b tham khảo thử nha:
Vang bóng một thời là tác phẩm được xem gần tới sự toàn thiện toàn mỹ đã khẳng định phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: tài hoa uyên bác. CNTT là một trong những tác phảm làm nên tên tuổi của Nguyên Tuân. Sừng sững giữa VBMt là ông HC trong CNTT. Trong truyện tác giả không chỉ ca ngợi cái đẹp mà cái đẹp còn có khả năng cảm hóa con người. Tư tưởng này tập trung qua nhân vật HC. Nv ấy để lại dư âm dư vang về một thời đã qua mà nay chỉ còn vang bóng. Vẻ đẹp của HC với tài hoa, khí phách và thiên lương tỏa rạng. Nhà văn Nguyễn Tuân đã lấy nguyên mẫu hình tượng danh sĩ Cao Bá Quát mà tài năng thơ văn và tính cách ngang tàng đã trở thành huyền thoại làm nguồn cảm hứng sáng tạo nhân vật Huấn Cao. Họ Cao là một lãnh tụ nông dân chống triều Nguyễn năm 1854. Huấn Cao được lấy từ hình tượng này với tài năng, nhân cách sáng ngời và rất đỗi tài hoa. Huấn Cao là một con người đại diện cho cái đẹp, từ cái tài viết chữ của một nho sĩ đến cốt cách ngạo nghễ phi thường của một bậc trượng phu , tấm lòng trong sáng của một người biết quý trọng cái tài, cái đẹp. Huấn Cao trước hết là một người có tài viết thư pháp. Chữ viết không chỉ là kí hiệu ngôn ngữ mà còn thể hiện tính cách con người. Cái tài viết chữ của ông được thể hiện qua đoạn đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại. Tài năng của Huấn Cao còn được miêu tả qua lời người dẫn truyện và trong suy nghĩ nhân vật. Chữ của Huấn Cao “đẹp lắm, vuông lắm”, nét chữ còn thể hiện khí phách hiên ngang, tung hoành bốn bể. Chữ Huấn Cao đẹp và quý đến nỗi viên quản ngục ao ước suốt đời. Viên quản ngục đến “mất ăn mất ngủ”; không nề hà tính mạng của mình để có được chữ của Huấn Cao, “một vật báu ở trên đời”. Chữ là vật báu trên đời thì chắc chắn chủ nhân của nó phải là một người tài năng xuất chúng, phi thường có một không hai, là kết tinh mọi tinh hoa, khí thiêng của trời đất hun đúc lại mà thành. Chữ của Huấn Cao đẹp đến như vậy thì nhân cách của Huấn Cao cũng chẳng kém gì. Ông là con người tài tâm vẹn toàn. Huấn Cao mang vẻ đẹp của một con người có khí phách, có cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Ông theo học đạo nho thì đáng lẽ phải thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng ông đã không trung quân mà còn chống lại triều đình để giờ đây khép vào tội “đại nghịch”, chịu án tử hình. Bởi vì Huấn Cao có tấm lòng nhân ái bao la; ông thương cho nhân dân vô tội nghèo khổ, làm than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo thối nát. Huấn Cao rất căm ghét bọn thống trị và thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân “thấp cổ bé họng”. Nếu như Huấn Cao phục tùng bọn phong kiến kia thì ông sẽ được hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng không, ông Huấn đã lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Cuộc đấu tranh không thành công ông bị bọn chúng bắt. Giờ đây phải sống trong cảnh ngục tối chờ ngày xử chém. Trước khi bị bắt vào ngục, viên quản ngục đã nghe tiếng đồn Huấn Cao rất giỏi võ, ông có tài “bẻ khóa, vượt ngục” chứng tỏ Huấn Cao là một người văn võ toàn tài, quả là một con người hiến có trên đời. Tác giả miêu tả sâu sắc trạng thái tâm lý của Huấn Cao trong những ngày chờ thi hành án. Trong lúc này đây, khi mà người anh hùng “sa cơ lỡ vận” nhưng Huấn Cao vẫn giữ được khí phách hiên ngang, kiên cường. Tuy bị giam cầm về thể xác nhưng ông Huấn vẫn hoàn toàn tự do bằng hành động “dỡ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỳnh một cái” và “lãnh đạm” không thèm chấp sự đe dọa của tên lính áp giải. Dưới mắt ông, bọn kia chỉ là “một lũ tiểu nhân thị oai”. Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra “khinh bạc”. Ông đứng đầu gông, ông vẫn mang hình dáng của một vị chủ soái, một vị lãnh đạo. Người anh hùng ấy dù cho thất thế nhưng vẫn giữ được thế lực, uy quyền của mình. Thật đáng khâm phục! Là kẻ chọc trời khuấy nước có hoài bão tung hoành, ngay cả cảnh chết chém ông còn chả sợ. Vì vậy trong những ngày cuối cùng ở nhà lao đợi ra pháp trường, khí phách ấy càng tỏ ra cứng cỏi hơn bao giờ hết: mặc dù ở trong tù, ông vẫn thản nhiên “ăn thịt, uống rượu như một việc vẫn làm trong hứng bình sinh”. Huấn Cao hoàn toàn tự do về tinh thần. Khi viên cai ngục hỏi Huấn Cao cần gì thì ông trả lời: “Ngươi hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng bước chân vào đây ”. Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ …”. Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội. “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. HC là người có thiên lương tỏa sáng. Theo quan niệm của Nguyễn Tuân thiên lương được xem là cái tâm tốt tự nhiên của con người. Trước hết HC là người có thiên lương trong sáng. Ông coi thường danh lợi, trọng nghía khinh tài. Ông chú trọng cái tâm. Theo quan niệm cái tâm đó chính là tâm hồn. Thế nhưng khi biết được nỗi lòng của viên quản ngục, Huấn những vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt rằng: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quý đến như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn Cao cho chữ là một việc rất hiếm bởi vì “tính ông vốn khoảnh. Ta không vì vàng bạc hay uy quyền mà ép cho chữ bao giờ”. Cho người tri kỉ trước khi đi vào cõi chết. Hành động cho chữ viên quản ngục chứng tỏ Huấn Cao là một con người biết quý trọng cái tài, cái đẹp, biết nâng niu những kẻ tầm thường lên ngang hàng với mình. HC còn khuyên dạy quản ngục những điều hay lẽ phải, đạo lí làm người. Đặc biệt ở nhân vật này còn mang vẻ đẹp của sự cảm hóa lòng người, vẻ đẹp ấy được hội tụ và tỏa sáng trong đem cho chữ. Trật tự nhà lao bị phá vỡ, tử từ thành người cho chữ giáo huấn quản ngục bài học đạo lí, khuyên quản ngục về quê để giữ được thiên lương.Sự hội tụ tài năng, khí phách và thiên lương đã cho ra đời một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Trước khi bước vào cõi chết ông để lại cái đẹp cho đời và người bất tử hóa cái đẹp ấy chính là viên quản ngục. Trong đêm cho chữ nhân cách HC sừng sững hiên ngang bất khuất, không gian thời gian nhường chỗ cho sáng tạo nghệ thuật. Hc là biểu tượng cho sự chiến thắng cái tài cái đẹp trước cái pahfm tục tầm thường. Kẻ tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” đang “đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh” với tư thế ung dung tự tại, Huấn Cao đang dồn hết tinh hoa vào từng nét chữ. Đó là những nét chữ cuối cùng của con người tài hoa ấy. Những nét chữ chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm đẫm nước mắt thương cảm của người đọc. Con người tài hoa vô tội kia chỉ mới cho chữ ba lần trong đời đã vội vã ra đi, để lại biết bao tiếc nuối cho người đọc. Qua đó, Nguyễn Tuân cũng gián tiếp lên án xã hội đương thời đã vùi dập tài hoa con người. Và người tù kia bỗng trở nên có quyền uy trước những người đang chịu tránh nhiệm giam giữ mình. Ông Huấn đã khuyên viên quản ngục như một người cha khuyên bảo con: “Tôi bảo thực thầy quản nên về quê ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững rồi cũng có ngày nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Theo Huấn Cao, cái đẹp không thể nào ở chung với cái xấu được. Con người chỉ thưởng thức cái đẹp khi có bản chất trong sáng, nhân cách cao thượng mà thôi. Những nét chữ cuối cùng đã cho rồi, những lời nói cuối cùng đã nói rồi. Huấn Cao, người anh hùng tài hoa kia dù đã ra đi mãi mãi nhưng để lại ấn tượng sâu sắ cho những ai đã thấy, đã nghe, đã từng được thưởng thức nét chữ của ông. Sống trên cõi đời này, Huấn Cao đã đứng lên đấu tranh vì lẽ phải; đã xóa tan bóng tối hắc ám của cuộc đời này. Chính vì vậy, hình tượng Huấn Cao đã trở nên bất tử. Huấn Cao sẽ không chết mà bước sang một cõi khác để xua tan bóng tối nơi đó, đem lại hạnh phúc cho mọi người ở mọi nơi. Nt đặt nv HC và quản ngục trong tình huongs độc đáo eosl le. Chỉ khi vào nhà ngục và cho chữ viên quản ngục trong đêm cuois cùng ta mới thấy được cái đẹp cái lớn trong con người HC; đẹp về tài năng, lớn về nhân cách. Tg khắc họa thành công nv HC với những nét đối lập: giữa lạnh lùng khinh bạc ở bên ngoài và nội tâm biết quí trọng người yêu cái đẹp bên trong, đói lập giữa người tử tù và nghệ sĩ: nv sd ngôn ngữ vừa cổ kính vừa hiện đại để phục chế lại cảnh cho chữ và vẻ đẹp uy nghiêm của HC trong cảnh cho chữ. Đồng thời qua hình tượng ông Huấn NT kđ và ca ngợi cái đẹp. Đặt nv vào hc đương thời việc nhà văn ca ngợi HC có tâm, khí phách là một ẩn dụ kín đáo để ông gởi gắm lòng kính trọngđối với những con người dám xả thân vì giang sơn tổ quốc. Giọng văn trang trọng, ngôn ngữ taì hoa phù hợp cảm xúc ca ngợi những con người như HC. Ở Huấn Cao hội tụ nhiều vẻ đẹp nhưng đẹp nhất vẫn là ánh lên vẻ đẹp của cái “tài”, cái “tâm”, cái “khí phách” và sức cảm hóa lòng người ở con người này. Trong cái “tài” có cái “tâm” và cái “tâm” ở đây chính là nhân cách cao thượng sáng ngời của một con người tài hoa. Cái đẹp luôn song song “tâm” và “tài” thì cái đẹp đó mới trở nên có ý nghĩa thực sự. Xây dựng hình tượng Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xây dựng nên chân dung nghệ thuật điển hình lí tưởng trong văn học thẩm mĩ. Trong truyện HC phải dùng cái tâm, cái đẹp để cảm hóa quản ngục. Ta thấy sừng sững một nhân cách HC. Nhân cách ấy là bài học muôn đời “uy vũ bất năng ức”. Cái đẹp có sức mạnh riêng làm nhân đạo hóa con người, làm thanh sạch tâm hồn con người. Bài học cho muôn đời là hãy giữ lấy nhân cách con người dù bất kì hc nào.