Gợi ý:
1. Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học
- Nhân đạo là đạo lí hướng tới con người, vì con người; là tình yêu thương giữa người với người.
- Trong tác phẩm văn học, tư tưởng nhân đạo là tình cảm, thái độ của nhà văn đối với cuộc sống con người thể hiện ở lòng xót thương những con người bất hạnh; phê phán những thế lực bạo tàn áp bức, chà đạp con người; trân trọng những phẩm chất và khát vọng tốt đẹp của con người, đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người...
- Cảm hứng nhân đạo cùng với cảm hứng yêu n¬ước là hai sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ nền văn học Việt Nam. Về cơ bản có những biểu hiện chung song ở mỗi thời kì, giai đoạn, do hoàn cảnh lịch sử xã hội, do ý thức hệ t¬ư t¬ưởng của các nhà văn khác nhau nên có những biểu hiện riêng, độc đáo. Bằng việc thể hiện cảm hứng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ qua các sáng tác, Nguyễn Du đã làm nên tên tuổi một đại thi hào của dân tộc.
2. Nét độc đáo trong chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du
a. Lên tiếng bênh vực quyền sống của con người – những văn nghệ sĩ.
- Tình thương của Nguyễn Du bao trùm lên tất thảy mọi kiếp người (Văn tế thập loại chúng sinh), nhưng ông đặc biệt quan tâm đến đối tượng văn nghệ sĩ. Ông đã thấy ý nghĩa xã hội của người nghệ sĩ, người cống hiến cho cuộc đời những giá trị tinh thần tốt đẹp. Nguyễn Du không chỉ quan tâm, đồng cảm với những nạn nhân của xã hội phong kiến theo nghĩa những người đói cơm rách áo cần được chăm lo bảo vệ như các nhà văn khác mà còn biết thương yêu, trân trọng những chủ nhân của những giá trị văn hóa tinh thần. Khi chủ nhân là người phụ nữ thì sự đồng cảm của nhà thơ lại càng có ý nghĩa sâu sắc hơn. Điều này thể hiện rõ nhất qua bài thơ chữ Hán Độc Tiểu Thanh kí. Ở bài thơ này, Nguyễn Du vừa khóc cho người vừa khóc cho mình. Đây là nét mới mang tinh thần nhân bản của thời đại cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX, thời đại con người không chỉ ý thức về nhân phẩm, về tài năng cá nhân mà còn thức tỉnh nỗi đau của chính mình. Tự thương cũng là nét mới trong tinh thần nhân bản của Nguyễn Du vì đó chính là sự tự ý thức, là bằng nước mắt mà thấm in bản ngã của mình để chống lại sự chi phối của quan niệm phi ngã, vô ngã thời trung đại.
- Nhà thơ triết lý với nỗi đau về thân phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội cũ: Đau đớn thay phận đàn bà - Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. (Thúy Kiều lâm vào bi kịch tình yêu tan vỡ - Trao duyên, bi kịch nhân phẩm bị chà đạp – Nỗi thương mình).
b. Phát hiện, nâng niu, trân trọng nhân cách, phẩm giá của con người, khẳng định con người thức tỉnh, con người ý thức, đề cao hạnh phúc của con người tự nhiên, trần thế.
- Cái nhìn nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du ở chỗ ông là người đầu tiên trong văn học trung đại đã nêu lên một cách tập trung vấn đề về thân phận những người phụ nữ có sắc đẹp và tài năng văn chương nghệ thuật. (Ngợi ca tài sắc của nàng Kiều, Tiểu Thanh).
- Khẳng định con người thức tỉnh, con người ý thức:
+ Nhân vật Thúy Kiều là con người của thời đại đã có ý thức sâu sắc về đau khổ cũng như khát vọng của mình. Trong đoạn Trao duyên (trích Truyện Kiều), Thúy Kiều hi sinh chữ tình vì chữ hiếu, Kiều đã ứng xử như văn hóa thời trung đại đòi hỏi. Nhưng Thúy Kiều không muốn nêu gương về đạo nghĩa. Ngoài hạnh phúc gia đình, nàng còn sống với khát vọng tình yêu tuổi trẻ; ngoài tình thương với cha mẹ và hai em, nàng còn tình yêu với chàng Kim. Kiều thiết tha với tình yêu riêng tư, đó là biểu hiện sâu sắc quyền sống cá nhân của con người. Do đó, Thúy Kiều của Nguyễn Du gần với con người thực, con người tự nhiên chứ không đơn giản chỉ là tấm gương đạo lí, biểu trưng đạo đức một chiều như nàng Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân. Nhà thơ đã để cho nhân vật sống trong đau khổ thật của hiện tại, để thức nhận bao xót đắng về bi kịch tình yêu tan vỡ hơn là việc ru ngủ trong hạnh phúc siêu hình. Thúy Kiều đã được giải phóng khỏi những quan niệm tôn giáo về hạnh phúc. Nàng là con người được thức tỉnh, dù chỉ là để khổ đau (Đặng Thanh Lê). Đó cũng là chiều sâu và tầm cao tư tưởng nhân văn của Nguyễn Du.
+ Con người thức tỉnh, dù chỉ là thức tỉnh trong nỗi khổ đau ấy còn tiếp tục được thể hiện trong nhiều giai đoạn thăng trầm của cuộc đời Thúy Kiều, ngay cả khi nàng trở thành gái lầu xanh, bị vùi dập ở nơi nhơ nhớp nhất. Ở đoạn Nỗi thương mình, chúng ta thấy một cô Kiều biết tự ý thức về phẩm giá, nhân cách bản thân, tự ý thức về quyền sống của mình: Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh/ Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
=> Khẳng định ý thức cá nhân trong bối cảnh văn học trung đại, khi vấn đề cá nhân, quyền sống của mỗi cá thể còn ít được nhắc đến, chúng ta có thể thấy chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du nhiều khi đã vượt thoát khỏi khoảng trời trung đại chật hẹp để vươn tới tầm nhân loại bao la.
- Trân trọng nhân cách, phẩm giá đối với một kỹ nữ: Nhiều nhà nho cùng thời hoặc thuộc thế hệ sau Nguyễn Du đã có cái nhìn lên án Thúy Kiều là tà dâm chính là bởi những năm tháng nàng phải sống nơi lầu xanh. Nguyễn Du không né tránh hiện thực tủi hổ đó trong cuộc đời đau khổ của Thúy Kiều, ông đã miêu tả rất chân thực. Nhưng gửi gắm trong từng câu chữ vẫn là thái độ trân trọng, cảm thông, vẫn là sự bênh vực cho nhân cách, phẩm giá của người kỹ nữ tài hoa bạc mệnh như Kiều.
c. Nét độc đáo trong chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du còn thể hiện ở việc, nhà thơ đã cổ vũ, đồng tình với khát vọng về một xã hội công bằng, tự do. Tác giả đã gửi gắm khát vọng cao đẹp này ở nhân vật Từ Hải. Nếu Từ Hải trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là một tên giặc cỏ, thì Từ Hải dưới con mắt của Nguyễn Du là một anh hùng mang vẻ đẹp lý tưởng với một sự cảm phục không che giấu.
4. Đánh giá, nâng cao
- Nguyên nhân:
+ Thời đại Nguyễn Du với những biến cố thăng trầm là nguyên nhân chính dẫn đến sự chìm nổi của bao số phận, trong đó có cả số phận long đong mười năm lưu lạc của chính bản thân Nguyễn Du.
+ Những năm tháng qúa khứ vàng son, sống trong gia đình người anh trai là Nguyễn Khản, được chứng kiến biết bao số phận đau khổ, bi kịch của những người ca nhi, kĩ nữ giữa chốn phong lưu, xa hoa.
+ Hơn tất cả là tấm lòng, trái tim người nghệ sĩ luôn tha thiết với con người, cuộc đời với những giá trị nhân văn, là tấm lòng nghĩ đến nghìn đời (Mộng Liên Đường chủ nhân) của Nguyễn Du.
- Nguyễn Du đã vượt qua những ràng buộc của ý thức hệ phong kiến và tôn giáo, vượt khỏi chỗ đứng giai cấp mình để vươn tới khẳng định giá trị tự thân của con người. Nét mới mẻ trong chủ nghĩa nhân đạo thể hiện tầm vóc tư tưởng, biểu hiện của sức cảm thông lạ lùng (Hoài Thanh) của nhà thơ đối với con người. Chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ, độc đáo trong sáng tác thơ văn của Nguyễn Du chính là một trong những ngọn nguồn làm nên sức sống lâu bền cho văn chương của bậc đại thi hào dân tộc.
Nguồn:google