, cọp lén vào nhà bắt con nít. Lần đó, cọp tới sàn nhà tôi chạy vòng quanh tìm cách vô nhà. Ðứa con tôi ở một mình. Nghe tiếng động đậy nó chạy ra sát hàng rào. Cọp ta không phương thế nào vào trong được nên day lại, thò đuôi vô kẽ hàng rào. Trưa về nhà nghe con tôi nói lại: “Ba ơi! Hồi ba đi ruộng, có con vèo vện lại đây, thò đuôi vô. Con nắm đuôi mà nó mạnh lắm, kéo ra được chạy vuột.” Chừng đó, lối xóm ai cũng hoảng sợ xây hàng rào chung quanh nhà. Ðêm cũng như ngày chỉ nghe động tịnh là nghĩ tới cọp. Nhưng dân mình gốc ở hai huyện Cần Thơ, Vĩnh Long xuống đây. Ở đó, đất khai khẩn lâu đời rồi nên phần đông nghe tới tên cọp là sợ chớ ít ai thấy tường tận ông cọp lần nào. Có một cô nọ ngồi rửa chén sau nhà, thấy cái tàu mo cau rụng xuống bèn vụt chạy vô nhà, đóng cửa lại: “Má ơi, cọp! cọp!.” Hỏi cọp ra sao. Cô ta nói nó cao lắm, lưng nó vàng, bụng nó rằn. Chừng xem kỹ lại rõ ràng là tàu cau... Có bà lão khác ngồi câu cá dưới gốc cây xộp. Cọp trong rừng men chạy ra chụp một cái. Bà nọ té nhào bên một gốc cây. Nhờ vậy mà cọp chụp hụt. Sau đó cọp chạy cong đuôi vô rừng. Bà ngồi dậy mở mo trầu ra ăn rồi lững thững về nhà nói lại. Bữa nay xui xẻo quá. Câu cá không được con nào, nhè gặp heo rừng ra nhát. Chừng cả nhà hồ nghi trở ra gốc xộp mà xem kỹ, rõ ràng là dấu móng cọp.
Kể từ đó, thiên hạ ưa bàn tán về cọp, bắt đầu lo ngại. Có người bàn: nên thành lập một đội binh để vô rừng đánh cọp. Công việc đầu tiên là đốn tre tầm vông vạt nhọn để sẵn. Khi gặp cọp thì đánh trống lên, cả xóm xách tầm vông tới nghinh chiến. Mới nghe qua, dường như có lý. Nhưng sau đó, ở rạch Cái Cam, Phong Ðiền, Cần Thơ, có người xuống cho hay: “Ở xứ tôi, có bố trí như vậy nhưng thất bại. Gặp cọp, đánh trống lên, ai nấy xách tầm vông chạy tới. Cọp im lặng, trụ hình một chỗ. Thinh không, ổng hét lên. Tức thì ai nấy chạy tán loạn. Có người thiếu điều đổ ruột vì chạy càn đụng nhằm ngọn tầm vông của bạn mình. Về sau, có người gài bẫy được một ông cọp. Họ đút mũi tầm vông vô miệng cọp để đâm. Dè đâu cọp nhai nát như... mình ăn mía.”
 
U

uocmolamnhavan

tiếp...hết thời oanh liệt

Vậy làm thế nào mà đánh cọp đến đỗi không còn sót một con như ngày nay?
- Chuyện đó phải làm lần hồi. Bố trí một đạo binh đánh cọp không xong, dân xóm này mới bày đặt cất miễu thờ cọp. Ðó là ngụ ý: “Chúng tôi là người làm ăn, không dám đả động tới ông, xin ông cứ ở trong rừng để chúng tôi được yên ổn!.” Cất miếu xong, chạng vạng có người tới đốt nhang. Mấy hôm đầu, ông cọp đi vòng quanh miếu, đứng nhìn nhang rồi về. Bữa sau đem ra cũng một cái đầu heo rừng. Cọp mừng lắm. Từ đó xóm giềng được yên.
Nhưng tạo hoá vần xoay, dân miệt trên xuống đây khai khẩn ngày thêm đông.
Ðất giữ đồng khai thác hết. Bấy giờ chỉ còn là đất rừng sát mé sông, nơi cọp ở. Ðó là hồi nguy nan nhất cho dân mình và cũng cho cọp. Nhiều người làm gan cất nhà sát mé rừng. Ban đầu, đôi ba nhà, sau, năm mười nhà. Họ thấy ở gần rừng mé sông tuy là nguy hiểm nhưng có nhiều huê lợi khác: ăn ong, làm rẫy. Một công rẫy trúng mà được tới một trăm hai chục giạ khoai lang. Lúc này, nhiều người chết vì đi một mình vô rừng bị cọp chụp bất thình lình. Họ sắm mác thông, thứ có cán dài để ứng phó. Nhưng ở chỗ rừng dày, con người khó bề xoay trở để thủ thế.
Thời thế tạo anh hùng. Bận đó, ông thầy râu -thầy thuốc Nam, vì có râu dài nên gọi là thầy Râu- có đứa con gái bị cọp vồ. Tức mình ông cầm mác rượt theo tận giữa rừng, chém cọp rớt một cẳng. Tư Ngạn bị cọp cõng mất một con heo nái. Chú rượt theo cầm cự với cọp suốt buổi trưa. Nhờ lối xóm tiếp cứu nên mới thoát nạn. Từ đó về sau, chú ưa uống rượu, cặp mắt luôn luôn đỏ ngầu.
Kinh nghiệm là không nên đánh cọp nơi chật chội, tứ bề có cây cối. Cọp sợ con người. Bằng cớ là ở giữa đồng trống, mình cầm mác thét lớn là cọp chạy mất. Vì vậy, khi dân mình phá động rừng, cọp tản mác, kiếm nơi khác mà hùng cứ. Rạch Cái Bần này lần hồi còn sót lại được ông Mun.
- Tại sao ông Mun dám ở lại?
- Vì ông thuộc về lại cọp già, đã từng chống chọi nhiều phen với loài người. Cọp nhỏ thì đi. cọp già ở lại. Thứ già là thứ dữ. Mỗi rạch chỉ còn sót lại một hai ông. Dân trong xóm đều quen mặt nên đặt tên. Có hai ông, Ông Vện với Ông Mun. Vện là cọp đực. Ông Mun là cọp cái.
Trời đất dành riêng cho đôi cọp này số phận riêng. Trước hết xin nói về ông Mun.
Thường ngày ông tới lui vàm Xẻo Gừa - một xẻo nhỏ, có cây gừa to lớn, nhỏ gừa (rễ thòng xuống) buông xuống hàng trăm cây to bằng cổ tay, bằng cây cột nhà. Ông Mun ngủ sát cốc, chung quanh có nhỏ gừa che chở nhiều lớp.
Ông dạn lắm. Sáng đi, chạng vạng về. Tháng Tư năm đó, ông sanh được bốn ông Mun con...
Thật là khủng khiếp, lạ thường. Xưa nay, cọp sanh một hay sanh đôi là cùng. Ðàng này sanh tới bốn con. Dân làng nhìn nhau lắc đầu, tưởng tượng một ngày kia bốn ông Mun nhỏ lớn lên, sung sức.
Phải đối xử bằng cách nào?
Bắt bốn ông Mun con chăng? Chuyện đó rất dễ. Ông Mun mẹ thường đi tìm mồi, để bầy con bơ vơ ở gốc cây gừa. Nhưng mất con, ông Mun mẹ sẽ đổ quạu, trả thù, gây nhiều chuyện bất an cho xóm.
Lo xa rồi lại nghĩ gần, ông thầy Râu, ông Hương Văn Huệ, ông Tri Khách lừa bày ra một kế: bắt bớt ba, chừa lại một.
Thi hành xong, ba ông đem ba con cọp nhỏ về nhà. Xóm giềng rất đỗi vui mừng. Nhưng ba ông không yên trí, sợ ông Mun mẹ đánh hơi theo tìm con để trả thù...
Sau rốt, các ông mua nhang đèn về dựng bàn thờ trước nhà mà khấn vái:
- Xin trình cúng ông Mun được hay: Thói thường xưa nay một mẹ thì một con. Ðằng này, ông sanh tới bốn con. Dân làng chúng tôi lo sợ nên thừa lúc ông đi vắng có tới xin bớt ba con, chừa lại cho ông một con. Như vậy không mích lòng ông mà cũng không hẹp bụng chúng tôi.
Ông Mun về ổ, thấy mất con, gầm thét, rồi vài hôm sau dẫn đứa con còn lại đi đâu mất.
Bây giờ làm sao để nuôi ba ông cọp con nọ?
Cọp con hiền lắm, mình mẩy mềm mại, bò tới bò lui, cái lưng uốn éo như con mèo lớn. Tối ngày, mấy cậu cứ đòi sữa. Biết được chuyện ấy, người đàn bà động lòng, xúm xít lại, đặt mấy cậu ngồi giữa bộ ván, ai nấy ngồi vòng quanh mà dòm ngó cho mãn nhãn. Các cậu đánh hơi rồi từ từ bò ngay lại người đàn bà nào có sữa để đòi bú. Bà chủ H. cho bú thử. Kết quả, vài ngày sau vú sưng lên làm độc, đau sứt núm vú, bấy giờ thiên hạ càng lo ngại. Sau cùng, chở ba cậu ra chợ Rạch Giá để nạp cho quan phó chủ tỉnh. Ông phó tên Quitxy thưởng cho hai mươi lăm đồng bạc trắng.
- Còn ông Vện?
- Ông Vện có lẽ là chồng ông Mun cha của mấy cậu nọ. Phải chăng vì già nua bịnh hoạn mà ông Vện không theo vợ theo con. Buổi sáng đó người ta thấy ông Vện nằm dài trên bờ rẫy, sát mí rừng. Ban đầu ngỡ là ông ngủ trưa. Chừng mặt trời lên cao ngạc nhiên làm sao, ông vẫn nằm ì không nhúc nhích. Thiên hạ xúm lại gần, lấy đất chọi thữ rồi lấy cây dài đem cọc, chừng đó mới biết ông chết. Họ thui râu của ông, lấy thước đo ông dài một thước sáu. Người khác đòi, khiêng lên cân thử. Các bậc kỳ lão cản ngăn, cho rằng làm vậy là quá khinh thị mạt sát kẻ đã chết.
Rạch Cái Bần không còn cọp nữa. Các rạch khác cũng nỗ lực như vậy. Lần hồi, ghe xuồng đi thông thương ngày đêm từ ngọn Cái Cau đến vàm sông Cái Lớn. Câu hát thời xưa:“U Minh Rạch Giá thị quá sơn trường, Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp tha” không còn. Ghe xuồng tàu bè tấp nập, bọn sấu phải lui về vàm. Cũng thời câu hát xưa, thiên hạ sửa lại như vầy:
”Ðường đi Rạch Giá thị quá sơn trường, Gió run bông sậy, dạ buồn nhớ ai.”
Bông sậy là nơi đã khai thác thành rầy. Lòng dạ con người thơ thới hơn. Không còn sợ cọp, sợ sấu. Họ rảnh trí mà ngắm cảnh nhớ tình. Nhớ ai bây giờ? Trai nhớ gái. Vợ nhớ chồng. Người nay nhớ công ơn người xưa đã đánh cọp để tạo lập nên làng nên xóm. Họ không phải là thầy nghề võ, thầy bùa.
Chẳng qua là họ muốn sống nên phải ráng sức cùng nhau, mỗi người ráng một ít. Sự thật về chuyện đánh cọp Gò Quao là vậy. Nó dễ mà khó, khó mà dễ. Người đánh cọp thời đó không bao nhiêu, tên tuổi của họ không cần bia đồng tượng đá. Vậy mà về sau này có bao nhiêu người tự xưng là thầy đánh cọp thời xưa để hát thuật Sơn Ðông, bán thuốc trật gãy xương hoặc bán bùa Xiêm để dụ dỗ gái tơ.
Thiệt đáng trách biết chừng nào!
 
Top Bottom