Tình hình nước pháp trước cách mạng (1789) có gì nổi bật
1. Tình hình kinh tế.
1.1. Kinh tế công thương nghiệp.
Trong thế kỷ XVIII, công thương nghiệp Pháp phát triển khá mạnh và tạo nên sự phồn vinh cho nưóc Pháp. Ðại diện cho ngành công nghiệp ở Pháp lúc bấy giờ là những công trưòng thủ công phân tán và tập trung. Những công trường thủ công nổi tiếng ở Pháp là: công trường sản xuất thảm hoa, len dạ, tơ lụa, xà phòng, thủy tinh...Trong công nghiệp, Pháp đã sử dụng máy móc như máy dệt, máy quay tơ, máy bơm hơi nước. Ðã có những xí nghiệp tập trung hàng ngàn công nhân như nhà máy cơ khí Le Creusot, công ty khai khoáng Anzin.
Tuy nhiên chế độ phưòng hội vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong công nghiệp Pháp, nhất là trong ngành thủ công nghiệp. Những qui định ngặt nghèo của chế độ phường hội đã ảnh hưởng nhiều đến sản xuất công nghiệp ở Pháp, nó kìm hãm sự tự do kinh doanh và cải tiến sản xuất.
Thương nghiệp cũng có những tiến bộ nổi bật, nhất là ngoại thương. Ngoại thương đã đem lại sự phồn vinh cho các hải cảng của Pháp. Paris và Lyon là những trung tâm của hội chợ quốc tế lúc bấy giờ. Pháp xuất cảng: lúa mì, len, gia súc, rượu vang, hàng xa xỉ phẩm... Pháp nhập: thuốc lá, cà phê. Việc buôn nô lệ chiếm một vị trí quan trọng trong thương nghiệp ở Pháp. Tuy nhiên nội thương không phát triển lắm vì chế độ thuế quan khá nghiêm ngặt.
1.2. Nông nghiệp.
Chiếm một vị trí quan trọng trong kinh tế Pháp với 90% dân số là nông dân. Nông nghiệp Pháp là một nền nông nghiệp lạc hậu. Nguyên nhân của tình trạng này là chế độ sở hữu phong kiến về ruộng đất. Chế độü này đẻ ra hàng loạt những nghĩa vụ phong kiến vừa phi lý, vừa bất công, nặng nề đè lên lưng người nông dân, làm cho họ mất sáng kiến và hứng thú sản xuất. Ðất đai trong nông nghiệp được sử dụng theo hai hình thức:
- Thường chúa phong kiến chiếm một phần đất đai làm lãnh địa. Lãnh địa được chia thành những mảnh nhỏ, phát canh cho nông dân để thu tô.
- Ngoài lãnh địa, một phần lớn đất đai được canh tác theo lối vĩnh điền nông nô. Nông dân lao động trên mảnh đất mà họ không có quyền sởî hữu và phải nộp thuế cho lãnh chúa. Khác với các tá điền, những nông dân vĩnh điền này không phải trả lại ruộng đất cho lãnh chúa nếu họ đóng thuế đều. Phương pháp canh tác rất thô sơ, lạc hậu, thể hiện rõ trong công cụ của nông dân. Ngưòi ta vẫn cày bằng những chiếc cày nặng thừa hưởng của người La mã hay những chiếc cày thô kiểu Slave.
Sự bóc lột nông dân lĩnh canh hay nông dân vĩnh điền là nguồn sinh sống chủ yếu của địa chủ, quí tộc, tăng lữ. Khi kinh tế thị trường phát triển, những yếu tố TBCN của thành thị đã ảnh hưởng đến nông thôn: tô tiền thay cho tô hiện vật; những nghĩa vụ mà nông dân gánh vác như: tô, thuế, thuế 1/10 và những nghĩa vụ phong kiến khác cũng được tính bằng tiền. Quan hệ tiền tệ đã xâm nhập vào lãnh địa Pháp, nhưng nó không phá vỡ tính tự túc, tự cấp trong lãnh địa Pháp.
Tóm lại, cuối thế kỷ XVIII, công thương nghiệp phát triển mạnh mẽ, những yếu tố TBCN đang nổi lên, nhưng chế độ phong kiến đã ngăn cản sự phát triển đó. Tổ chức nông nghiệp phong kiến, chế độ phường hội ngặt nghèo, thuế quan nội địa nhiềìu tầng, hệ thống đo lường không thống nhất là những trở ngại đang hãm nghiêm trọng lực lượng sản xuất TBCN.
2. Chế độ chính trị và xã hội:
2.1. Nền Quân chủ chuyên chế của Louis XVI.
Louis XVI là người đại diện cho chế độ QCCC ở Pháp. Ông nắm mọi quyền hành, không chịu một sự kiểm soát nào. Sự chuyên chế của nhà vua thể hiện ở việc tập trung cao độ quyền hành chính: vua quyết định mọi việc đối nội, đối ngoại, bổ nhiệm và cách chức các bộ trưởng, các nhân viên nhà nước, hủy bỏ các đạo luật, độc quyền trừng phạt và ân xá thể hiện qua "giấy có ấn vua". Vua có quyền bắt giam vô cớ những dân nghèo vô tội, giam giữ bao lâu tùy ý, không cần xét xử.
Vua là người điều hành tối cao công việc trong nước. Giúp việc vua là các vị đại thần. Vua cử ra những quan thân cận mình để làm tổng quản ở các địa phương, những người này rất độc đoán và khắc nghiệt. Sự quan liêu, tham nhũng và bất công của các quan giám quận là một gánh nặng đối với đời sống nhân dân địa phương.
2.2. Chế độ Ba Ðẳng Cấp
Pháp là một quốc gia phong kiến lâu đời. Xã hội phong kiến Pháp chia làm ba đẳng cấp dựa trên sự phân biệt giữa những người phục vụ trong xã hội bằng lời cầu nguyện, bằng cung kiếm và lao động của họ.
Hai đẳng cấp có đặc quyền:
- Ðẳng cấp I: Tăng lữ.
- Ðẳng cấp II: Quí tộc.
Hai đẳng cấp này nắm mọi chức vụ cao nhất trong bộ máy nhà nước, trong quân đội và trong giáo hội. Ðó là hai đẳng cấp có mọi thứ đặc quyền, được miễn các loại thuế. Ðặc biệt giáo hội ở Pháp có quyền thu thuế 1/10 đối với nông dân.
-Ðẳng cấp Thứ Ba gồm: tư sản, nông dân, bình dân thành thị.
+ Giai cấp tư sản: đại diện cho phương thức sản xuất mới, là giai cấp tiến bộ nhất trong Ðẳng cấp Thứ Ba. Giai cấp tư sản gồm những tầng lớp sau: đại tư sản tài chính, tư sản công thương nghiệp và tiểu tư sản.
+ Giai cấp nông dân: là giai cấp đông đảo nhất trong đẳng cấp Thứ Ba cũng như trong xã hội Pháp. Nông dân Pháp bị ba tầng áp bức: nhà nước, nhà thờ, lãnh chúa. Ngoài thuế 1/10 nộp cho nhà thờ, nông dân còn phải đóng nhiều loại thuế cho lãnh chúa, và nộp những khoản phụ thu khác như khi chở lúa qua cầu hoặc sử dụng nhà máy xay lúa của lãnh chúa. Ngoài việc thu tô bằng tiền hay hiện vật, lãnh chúa còn bắt nông dân phải thực hiện những nghĩa vụ lao dịch nặng nề. Nạn đói thường xuyên đe doạ nông dân, kể cả những năm được mùa. Căm thù lãnh chúa, nông dân sẵn sàng đi theo giai cấp tư sản, và trở thành động lực chủ yếu của cách mạng.
+ Bình dân thành thị: gồm những tầng lớp có thu nhập thấp trong xã hội. Họ gồm những người làm nghề tự do, thợ thủ công, những người bán hàng rong...Trong tầng lớp bình dân thành thị, công nhân và thợ thủ công là những tầng lớp tích cực cách mạng, họ đã đi theo giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống phong kiến.
Toàn bộ Ðẳng cấp Thứ Ba đều không có đặc quyền, đặc lợi. Nhưng trong mỗi giai cấp, mỗi thành phần lại có quyền lợi khác nhau, nên dễ bị phân hóa khi mục đích chung đã đạt được ở một mức độü nhất định nào đó.