Văn 9 Chuyện người con gái Nam Xương (theo lời kể Trương Sinh)

Duy Thường Trần

Học sinh
Thành viên
9 Tháng mười hai 2018
55
51
21
An Giang
Đại học Cần Thơ
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Trương An năm ấy vừa hơn ba mươi thì song thân đã không còn. Thuở ấu thơ thì mẹ mất đi không rõ nguyên nhân, nay cả người cha anh hết lòng phụng dưỡng cũng bệnh nặng qua đời. Trương gượng đau mà thu xếp di vật cha để lại. Sinh thời, Trương chưa thấy cha đặc biệt lưu luyến thứ gì, trừ chiếc hộp gấm kia, mỗi lần nhìn vào lại hai hàng lệ chảy. Mãi đến trước lúc lâm chung, cha mới trân trọng trao lại cho anh, cẩn thận dặn dò:
- Sau khi cha đi, con mới được mở ra xem, toàn tâm giữ gìn, di ngôn trong đó lại càng phải nhất nhất làm theo, không được trái ý.
Nay, Trương mở cẩm hộp, bên trong đặt một chiếc hoa vàng, cùng một phong thư.
Thư rằng:
“Gửi con trai Trương An,
Cha vốn là trưởng tử Trương gia, một đời tuy chưa lập nên công danh hiển hách nhưng đối với Trương gia cũng không làm việc gì lấy làm hổ thẹn. Duy đối với thân mẫu của con, bao năm nay cha vẫn canh cánh trong lòng, tội lỗi năm xưa không thể nào bù đắp được. Lẽ ra phải sớm nói với con những lời này, nhưng cha tâm tính chưa thuần, không đủ dũng khí nói ra. Nay con đọc thư này, hẳn cha đã không còn, con dẫu có biết được, oán hờn gì cha, cha cũng chịu.
Thân mẫu con thật là Vũ thị, tên là Thiết, quê ở Nam Xương. Người đã thùy mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp, cha năm ấy cảm vì tướng mạo, mến vì tính tình nên xin phụ mẫu mang trăm lạng vàng cưới về. Cha tuổi trẻ khí thịnh, lại nóng tính hay ghen, mẹ con tâm tư chu đáo, hết lòng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa. Vậy nên nhà ta khi đấy cũng xem như trên thuận dưới hòa, một nhà đầm ấm. Song, cuộc đoàn viên chưa được mấy lâu thì nước nhà tuyển quân đi đánh Chiêm Thành. Cha tuy con nhà dòng, nhưng không phải sĩ tử nên phải ghi danh sung binh loạt đầu. Lúc chia ly, Vũ nương đã hoài thai tròn chín tháng. Đấy chính là con, nhũ danh là Đản.
Cha một lòng ghi nhớ lời dặn của mẫu thân và Vũ nương, không cầu công cao lộc cả, chỉ cầu hai chữ bình an. Sau khi quân ta toàn thắng, cha trở về quê cũ thì được tin nội tổ con đã cưỡi hạc về trời, cha vô cùng đau xót. Nhưng con đã khỏe mạnh chào đời, lại còn thông minh kháu khỉnh, cha cũng lấy làm an ủi. Cha dẫn con đi viếng mộ phần của nội, khi đấy con còn nhỏ năm, vừa tập nói được chút ít thôi. Nhưng những lời con nói ra, lại là nguồn cơn của bi kịch. Cha không biết nên đổ lỗi cho con hay tự oán giậnbản thân mình. Có phải cha rất tệ bạc không? Cha nhận ta là cha con. Con lại nói với cha rằng con còn có một người cha khác, chỉ đêm mới đến, người im thin thít, mẹ con đi cũng đi, mẹ con ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế con cả. Cha bấy giờ chỉ nghĩ tâm tính trẻ con ngây thơ, có bao giờ nói dối mà không tưởng đến uẩn khúc bên trong, lửa giận bừng bừng quay về hài tội mẹ con là thất tiết. Nàng biện giải ta không tin, bà con lối xóm bênh vực nàng làm càng làm tăng mối ngờ vực. Bao ngày tủi hổ nàng không chịu được nên đã trầm mình tại bến Hoàng Giang, cha dẫu giận nàng không giữ phụ đạo nhưng vẫn nghĩ tình nghĩa bao năm mà tìm vớt thi thể mẹ con lên, tiếc là không gặp. Trước khi rời đi nàng có nhắn lại rằng:
- Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, có sự yên ổn được tựa bóng cây cao. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa màn, nước thẳm buồm xa, đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.
Giá mà ta giữ nàng lại. Một đêm, chỉ một mọi chuyện đã có thể cứu vãng. Đêm đấy, con ngồi trong lòng ta, chỉ vào cái bòng trên tường mà bảo:
- Cha Đản lại đến rồi!
Thì ra ta ghen hờn với một chiếc bóng. Thì ra ta ghen với chiếc bóng nàng dùng để dỗ con hằng đêm, ghen với chính bằng chứng cho sự trung trinh của nàng. Cha thật nực cười! Cha dẫu có hối hận đến mực nào thì mẹ con cũng đã không còn, tội lỗi sao có thể nói đến kiếp sau mà chuộc lại. Thật hoang đường! Kiếp này làm sai, định sẵn đời đời mang nợ, muốn trả liệu có tìm được đúng người.
Cha mang nỗi dằn vặt đấy suốt hơn mười năm, không ngừng tìm kiếm tung tích mẹ con, vẫn mong nàng sống còn nơi dương thế. Trời không phụ người có lòng, ta gặp được đầu mục bến Hoàng Giang năm xưa – Phan Lang. Phan kể rằng gặp được nàng tại thủy linh của Linh Phi, nàng vẫn còn sống như ứng lời thề năm xưa: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Vũ nương trao hoa vàng làm tin, nhắn rằng nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, nàng sẽ hiện về. Cha tin lời làm theo, mẹ con thật trở lại nhưng có lẽ tâm tàn tình cạn, nàng chỉ nói ở tại giữa sông mà vọng rằng: “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể lại về nhân gian được nữa”.
Cha ngày ngày ngắm hoa vàng nàng để lại, mỗi năm đến bến Hoàng Giang lập đàn, hy vọng mẹ con trở về. Ròng rã nhiều năm vẫn biền biệt tâm hơi. Nay cha biết kiếp số mình sắp đến, không thể im hơi lặng tiếng mãi được, dặn con vài điều. Thứ nhất, chuyện điền sản không có gì đáng bận tâm, con tự mình lo liệu. Thứ hai, con đến bến Hoàng Giang tìm gặp Phan Lang, hỏi thăm tin tức của mẹ con, nếu nàng còn sống thì nhắn giúp cha rằng mệnh cha đã tận, không thể tận mặt tìm nàng. Còn như nàng đã mãn phần, con nhớ làm tròn chữ hiếu, đưa linh vị mẹ con về đây. Cuối cùng, chiếc hoa vàng nọ, con giúp cha đặt theo bên người, kỷ vật của mẹ con, cha dẫu nhắm mắt xuôi tay cũng không buông được.
Gia phụ Trương Sinh.”
Trương An đọc xong thư, biết được khuất tất năm xưa cũng không dám mảy may hờn trách cha mình. Dẫu sau đã nhiều năm như vậy, cha cũng là lỗi vô tâm nào phải cố tình. Hiếu đạo đặt trên đầu, phận làm con sao có thể làm điều trái ngược luân thường. Anh dự định sắp xếp hậu sự cho cha xong, đến khi mãn tang liền tìm đến Hoàng Giang, thay cha hoàn thành di nguyện.
 

Vi Thị Khánh Hà

Học sinh chăm học
Thành viên
1 Tháng năm 2017
358
446
96
20
xã Cam Thành Bắc huyện Cam Lâm
Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình khá giả quê ở Nam Xương. Vừa mới đến tuổi đôi mươi mẹ tôi bèn cưới vợ cho. Vợ tôi tên là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương. Người đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp. Tôi có tính hay ghen đối với vợ tôi phòng ngừa thái quá. Vợ tôi cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa. Cuộc đoàn viên chưa được mấy lâu thì nhà nước có việc đi đánh Chiêm Thành, bắt nhiều lính tráng. Tôi tuy con nhà dòng nhưng không có học tên đã ghi trong sổ khai tráng phải đi sung binh loạt đầu. Lúc tôi ra đi mẹ có dặn rằng:
Nay con phải tạm đi tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy là hội công danh từ xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh cách, phải lấy việc giữ mình làm trọng, biết gặp nạn thì lui, lượng sức mà đánh đừng nên thăm miếng mồi thơm, để lỡ mắc vào lưới cá. Quan cao tước lớn để dành người ta, có như thế thì mẹ ở nhà mới đỡ lo lắng vì con được.
Tôi quỳ xuống đất vâng lời dạy. Vợ thì rót chén rượu đầy tiễn chồng rằng:
Lang quân đi chuyến này thiếp chẳng mong đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ rồi.
Vợ tôi nói đến đây mọi người đều đẫm lệ.
Rồi đó chén đưa vừa cạn dứt áo chinh phu, ngước mắt trông lên đã đẫm nỗi buồn ly biệt. Bấy giờ vợ tôi đương có thai. Sau khi tương biệt được mười ngày thì sinh được một đứa con trai đặt tên là Thằng Đản.
Ngày qua tháng lại thấm thoát đã nửa năm. Mẹ tôi không phải không muốn đợi tôi về mà là tuổi già sức yếu cộng thêm nhớ con mà sinh ốm. Vợ tôi hết sức thuốc thang chăm lo chu đáo nhưng mẹ đã không qua khỏi. Vợ tôi hết lời thương xót phàm việc mà chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra.
Qua sang năm sau giặc Chiêm chịu trói, quân nước kéo về. Tôi mới về thì mẹ đã từ trần, con vừa học nói. Tôi hỏi mộ mẹ rồi dắt con nhỏ đi thăm, song nó không chịu gào khóc. Tôi dỗ dành:
Nín đi con, đừng khóc! lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!
Con tôi nói:
Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không giống như cha trước kia chỉ nín thin thít.
Tôi ngạc nhiên gạn hỏi nó nói:
Khi ông chưa về đây thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến. Mẹ đi cũng đi mẹ ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.
Tính tôi hay ghen nghe con nói vậy tin chắc đinh ninh là vợ hư, không còn cách gì tháo cởi ra được.
Về đến nhà tôi mắng vợ một bữa cho hạ giận, Vợ tôi khóc mà rằng:
Thiếp vốn nhà nghèo, được vào cửa tía. Xum họp chưa thỏa chăn gối, phân phôi vì đọng việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết…..Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin trần bạch để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.
Tôi vẫn không tin. Vợ tôi gạn hỏi việc kia ai nói nhưng tôi vẫn không nói ra là lời con nói. Tôi thường mắng mở và đuổi vợ ra khỏi nhà, bà con hàng xóm đến can cũng không có tác dụng gì.
Bị tôi đánh đuổi ra khỏi nhà vợ tôi bị rơi vào ngõ cụt. Vợ tôi tắm rửa sạch sẽ rồi ra Hoàng Gia ngửa mặt lên trời mà than mong trời chứng giám cho.
Nếu đoan tranh giữ tiết một lòng một dạ với chồng con thì khi chết xin được làm Mỵ Nương, cỏ Ngu Mỹ. Nếu lừa chồng dối con thì nguyện làm mồi cho cá. Nói xong vợ tôi gieo mình xuống sông mà chết.
Tuy tôi rất tức giận vì nàng không thủy chung nhưng nàng chết đi tôi cũng vô cùng thương tiếc tìm vớt thây nàng nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Một mình gà trống nuôi con vắng vẻ lạnh lẽo đêm đến tôi bấc đèn tàn, không sao ngủ được chợt con tôi nói rằng:
Cha Đản lại đến rồi!
Tôi hỏi đâu. Nó chỉ vào bóng tôi trên vách.
Thì ra tôi đi vắng vợ tôi thường đùa chỉ bóng mình mà bảo là cha. Bấy giờ tôi mới hiểu ra nỗi oan của vợ nhưng chẳng làm gì được nữa.
Cùng làng với vợ tôi có người tên là Phan Lang một đem chiêm bao thấy người con gái áo xanh , đến kêu xin tha mạng. Sáng dậy nhặt được một con rùa hắn ta nhớ đến giấc mơ hôm qua bèn phóng sinh cho con rùa. Phan Lang đi đánh cá và bị lật thuyền thây hắn trôi dặt và được một cô Vũ Nương cứu sông. Cô ấy bảo là người cùng làng với Lang, Vũ Nương sai sứ giả đưa Phan Lang lên khỏi nước, Vũ Nương cũng gửi một chiếc hoa vàng và dặn:
Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một dàn giải oan ở bến sông,đốtcây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về.
Về đến nhà Phan đem kể lại chuyện này cho tôi ban đầu tôi cũng không tin nhưng khi nhậ được chiếc hoa vàng tôi mới tin. Đây thật sự là vật dụng của vợ tôi.
Tôi bèn theo lời Phan lập một dàn giải oan trên bến sông. Vợ tôi hiện lên thật nhưng lúc ẩn lúc hiện.Tôi vội gọi nhưng nàng vẫn ở giữa dòng sông mà nói với vào:
Thiếp cảm ơn, ơn đức của Linh Phi đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng thiếp chẳng về lại được nhân gian nữa.
Trong phút chốt cảnh tượng tan biến. Tôi gục đầu thổn thức. Một sự ân hận ghê gớm vào tâm can tôi. Chỉ vì một cơn ghen mù quáng mà tôi đã làm cho vợ chông mẹ con phải li biệt mãi mãi. Sai lâm của tôi không thể nào cứu chữa được nữa. Tôi mong mọi người hãy nhìn vào tôi mà rút ra bài học cho chính bản thân mình. Đã là vợ chông thì hãy thương yêu tin tưởng lẫn nhau có như vậy hạnh phúc mới bền vững mãi mãi được.
 
Top Bottom