H
hocdesong_98s


Việt Nam có đường bờ biển dài, với hơn 3250km. Vùng lãnh hải của Việt Nam trải rộng trên 226.000 km2, với 4.000 hòn đảo lớn nhỏ tạo nên nhiều eo, vùng vịnh, đầm phá và nhiều ngư trường với trữ lượng hải sản gần 3 triệu tấn. Đây là một bộ phận của biển Đông, nằm ở vùng nhiệt đới Tây Thái Bình Dương.
Các chuyên gia đánh giá biển Việt Nam nằm ở một vị trí rất thuận lợi về mặt ĐDSH vì đây là một trong các trung tâm phát tán của sinh vật biển.
Ts. Võ Sĩ Tuấn, Viện Hải Dương học Nha Trang, cho biết biển Việt Nam hội tụ hàng loạt các hệ sinh thái từ vùng nước nông như rừng ngập mặn, rạn san hô, cỏ biển, đầm phá, cửa sông, đến biển xa như vùng nước trồi, hệ biển sâu (có nơi tới 4000 m).
Trong các hệ sinh thái đó, khu hệ động thực vật vô cùng đa dạng.
Theo Báo cáo Diễn biến đa dạng sinh học Việt Nam – 2005, các nhà khoa học đã ghi nhận trên 11.000 loài sinh vật sinh sống tại các hệ sinh thái biển Việt Nam, trong đó có gần 2.500 loài cá biển (gồm 130 loài cá có giá trị kinh tế cao), 225 loài tôm, hơn 500 loài thực vật nổi; gần 700 loài động vật nổi; gần 100 loài thực vật rừng ngập mặn; 15 loài cỏ biển và hơn 6000 loài động vật đáy không xương sống.
Trong số 7 loài rùa biển có mặt trên thế giới, Việt Nam có 5 loài. Bên cạnh đó, biển Việt Nam cũng là nơi sinh sống của 15 loài rắn biển, 25 loài thú biển và 43 loài chim biển. Đây chỉ là con số khiêm tốn với những nghiên cứu ban đầu về hệ sinh thái biển Việt Nam. Những con số này chắc chắn sẽ còn gia tăng khi Việt Nam có điều kiện tiến hành những nghiên cứu sâu hơn về tính đa dạng của biển.
Việt Nam có khoảng 1.122 km2 rạn san hô, được phân bố rộng rãi từ Bắc tới Nam, với diện tích lớn và tính đa dạng tập trung ở miền Trung và miền Nam, đặc biệt hai vùng lớn nhất là hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa.
Với số loài san hô đã biết, nhóm các loài san hô của Việt Nam có thể so sánh với các vùng san hô đa dạng nhất trên thế giới. Qua nghiên cứu các vùng Vịnh Nha Trang, Ninh Thuận và Côn Đảo, các chuyên gia đã ghi nhận gần 400 loài san hô tạo rạn. Điều này chứng tỏ tính phong phú rất cao của các loài san hô ở vùng biển Việt Nam.
Có tới 90% các loài san hô cứng của vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương có mặt ở Việt Nam và các loài san hô mềm thuộc giống Alcyonaria là đa dạng nhất trong vùng Tây Ấn Độ-Thái Bình Dương.
Sự khác biệt về đặc điểm và thành phần loài của các hệ sinh thái tạo nên tính đa dạng của các sản phẩm khai thác từ nguồn ĐDSH.
Cũng theo phân tích của Ts. Võ Sĩ Tuấn, Biển Đông được bao bọc bởi các quốc gia đảo xung quanh nhưng có thể giao lưu với cả Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương nhờ sự thay đổi chế độ dòng theo mùa gió. Vì vậy, nhiều nhóm sinh vật có nguồn gốc khác nhau đã hội tụ về vùng biển này.
Hơn nữa, chế độ dòng độc đáo với các vòng tuần hoàn trong vịnh Bắc Bộ, ven biển miền Trung như những rào chắn sinh thái để hình thành các quần thể địa lý khác nhau, tức tạo nên sự đa dạng ngay trong phạm vi loài. Về phương diện này, quần đảo Trường Sa cần được nhắc đến như là một trạm dừng chân trong quá trình phát tán của sinh vật biển giữa các vùng biển.
Một đặc điểm riêng biệt khác của biển Việt Nam là đồng thời chịu ảnh hưởng của hai hệ thống sông lớn, đó là sông Hồng và sông Mê Kông. Điều này chi phối chế độ trầm tích của vùng biển, tuy có hạn chế tính đa dạng của một vài hệ sinh thái như rạn san hô, cỏ biển nhưng bù lại đã giúp hình thành các vùng rừng ngập mặn rộng lớn, thấy rõ ở Nam Bộ.
Những cánh rừng này đóng vai trò phòng hộ cực kỳ quan trọng. Thực tế cho thấy bất chấp hàng năm Chính phủ đầu tư hàng trăm tỉ đồng đầu tư cho đê điều nhưng nhiều đê được xây dựng bê tông cốt thép mà không có rừng ngập mặn bảo vệ vẫn bị phá vỡ, trong khi ở những nơi khác “tấm thảm” xanh này bảo vệ được sự bình yên cho ngay cả những đê đất thông thường.
Các chuyên gia đánh giá biển Việt Nam nằm ở một vị trí rất thuận lợi về mặt ĐDSH vì đây là một trong các trung tâm phát tán của sinh vật biển.
Ts. Võ Sĩ Tuấn, Viện Hải Dương học Nha Trang, cho biết biển Việt Nam hội tụ hàng loạt các hệ sinh thái từ vùng nước nông như rừng ngập mặn, rạn san hô, cỏ biển, đầm phá, cửa sông, đến biển xa như vùng nước trồi, hệ biển sâu (có nơi tới 4000 m).
Trong các hệ sinh thái đó, khu hệ động thực vật vô cùng đa dạng.
Theo Báo cáo Diễn biến đa dạng sinh học Việt Nam – 2005, các nhà khoa học đã ghi nhận trên 11.000 loài sinh vật sinh sống tại các hệ sinh thái biển Việt Nam, trong đó có gần 2.500 loài cá biển (gồm 130 loài cá có giá trị kinh tế cao), 225 loài tôm, hơn 500 loài thực vật nổi; gần 700 loài động vật nổi; gần 100 loài thực vật rừng ngập mặn; 15 loài cỏ biển và hơn 6000 loài động vật đáy không xương sống.
Trong số 7 loài rùa biển có mặt trên thế giới, Việt Nam có 5 loài. Bên cạnh đó, biển Việt Nam cũng là nơi sinh sống của 15 loài rắn biển, 25 loài thú biển và 43 loài chim biển. Đây chỉ là con số khiêm tốn với những nghiên cứu ban đầu về hệ sinh thái biển Việt Nam. Những con số này chắc chắn sẽ còn gia tăng khi Việt Nam có điều kiện tiến hành những nghiên cứu sâu hơn về tính đa dạng của biển.
Việt Nam có khoảng 1.122 km2 rạn san hô, được phân bố rộng rãi từ Bắc tới Nam, với diện tích lớn và tính đa dạng tập trung ở miền Trung và miền Nam, đặc biệt hai vùng lớn nhất là hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa.
Với số loài san hô đã biết, nhóm các loài san hô của Việt Nam có thể so sánh với các vùng san hô đa dạng nhất trên thế giới. Qua nghiên cứu các vùng Vịnh Nha Trang, Ninh Thuận và Côn Đảo, các chuyên gia đã ghi nhận gần 400 loài san hô tạo rạn. Điều này chứng tỏ tính phong phú rất cao của các loài san hô ở vùng biển Việt Nam.
Có tới 90% các loài san hô cứng của vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương có mặt ở Việt Nam và các loài san hô mềm thuộc giống Alcyonaria là đa dạng nhất trong vùng Tây Ấn Độ-Thái Bình Dương.
Sự khác biệt về đặc điểm và thành phần loài của các hệ sinh thái tạo nên tính đa dạng của các sản phẩm khai thác từ nguồn ĐDSH.
Cũng theo phân tích của Ts. Võ Sĩ Tuấn, Biển Đông được bao bọc bởi các quốc gia đảo xung quanh nhưng có thể giao lưu với cả Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương nhờ sự thay đổi chế độ dòng theo mùa gió. Vì vậy, nhiều nhóm sinh vật có nguồn gốc khác nhau đã hội tụ về vùng biển này.
Hơn nữa, chế độ dòng độc đáo với các vòng tuần hoàn trong vịnh Bắc Bộ, ven biển miền Trung như những rào chắn sinh thái để hình thành các quần thể địa lý khác nhau, tức tạo nên sự đa dạng ngay trong phạm vi loài. Về phương diện này, quần đảo Trường Sa cần được nhắc đến như là một trạm dừng chân trong quá trình phát tán của sinh vật biển giữa các vùng biển.
Một đặc điểm riêng biệt khác của biển Việt Nam là đồng thời chịu ảnh hưởng của hai hệ thống sông lớn, đó là sông Hồng và sông Mê Kông. Điều này chi phối chế độ trầm tích của vùng biển, tuy có hạn chế tính đa dạng của một vài hệ sinh thái như rạn san hô, cỏ biển nhưng bù lại đã giúp hình thành các vùng rừng ngập mặn rộng lớn, thấy rõ ở Nam Bộ.
Những cánh rừng này đóng vai trò phòng hộ cực kỳ quan trọng. Thực tế cho thấy bất chấp hàng năm Chính phủ đầu tư hàng trăm tỉ đồng đầu tư cho đê điều nhưng nhiều đê được xây dựng bê tông cốt thép mà không có rừng ngập mặn bảo vệ vẫn bị phá vỡ, trong khi ở những nơi khác “tấm thảm” xanh này bảo vệ được sự bình yên cho ngay cả những đê đất thông thường.