- 14 Tháng chín 2018
- 805
- 1,015
- 181
- 26
- Thừa Thiên Huế
- Đh sư phạm huế


CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
(Trích “Truyện kì mạn lục” – Nguyễn Dữ)
I. TÁC GIẢ(Trích “Truyện kì mạn lục” – Nguyễn Dữ)
- Nguyễn Dữ ( chưa rõ năm sinh năm mất ) quê ở Hải Dương
- Nguyễn Dữ sống vào nửa đầu thế kỉ XVI, là thời kì Triều đình nhà Lê bắt đầu khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn tranh giành quyền lực, gây ra các cuộc nội chiến kéo dài
- Ông học rộng, tài cao nhưng chỉ làm quan 1 thời gian rồi cáo về, sống ẩn dật ở vùng núi Thanh Hóa. Đó là cách phản kháng của nhiều trí thức tâm huyết đương thời
II. TÁC PHẨM :
1) Xuất xứ: “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ 16 trong tổng số 20 truyện nằm trong tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Dữ “Truyền kì mạn lục” . Truyện có nguồn gốc từ 1 truyện cổ dân gian “Vợ chàng Trương”
2) Thể loại: Truyện truyền kì mạn lục (ghi chép tản mạn những truyện kì lạ trong dân gian) viết bằng chữ Hán
3) Chủ đề: Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, “chuyện người con gái Nam Xương” thể hiện niềm thương cảm với số phận oan nghiệt, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp truyền thống của con gái Việt Nam dưới chế độ phong kiến
4) Tóm tắt: Vũ Thị Thiết ( Vũ Nương) là người phụ nữ nhan sắc, đức hạnh. Chồng nàng là Trương Sinh phải đi lính sau cưới ít lâu. Nàng ở nhà , một mình vừa nuôi con nhỏ vừa chăm sóc mẹ chồng đau ốm rồi làm ma chu đáo khi bà mất. Trương Sinh trở về, nghe lời con trẻ mà vội vàng nghi ngờ vợ thất tiết rồi đã đánh đuổi đi. Vũ Nương uất ức gieo mình xuống sông tự vẫn và được Rùa Linh Phi và các tiên nữ cứu giúp. Sau đó Trương Sinh mới biết vợ bị oan. Ít lâu sau, Vũ Nương gặp Phan Lang, người cùng làng chết đuối được Linh Phi cứu. Khi Lang trở về, Vũ Nương nhờ gửi chiếc hoa vàng nhắn chàng Trương lập đàn giải oan cho nàng. Trương Sinh nghe theo, Vũ Nương ẩn hiện giữa dòng, nói vọng vào bờ lời vĩnh biệt rồi biến mất
5) Bố cục: 3 đoạn
- Đoạn 1 : … của mình : Cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, sự xa cách vì chiến tranh và phẩm hạnh của nàng trong thời gian xa cách
- Đoạn 2:… qua rồi : Nỗi oan khuất và cái chết bi thảm của Vũ Nương
- Đoạn 3: còn lại : Cuộc gặp gỡ giữa Phan Lang và Vũ Nương trong động Linh Phi. Vũ Nương được giải oan.
III. GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA TÁC PHẨM: (Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc)
1) Giá trị hiện thực
- Chuyện phản ánh hiện thực xã hội phong kiến bất công với chế độ nam quyền, chà đạp lên số phận người phụ nữ ( đại diện là nhân vật Trương Sinh)
- Phản ánh số phận con người chủ yếu qua số phận người phụ nữ: chịu nhiều oan khuất và bế tắc
- Phản ánh xã hội phong kiến với những cuộc chiến tranh phi nghĩa, làm cuộc sống của người dân rơi vào bế tắc
2) Giá trị nhân đạo:
- Ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ việt nam thông qua nhân vật Vũ Nương Tác giả đã đặt Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau để bộc lộ đời sống và tính cách nhân vật.
IV. VẺ ĐẸP PHẨM CHẤT CỦA VŨ NƯƠNG:
- Ngay từ đầu, nàng đã được giới thiệu là “tính đã thùy mị nết na , lại thêm tư dung tốt đẹp
- Chàng Trương Sinh mến vì dung hạnh nên mới xin mẹ trăm lạng vàng cưới về CẢNH 1: Trong cuộc sống vợ chồng bình thường , nàng luôn giữ gìn khuôn phép, nên dù chồng đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức nhưng gia đình vẫn chưa từng xảy ra bất hòa
CẢNH 2: Khi tiễn chồng đi, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa, đằm thắm . Nàng “chẳng dám mong” vinh hiển, mà chỉ mong chồng về mang theo “hai chữ bình an, thế là đủ rồi”. Vũ Nương cũng thông cảm cho những nỗi gian lao vất vả chồng sẽ phải chịu đựng. Và xúc động nhất là những lời tâm tình về nỗi nhớ nhung, trông chờ khắc khoải của mình khi xa chồng. Những lời văn từng nhịp, từng nhịp biền ngẫu như nhịp trái tim nàngtrái tim của người vợ trẻ khát khao yêu đương đang thổn thức lo âu cho chồng. Những lời đó thấm vào lòng người, khiến ai ai cũng xúc động ứa hai hàng lệ
CẢNH 3: Rồi đến khi xa chồng , nàng càng chứng tỏ và bộc lộ nhiều phẩm chất đáng quý. Trước hết, nàng là người vợ hết sức chung thủy với chồng. Nỗi buồn nhớ chồng vò võ qua từng năm tháng. Mỗi khi thấy “bướm lượn đầy vườn”- cảnh vui mùa xuân hay “mây che kín núi”- cảnh buồn mùa đông, nàng lại chặn “nỗi buồn chân trời góc bể nhớ người đi xa”. Đồng thời, nàng là người mẹ hiền, hết lòng nuôi dạy, chăm sóc, bù đắp cho đứa con trai nhỏ sự thiếu vắng tình cha. Bằng chứng chính là chiếc bóng ở phần sau câu chuyện mà nàng vẫn bảo là cha Đản. Cuối cùng, Vũ Nương còn bộc lộ đức tính hiếu thảo của người con dâu , tận tình chăm sóc mẹ chông già yếu, ốm đau. Nàng lo chạy chữa thuốc thang cho mẹ qua khỏi, thành tâm cúng bái thần phật, bởi yếu tố tâm linh đối với người xưa là rất quan trọng . Nàng lúc nào cũng dịu dàng “lấy lời ngọt ngào , khôn khéo khuyên lơn”. Lời trăng trối cuối cùng của bà mẹ chồng đã đánh giá cao công lao của Vũ Nương đối với gia đình “Xanh kia quyết chẳng phụ con , cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Thông thường, mối quan hệ mẹ chồng - nàng dâu là mối quan hệ căng thẳng, phức tạp. Nhưng trước người con dâu hết mực hiền thảo như Vũ Nương thì bà mẹ Trương Sinh không thể không yêu mến. Khi bà mất, Vũ Nương đã “ hết lòng thương xót, ma chay như đối với cha mẹ đẻ của mình”. Có thể nói, cuộc đời Vũ Nương tuy ngắn ngủi nhưng nàng đã làm tròn bổn phận của người phụ nữ : một người vợ thủy chung, một người mẹ thương con và một người con dâu hiếu thảo . Ở bất kì một cương vị nào, nàng cũng rất hoàn hảo
CẢNH 4: Khi bị chồng nghi oan, nàng đã tìm mọi cách để xóa bỏ ngờ vực trong lòng Trương Sinh
+ Ở lời nói đầu tiên, nàng nói đến thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng chung thủy trong trắng của mình. Cầu xin chồng đừng nghi oan, nghĩa là nàng đã cố gắng hàn gắn, cứu vãn hạnh phúc gia đình của mình đang có nguy cơ tan vỡ
+ Ở lời nói thứ hai trong tâm trạng “bất đắc dĩ”, Vũ Nương đã bày tỏ nỗi thất vọng khi không hiểu sao bị đối xử tàn nhẫn, bất công, không có quyền tự bảo vệ mình, thậm chí không có quyền được bảo vệ qua những lời biện bạch, thanh minh của hàng xóm láng giềng. Người phụ nữ của gia đình đã mất đi hạnh phúc gia đình “thú vui nghi gia nghi thất”. Tình cảm đơn chiếc thủy chung nàng dành cho chồng đã bị phủ nhận không thương tiếc. Giờ đây “bình rơi trâm gãy , mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao , liễu tàn trước gió , khóc tuyết bông hoa rụng cuống , kêu xuân cái én lìa đàn , nước thẳm buồn xa”, cả nỗi nhớ chờ chồng mà hóa đá trước đây cũng không còn. Vậy thì cuộc đời còn ý nghĩa gì nữa đối với người vợ trẻ khao khát yêu đương ấy?
+ Chẳng còn gì ngoài nỗi thất vọng tột cùng , đau đớn ê chề bởi cuộc hôn nhân đã không còn cách nào hàn gắn nổi, mà nàng thì phải chịu oan khuất tày trời . Bị dồn nén đến bước đường cùng, sau mọi cố gắng không hoàn thành, Vũ Nương chỉ biết mượn dòng nước Hoàng Giang để rửa nỗi oan nhục . Nàng đã tắm gội chay sạch, mong dòng nước làm dịu đi tức giận trong lòng, khiến nàng suy nghĩ tỉnh táo hơn để không hành động bồng bột. Nhưng nàng vẫn không thay đổi quyết định ban đầu, bởi chẳng còn con đường nào khác cho người phụ nữ bất hạnh này. Lời than của nàng trước trời cao sông thẳm là lời nguyện xin thần sông chứng giám cho nỗi oan khuất cũng như đức hạnh của nàng. Hành động trầm mình tự vẫn là hành động quyết liệt cuối cùng, chất chứa nỗi tuyệt vọng đắng cay nhưng cũng đi theo sự chỉ đạo của lý trí .
+ Ðược các tiên nữ cứu giúp, nàng sống dưới thủy cung và được đối xử tình nghĩa. Nàng hết sức cảm kích ơn cứu mạng của Linh Phi và các tiên nữ dưới nước. Nhưng nàng vẫn khôn nguôi nhớ cuộc sống trần thế, cuộc sống nghiệt ngã đã đẩy nàng đến cái chết. Vũ Nương vẫn là người vợ yêu chồng, người mẹ thương con, vẫn nặng lòng nhung nhớ quê hương, mộ phần cha mẹ, đồng thời vẫn khao khát được trả lại danh dự. Bởi vậy nàng đã hiện về khi Trương Sinh lập đàn giải oan. Thế nhưng “cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ” , Vũ Nương không quay trở về trần gian nữa
Vũ Nương là một người phụ nữ xinh đẹp , nết na, hiền thục đảm đang, tháo vát, thờ kính mẹ chồng rất mực hiếu thảo, một dạ thủy chung, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình, là khuôn vàng thước ngọc của mọi người phụ nữ. Người như nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc trọn vẹn nhưng lại chịu số kiếp bi đát, đau thương.
V. CÁI CHẾT OAN KHUẤT
Duyên cớ khiến cho một người phụ nữ đức hạnh như Vũ Nương không thể sống mà phải chết một cách oan uổng:
a) Nguyên nhân trực tiếp : Do lời nói ngây thơ của bé Đản. Đêm đêm, ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya, Vũ Nương thường “trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản”. Vậy nên Đản mới ngộ nhận đó là cha mình, khi người cha thật trở về thì không chịu nhận và còn vô tình đưa ra những thông tin khiến mẹ bị oan.
b) Nguyên nhân gián tiếp :
- Do người chồng đa nghi , hay ghen. Ngay từ đầu, Trương Sinh đã được giới thiệu là người “đa nghi , đối với vợ phòng ngừa quá sức”, lại thêm “không có học”. Đó chính là mầm mống của bi kịch sau này khi có biến cố xảy ra. Biến cố đó là việc Trương Sinh phải đi lính xa nhà, khi về mẹ đã mất. Mang tâm trạng buồn khổ, chàng bế đứa con đi thăm mộ mẹ, đứa trẻ lại quấy khóc không chịu nhận cha. Lời nói ngây thơ của đứa trẻ làm đau lòng chàng “Ô hay ! thế ra ông cũng là cha tôi ư ? Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước đây chỉ nín thin thít” Trương Sinh gạn hỏi đứa bé lại đưa thêm những thông tin gay cấn, đáng nghi “có một người đàn ông đêm nào cũng đến” (hành động lén lút che mắt thiên hạ ) “ mẹ Đản đi cũng đi. Mẹ Đản ngồi cũng ngồi” (hành động quấn quýt nhau) “chẳng bao giờ bế Đản” ( không muốn sự có mặt của đứa bé ) . Những lời nói ngây thơ của đứa trẻ đã thổi bùng lên ngọn lửa ghen tuông trong lòng Trương Sinh
- Do cách cư xử hồ đồ , thái độ phũ phàng, thô bạo của Trương Sinh. Là kẻ không có học, lại làm ghen tuông làm cho mờ mắt, Trương Sinh không đủ bình tĩnh, sáng suốt để phân tích những điều phi lý trong lời nói con trẻ. Con người độc đoán ấy đã vội vàng kết luận “đinh ninh là vợ hư”. Chàng bỏ ngoài tai tất cả những lời biện bạch , thanh minh, thậm chí là van xin của vợ. Khi Vũ Nương hỏi ai nói thì lại giấu không kể lời con. Ngay cả những lời bênh vực của họ hàng, làng xóm cũng không thể cởi bỏ oan khuất cho Vũ Nương. Trương Sinh đã bỏ qua tất cả các cơ hội để cứu vãn tấm thảm kịch, chỉ biết la lên cho hả giận. Trương Sinh lúc ấy không còn nghĩ đến tình nghĩa vợ chồng, cũng chẳng quan tâm đến công lao to lớn của Vũ Nương đối với gia đình, nhất là gia đình nhà chồng. Từ đấy có thể thấy Trương Sinh là con đẻ của chế độ nam quyền bất công , thiếu lòng tin và thiếu tình thương, ngay cả với người thân yêu nhất.
- Do cuộc hôn nhân không bình đẳng, Vũ Nương là “con nhà kẻ khó”, còn Trương Sinh là “con nhà hào phú”. Thái độ tàn tệ, rẻ rúng của Trương Sinh đã phần nào thể hiện quyền thế của nhà giàu đối với người nghèo trong một xã hội đồng tiền đã làm đen thói đời.
- Do lễ giáo hà khắc, phụ nữ không có quyền được nói, không có quyền được tự bảo vệ mình. Trong lễ giáo ấy, chữ trinh là quan trọng hàng đầu, người phụ nữ khi đã mang tiếng thất tiết thì sẽ bị cả xã hội hắt hủi, chỉ còn một con đường chết để giải thoát.
- Do chiến tranh phong kiến gây nên cảnh sinh ly và cũng góp phần dẫn đến cảnh tử biệt. Nếu không có chiến tranh, Trương Sinh không phải đi lính thì Vũ Nương đã không chịu nỗi oan tày trời dẫn đến cái chết thương tâm như vậy. Tóm lại: Bi kịch của Vũ Nương là một lời tố cáo xã hội phong kiến, xem trọng quyền uy của kẻ giàu có và của người đàn ông trong gia đình, đồng thời bày tỏ niềm cảm thương của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Người phụ nữ đức hạnh ở đây không được bênh vực, trở che mà lại còn bị đối xử một cách bất công, vô lý; chỉ vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ và vì sự hồ đồ vũ phu của anh chồng hay ghen tuông mà đến nỗi phải tự kết liễu cuộc đời mình.