Văn 9 Cảm nhận của em về đoạn trích truyện “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng

misoluto04@gmail.com

Banned
Banned
Thành viên
19 Tháng sáu 2018
895
462
101
19
Hà Nội
Good bye là xin chào...

0975034856

Học sinh
Thành viên
13 Tháng hai 2019
142
151
21
17
Bình Định
Trường THCS Ngô Mây
I. Mở bài:
Có những câu chuyện dù phải đọc nhiều lần ta vẫn không thể nhớ. Lại có những câu chuyện dù chỉ đọc một lần ta vẫn không thể quên.
Có những hạnh phúc muộn màng và ngắn ngủi khiến ta phải trào nước mắt.
Có những tình cảm nồng ấm và thiêng liêng mà ta chỉ cảm nhận được trong tổ ấm gia đình…
Tất cả những ấn tượng ấy đều có từ truyện ngắn Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Một truyện ngắn dung dị nhưng gây xúc động lòng người trước tình cảm sâu nặng của cha con ông Sáu.
II.Thân bài:
1. Khái quát tác phẩm Chiếc lược ngà (Dẫn dắt vào bài):
Tác phẩm được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, tại chiến trường Nam Bộ trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra quyết liệt Điều đáng chú ý là truyện ngắn này viết trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt nhưng lại tập trung nói về tình người – cụ thể ở đây là tình cha con trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh và tình đồng chí của những người cán bộ cách mạng. Tình phụ tử thiêng liêng được miêu tả thật cảm động ở cả hai phía: Người cha cán bộ cách mạng và đứa con gái nhỏ. Đó không chỉ là một tình cảm muôn thuở, có tính nhân bản bền vững, mà còn được thể hiện trong hoàn cảnh ngặt nghèo, éo le và trong cuộc sống nhiều gian khổ, hi sinh của người cán bộ cách mạng. Vì thế, tình cảm ấy càng đáng trân trọng và đồng thời nó cũng cho thấy những nỗi đau mà chiến tranh gây ra cho cuộc sống bình thường của mọi người.
2. Tình cảm gia đình, tình phụ thử thiêng liêng, cảm động trong những năm tháng chiến tranh.
a. Tình cảm của bé Thu dành cho cha của mình:
Bé Thu trong câu chuyện, cũng như bao cô bé miền Nam khác đều thiếu thốn tình cha từ nhỏ do cuộc chiến tranh. Từ nhỏ đến hồi tám tuổi, em chỉ được biết ba, hình dung ba qua ảnh và qua lời kể của bà và má. Dù được sống trong tình yêu thương của mọi người nhưng có lẽ Thu cũng cảm thấy thiếu hụt một tình thương, sự che chở, ôm ấp của người cha. Chắc Thu phải từng giờ từng phút trông chờ, ao ước gặp ba em lắm!
* Thái độ và tình cảm của bé Thu khi người cha từ chiến trường về thăm nhà:
– Nhưng thật bất ngờ, thái độ và hành động của Thu lại hoàn toàn trái ngược với sự trông ngóng, sốt ruột của người cha mong gặp con sau nhiều năm xa cách; trái ngược với sự mong đợi, suy nghĩ ở người đọc về cuộc hội ngộ đầy cảm động của hai cha con. Tình thương yêu cha của bé Thu được thể hiện một cách hết sức bất thường. Đó là dứt khoát chối bỏ người cha hiện tại mà em cho là không phải cha mình, để dành trọn vẹn tình thương yêu cho người cha mà em hằng mong nhớ.
– Thoạt đầu, khi nhìn thấy ông Sáu vui mừng vồ vập nhận Thu là con, em tỏ ra lảng tránh, lạnh nhạt và xa cách tròn mắt nhìn…ngơ ngác, lạ lùng…bỏ chạy và cầu cứu Má! Má!. Với ông Sáu thái độ của Thu khiến ông hụt hẫng, đau đớn. Nhưng với Thu đây là phản ứng tâm lý tự nhiên. Bởi từ khi em lớn lên, ông Sáu đâu có ở bên cạnh, chưa bao giờ em được trông thấy cha bằng xương, bằng thịt. Hôm nay một người đàn ông lạ lẫm với vết sẹo dài đỏ ửng, giật giật, trông rât dễ sợ đột ngột xuất hiện tự xưng là cha, làm sao em không sợ hãi? Một nghịch lý trớ trêu, đau xót cho người cha, một sự ngỡ ngàng, lạ lẫm cho đứa con được Nguyễn Quang Sáng miêu tả thật sinh động, tài tình.
– Suốt mấy ngày ông Sáu ở nhà, bé Thu hoàn toàn lạnh lùng trước tình cảm vồ vập của người cha. Ông Sáu càng xích lại gần, bé Thu càng lùi xa. Ông Sáu càng yêu thương, bé Thu càng lảng tránh. Tác giả đã chứng tỏ tài năng của mình trong việc xây dựng nhân vật một bé gái tám tuổi bướng bỉnh và gan góc. Trong tâm hồn trẻ thơ của bé Thu, chỉ có duy nhất hình ảnh một người ba mà nó biết qua bức ảnh chụp với má ngày cưới. Nó nhất quyết không chịu nhận ba, không gọi ba vì thấy ba nó trong bức ảnh không hề có vết thẹo trên má còn người cứ gọi nó là con, bắt nó gọi bằng ba bây giờ lại có vết thẹo dài trên má. Nguyễn Quang Sáng đã tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ.
Chi tiết gọi "trổng" và chi tiết chắt nước cơm đã khắc hoạ nổi bật sự đáo để hồn nhiên của bé Thu. Đặc biệt là chi tiết bé Thu hất đổ cả chén cơm khi anh Sáu gắp cho nó cái trứng cá. Bị ba đánh, tưởng đâu;con bé sẽ lăn ra khóc, sẽ giẫy, sẽ đạp đổ cả mâm cơm, hoặc sẽ chạy vụt đi. Nhưng không, nó ngồi im, đầu cúi gằm xuống. Nghĩ thế nào nó cầm đũa, gắp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm. Đành rằng trẻ con chỉ tin vào những gì chúng thấy, đành rằng bé Thu không thể biết được sự ác nghiệt của bom đạn là thế nào, và nó có cách suy nghĩ theo kiểu trẻ con của nó, nhưng phải thừa nhận rằng cô bé này có một cá tính mạnh mẽ. Sự bướng bỉnh, gan góc đến kì lạ của bé Thu sau này trở thành lòng dũng cảm, sự lanh lợi của cô giao liên Thu.
Tình yêu cha của Thu được thể hiện ngay trong chính hành động bướng bỉnh. Vì cha, Thu kiên quyết từ chối sự quan tâm của người lạ, thương cha nên bao nhiêu yêu thương kính trọng được em giữ gìn trong tiếng "ba" trìu mến. Với em, ba là duy nhất, không ai có thể thay thế tình yêu ấy. Đó là nét đẹp phẩm chất nơi thu khiến ta khâm phục. Nếu ai thực sự hiểu được điều đó, sẽ thấy Thu không đáng ghét mà đáng yêu vô cùng.
* Thái độ và tình cảm của bé Thu khi người cha chuẩn bị lên đường.
– Sự nghi ngờ của Thu được giải toả khi nghe bà ngoại giải thích vì sao ba lại có vệt thẹo dài trên má. Nghe bà kể, nó nằm in lăn lộn, thỉnh thoảng thở dài như người lớn. Sự miêu tả nội tâm gián tiếp qua hành động cho thấy những tình cảm, cảm xúc đang trào dâng trong lòng em – yêu thương cha xen lẫn nỗi ân hận.
– Hôm sau trở về nhà, nhìn mọi người vây quanh cha, vẻ mặt Thu buồn rầu Cái nhìn của nó không ngơ ngác, lạnh lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi, sâu xa. Và khi bắt gặp ánh mắt của cha thì đôi mắt ấy như xôn xao. Cái xôn xao của đôi mắt như nói lên bao điều. Khi ông Sáu cất tiếng chào "Thôi ba đi nghe con" thì nỗi niềm trong em bật tung thành tiếng "Ba…….a…a" Tiếng kêu của nó như tiếng xe, xé sự im lặng, xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng "ba" nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay như vỡ tung từ đáy lòng "nó". Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời xa cách thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim, của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba. Nó vừa kêu, vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó vừa ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc: – Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!. Tình cảm con với ba được thể hiện một cách mãnh liệt, mạnh mẽ, cuống quýt, hối hả và có xen lẫn phần hối hận. Đó là những cảm xúc đã dồn nén từ lâu bỗng vỡ òa ra: Ba bế nó lên. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa. Bà con và người kể chuyện cũng như người đọc không thể kìm được nỗi xúc động như có ai đang nắm chặt tim mình bởi vì cái éo le của tình cha con ở đây. Lúc cha con nhận nhau lại cũng chính là lúc người cha phải ra đi.
Bé Thu là đứa trẻ giàu tình cảm. Thái độ của bé Thu với ba trái ngược trong những ngày đầu khi ông Sáu về thăm nhà và lúc ông sắp ra đi. Song, trái ngược mà vẫn nhất quán. Vì quá yêu ba, quá khao khát được có ba nên khi nhận định không phải ba em thì em nhất định không chịu nhận, nhất định không gọi; lấy một tiếng. Cho nên, khi tiếng gọi như xé kia cất lên ta thấy nó thiêng liêng vô cùng. Tiếng gọi ấy càng trở nên thiêng liêng, quý giá bởi đón chờ nó là cả tấm lòng cao đẹp, thương yêu con vô hạn của người cha.
Với sự am hiểu tâm lý trẻ thơ, ngòi bút miêu tả sinh động diễn biến tâm lý trẻ thơ của tác giả đã xây dựng nên một cô bé Thu cứng cỏi, mạnh mẽ, sâu sắc trong tình cảm. Tâm lý và hành động của Thu được miêu tả sinh động, sát với tâm lý lứa tuổi của em. Điểm nổi bật gợi sự xúc động của em là một tình cảm chân thành, mãnh liệt mà thánh thiện dành cho cha.
b. Tình cảm của ông Sáu dành cho Thu:
Trong Chiếc lược ngà, tình cảm của ông Sáu dành cho con cũng mãnh liệt, sâu nặng không kém. Tình cảm ấy được tác giả thể hiện phần nào trong chuyến về thăm nhà và được miêu tả kỹ lưỡng hơn khi ông ở căn cứ kháng chiến.
* Tình cảm của ông Sáu dành cho con trong chuyến về thăm nhà:
– Cũng như bao người nông dân Việt Nam khác, ông Sáu đi theo tiếng gọi của quê hương để lên đường đi chiến đấu, để lại người vợ và đứa con thân yêu. Sự xa cách càng làm dâng lên trong ông nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái mà khi ông đi nó chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm khao khát, ước mơ cháy bỏng trong lòng ông.
Chính vì vậy mỗi lần vợ lên thăm là một lần ông hỏi: "Sao không cho con bé lên cùng?". Không được gặp con ông đành ngắm con qua ảnh vậy…Mặc dầu tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kĩ lắm rồi, nhưng ông luôn giữ gìn nó vô cùng cẩn thận, coi nó như một báu vật.
– Thế rồi niềm ao ước ấy đã trở thành hiện thực. Ông Sáu được nghỉ phép. Ngày về thăm con, trên xuồng mà ông Sáu cứ nôn nao cả người. Ông Sáu đang nghĩ tới đứa con, nghĩ tới giây phút hai cha con gặp nhau như thế nào. Những điều ấy choáng hết tâm trí khiến ông không còn biết mình đang ngồi trên xuồng với người bạn. Khi xuồng vừa cập bến, ông Sáu đã nhón chân nhảy thót lên bờ. Người bạn đi cùng cũng rất hiểu ông nên không hề trách. Tôi không thể quên được giây phút vô cùng thiêng liêng và trọng đại của ông Sáu, là giây phút người cha mong chờ đứa con sẽ chạy tới ôm xiết lấy mình, là bước trở về sau bao xa cách…
– Người đọc sẽ nhớ mãi hình ảnh một người cha, người cán bộ cách mạng xúc động dang hai tay chờ đón đứa con gái bé bỏng duy nhất của mình ùa vào lòng sau tám năm xa cách. Mong mỏi ngày trở về, nóng lòng được nhìn thấy con, được nghe tiếng gọi thân thương từ con, ông Sáu thực sự bị rơi vào sự hụt hẫng: Anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy. Mong mỏi bao nhiêu thì đau đớn bấy nhiêu. Ông cũng không ngờ rằng chính bom đạn chiến tranh vừa là nguyên nhân gián tiếp, vừa là nguyên nhân trực tiếp của nỗi đau đớn ấy. Tám năm xa vợ xa con, ở nhà được ba ngày rồi lại lên đường, và ra đi mãi… Ba ngày ông được ở nhà ông chẳng đi đâu xa, để được gần gũi, vỗ về bù đắp những ngày xa con. Lòng người cha ấy đau đớn biết nhường nào khi đứa con là máu mủ của mình gọi mình bằng người ta. Anh quay lại nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được, nên anh phải cười vậy thôi. Cử chỉ gắp từng miếng trứng cá cho con cho thấy ông Sáu là người sống tình cảm, sẵn sàng dành cho con tất cả những gì tốt đẹp nhất. Và chao ôi là hình ảnh hai đôi mắt của hai cha con trong thời khắc chia xa: Anh nhìn với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu. Tôi thấy đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao. Người cha ấy sẽ ra đi khi chưa được gọi bằng ba lấy một lần. Đến tận giây phút cuối cùng, khi không còn thời gian để chăm sóc vỗ về nữa, ông mới thực sự được làm cha. Đó là sự thiệt thòi, là sự hi sinh không thể xem là nhỏ của người chiến sĩ cách mạng. Dầu sau này ông Sáu có hi sinh cả tính mạng của mình.
– Có một chi tiết rất đắt giá mà người đọc mãi không thể nào quên trong buổi chia tay. Đó là khi "ông xúc động đến phát khóc" trước tình cảm mãnh liệt của đứa con, trước tiếng "ba" vỡ oà mà bấy lâu nay ông chờ đợi. "Không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc của con". Ai có thể ngờ được một người lính đã dày dạn nơi chiến trường và quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng mềm yếu trong tình cảm cha con. Sau bao năm tháng mong chờ, đau khổ, ông Sáu đã được đón nhận một niềm vui vô bờ. Bây giờ, ông có thể ra đi với một yên tâm rằng ở quê nhà có một đứa con gái thân yêu luôn chờ đợi ông, từng giây tưng phút mong ông quay về.
* Tình cảm của ông Sáu dành cho con khi ở khu căn cứ.
– Tình cảm của ông Sáu đối với con còn được nhà văn thể hiện rất cảm động khi ông ở khu căn cứ. Nỗi day dứt, ân hận ám ảnh ông suốt nhiều ngày là việc ông đã đánh con khi nóng giận. Rồi lời dặn của con: "Ba về ba mua cho con một cây lược nghe ba" đã thôi thúc ông nghĩ đến việc làm cho con một cây lược bằng ngà. Làm cây lược trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình yêu thương con. Kiếm được khúc ngà voi, ông Sáu hớn hở như một đứa trẻ được quà và ông dành hết tâm trí, công sức vào việc làm ra cây lược. Hãy nghe đồng đội của ông kể lại:
"Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc". Phải chăng, bao nhiêu tình yêu thương con ông dồn vào việc làm cây lược ấy? Rồi ông gò lưng tỉ mẩn, khắc từng nét chữ lên sống lưng lược: "Yêu nhớ tặng Thu con của ba". Cây lược ấy, dòng chữ ấy là tình yêu, là nỗi nhớ thương, sự ân hận của ông đối với đứa con gái. Những lúc rỗi cũng như đêm đêm nhớ con ông thường lấy cây lược ra ngắm ngía, rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Làm như vậy, có lẽ ông không muốn con ông bị đau khi chải lược lên tóc. Yêu con, ông Sáu yêu từng sợi tóc của con. Người đọc cảm động trước tấm lòng của người cha ấy. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân – nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trên đời – Chiếc lược ngà. Cho nên, cây lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc, sâu xa mà đơn sơ, giản dị.
– Làm được lược cho con, ông Sáu mong được gặp con, được tận tay chải mái tóc con. Nhưng rồi, một tình cảnh đau thương lại đến với cha con ông Sáu: Trong một trận càn lớn của quân Mỹ ngụy, ông Sáu bị một viên đạn bắn vào ngực. "Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được", tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc "đưa tay vào túi, móc cây lược" đưa cho người bạn chiến đấu. Đó là điều trăng trối không lời nhưng nó thiêng liêng hơn cả những lời di chúc. Nó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện của tình phụ tử.
Chiếc lược ngà như là biểu tượng của tình thương yêu, săn sóc của người cha dành cho con gái, cho dù đến khi không còn nữa ông chưa một lần được chải tóc cho con. Người kể chuyện, đồng đội của ông Sáu đã bộc lộ một sự đồng cảm và xúc động thực sự khi kể lại câu chuyện. Có lẽ, không ai hiểu nhau hơn những người đồng đội, gần nhau hơn những người đồng đội. Cho nên, sau này, khi trao tận tay Thu chiếc lược, giữa thu và người đồng đội của cha mình nảy nở một tình cảm giống như tình cha con.
Có thể nói nhân vật ông Sáu được nhà văn xây dựng bằng những nét nghệ thuật đặc sắc. Nguyễn Quang Sáng đã đặt nhân vật vào cảnh ngộ éo le của đời sống để từ đó ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế đã phát hiện bao cung bậc cảm xúc của tình phụ tử. Hình ảnh ông Sáu – người chiến sĩ Cách mạng, người cha trong truyện Chiếc lược ngà đã để lại bao thổn thức trong lòng người đọc. Ông là hình ảnh tiêu biểu của con người Việt Nam sẵn sàng hi sinh tất cả vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.
3. Đánh giá vài nét về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm:
– Cảm ơn nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã khắc hoạ rõ nét tâm hồn, tình cảm của ông Sáu và bé Thu. Để khi gấp lại trang sách, người đọc sẽ mãi nhớ những khoảnh khắc éo le mà cũng nhiều xúc động, thiêng liêng của tình cha con sâu sắc. Cái mất mát to lớn nhất mà thiên truyện ngắn đề cập đến là người đã khuất, là tổ ấm gia đình không được tồn tại trọn vẹn trong thực tại. Đó là tội ác, là những đau thương, mất mát của chiến tranh xâm lược mà các thế hệ bạo tàn đã gây ra cho chúng ta. Song cái được mà chúng ta nhìn thấy là không có sự bi lụy xảy ra, sức mạnh của lòng căm thù đã biến cô bé Thu trở thành một người chiến sĩ thông minh, dũng cảm, đã gắn bó cuộc đời con người có ít nhiều mất mát xích lại gần nhau để cùng đứng lên viết tiếp bản ca chiến thắng.Tác phẩm để lại cho chúng ta những suy nghĩ khó quên như thế!
– Chiếc lược ngà cũng là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách sáng tác của nhà văn. Ông đã thực sự thành công trong việc xây dựng cốt truyện chặt chẽ, lựa chọn tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí, miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế và sâu sắc, nhất là đối với nhân vật bé Thu. Có thể nói rằng, với một tâm hồn nhạy cảm, một trái tim nhân hậu, một tấm lòng chan chứa yêu thương, nhất là đối với trẻ em, Nguyễn Quang Sáng dường như đã cảm nhận đến tận cùng những biểu hiện tình cảm của nhân vật để miêu tả một cách sinh động và tinh tế. Ngoài ra, tác giả cũng rất thành công trong việc lựa chọn ngôi kể và ngôn ngữ lời thoại mang đậm chất địa phương Nam Bộ….đem đến cho người đọc nhiều xúc động. Tất cả đã góp phần tạo nên sức thuyết phục, hấp dẫn cho chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
III. Kết bài:
Chiếc lược ngà là một câu chuyện cảm động và rất chân thực của Nguyễn Quang Sáng. Câu chuyện về nhân dân yêu nước và anh dũng. Câu chuyện về tình cha con bất tử. Bằng một sự cảm nhận chân thực về tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước trong chiến tranh, ông đã gợi lên niềm tự hào về phẩm giá con người, nét đẹp về tình cảm, về tâm hồn của con người Việt Nam trong thương đau. Thật vậy, trên mảnh đất này, ở mỗi gia đình, mỗi thế hệ, mỗi con người trong những năm tháng đã qua cũng có rất nhiều tình cảm cap đẹp thiết tha khác mà ta cần phải trân trọng, giữ gìn và vun đắp.
Bạn tham khảo dàn ý này nhé!
 

minhloveftu

Học sinh tiêu biểu
Thành viên
15 Tháng một 2019
3,097
2,567
501
Quảng Trị
Trường Đời
Cảm nhận của em về đoạn trích truyện “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.
=> Các bạn viết thành 1 bài văn và không copy trên mạng ... thanks
Ra đời cách đây gần 50 năm (1966), nhưng truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng, mỗi lần đọc lại, vẫn đem đến cho chúng ta niềm xúc động mới mẻ lạ thường. Sức hấp dẫn của Chiếc lược ngà không phải chỉ ở cốt truyện ít nhiều li kì, hay tính cách nhân vật khác lạ mà chính là ở nội dung sâu sắc và cảm động của câu chuyện. Thêm nữa, tác giả của nó - nhà văn Nguyễn Quang Sáng lại truyền đến người đọc bằng một lối kể chuyện thủ thỉ thấm đẫm nỗi niềm đau đáu của người cầm bút về số phận của con người, tình cảm con người trong những năm đất nước phải đối mặt vói cuộc chiến tranh tàn khốc nhất của thế kỉ XX.
Theo tác giả Chiếc lược ngà, chúng ta đến với gia đình anh Sáu ở miền Đông Nam Bộ những năm đầu của thập kỉ 60, thế kỉ XX. Gia đình anh Sáu cũng giống như bao gia đình khác có chồng, có vợ, có con. Nhưng gia đình ấy không được đoàn tụ mỗi ngày. Anh “thoát li đi kháng chiến đầu năm 1946, sau khi tỉnh nhà bị chiếm”, lúc đứa con duy nhất chưa đầy một tuổi. Vợ chồng chỉ được gặp nhau trong những thời khắc ngắn ngủi. Anh chỉ được nhìn con qua tấm ảnh nhỏ.
Từ xa cách đến xa lạ là một khoảng cách rất gần. Lúc trở về, anh Sáu khao khát được gặp con gái, anh chỉ “mong được nghe một tiếng “ba” của con bé”. Tuy nhiên sự thật bình thường lại không đơn giản chút nào “con bé chẳng bao giờ chịu gọi”. Vết thẹo dài bên má anh Sáu “bị Tây bắn bị thương” hồi nào, không ai ngờ lại là vật cản đường con bé đến với ba nó. Sự xung khắc giữa hai bô' con trong những ngày anh Sáu thăm nhà có nguồn gốc từ đây. Đúng vậy, chiến tranh đã không chỉ làm hình dạng con người thay đổi mà theo đó còn làm cho con người ta xa cách ngay cả khi ở gần nhau.
Năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Việt Nam được kí kết, đất nước ta phải chia làm hai miền, một lần nữa gia đình anh Sáu lại li tán. Có ai ngờ lần về thăm nhà này lại là lần cuối cùng đoàn tụ của gia đình anh. Xa vợ, xa con, niềm mong ước được gặp lại con mình không lúc nào nguôi trong lòng anh Sáu. Nhưng mọi cố gắng của người cha không vượt qua nổi sự khắc nghiệt của chiến tranh. “Trong một trận càn của Mĩ - Nguỵ, anh Sáu bị hi sinh. Anh bị viên đạn của máy bay Mĩ bắn vào ngực”. Niềm mong mỏi gặp lại đứa con yêu dấu của mình, anh Sáu đã không thực hiện được. Anh đã ra đi mãi mãi. Cây lược ngà có thể gỡ rối được phần nào nỗi khổ tâm của anh, nhưng anh không còn cơ hội tận tay mang nó đến cho đứa con yêu dấu của mình mặc dù niềm tin vào tình cha con của anh không bao giờ mất.
Trong vai người chứng kiến, tác giả dẫn người đọc đi từ đầu câu chuyện đến cuối câu chuyện với một niềm “xúc động ngậm ngùi”. Bài ca về tình phụ tử trong Chiếc lược ngà đã làm cho biết bao thế hệ người đọc rơi nước mắt. Câu chuyện diễn ra như một màn kịch cổ điển có mỏ đầu, diễn biên, có thắt nút, cởi nút...làm cho người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Và cũng ở đây chúng ta được chứng kiến một Nguyễn Quang Sáng rất sâu sắc, tinh tế trong nghệ thuật khắc hoạ tâm lí nhân vật. Quả thật đọc bao nhiêu lần, tôi không thể nào phân biệt nổi đâu là cái tài của tác giả, đâu là cái thật của câu chuyện. Chỉ biết rằng các tình tiết, diễn biến cứ liên tiếp xuất hiện, liên tiếp mở ra dưới ngòi bút của tác giả như chính nó có trong đời thực. Lúc anh ỏ xa nhà, chị đi thăm không mang con theo được, đành vậy. Nhố con anh chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ. Lần này được về qua nhà chuẩn bị cho một chuyên đi xa “cái tình người cha cứ nôn nao trong anh”. Rồi “không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên... bước vội vàng vối những bước dài”. Chỉ thế thôi ta đã hiểu được sự nóng lòng gặp con của anh đến chừng độ nào. Nguyễn Quang Sáng đã khắc hoạ hình ảnh một người cha yêu thương con thật vồ vập, thật bản năng. Bản năng của người cha trong anh Sáu dường như đã truyền sang người kể chuyện, ông đoán “chắc anh nghĩ rằng, con anh sẽ chạy xô vào lòng anh, sẽ ôm chặt lấy cô anh”. Quả có thế, chúng ta hãy xem động tác của anh Sáu: “vừa bước chân, vừa khom người đưa tay đón chờ con”. Tưởng như bé Thu sẽ hồ hởi đón chò anh, nhưng thật lạ “con bé giật mình, tròn mắt nhìn...ngơ ngác lạ lùng”. Anh Sáu bị bất ngờ trước thái độ sợ hãi của con gái. Một cú sốc thật sự làm trái tim của người cha bị tổn thương. Từ xúc động, anh Sáu chuyển sang đau đớn và thất vọng.
Ba ngày ngắn ngủi trong gia đình, vợ chồng anh Sáu đã làm tất cả để cái tình cha con trở lại. Tuy nhiên, dường như mọi người càng cố gắng bao nhiêu thì khoảng cách tình cảm giữa anh Sáu và đứa con gái duy nhất càng xa cách bấy nhiêu. Mâu thuẫn của câu chuyện cứ tăng dần. Người cha chỉ mong sao có được một tiếng gọi “ba”, nhưng con bé chẳng bao giờ chịu gọi. Nghe mẹ giục gọi ba thì nó bảo: Thì má cứ kêu đi”, khi bắt buộc phải gọi thì sự đáp lại của con bé là những lòi trông không tức tưởi: “Vô ăn cơm”, “Cơm chín rồi”, “Con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” phát ra từ miệng của một đứa bé bảy, tám tuổi gọi cha của mình mà Nguyễn Quang Sáng dùng rất đúng chỗ đã không ít lần làm người đọc phải buông tiếng thở dài buồn bã. Bị dồn vào tình thế khó khăn, mọi người hi vọng quan hệ từ phía người con sẽ được cải thiện. Song tình huống này, thêm một lần nữa lại đẩy mâu thuẫn của câu chuyện lên cao. Cái tài của người cầm bút cũng thêm một lần được thể hiện, đó là sáng tạo ra một tình huống thật độc đáo cho tính cách phô diễn. Lối khắc hoạ tính cách nhân vật tuy không mới, nhưng đã lôi cuốn người đọc vào thế giới câu chuyện rất tự nhiên và giàu cảm xúc. Bé Thu bị đặt vào một hoàn cảnh khó khăn, nồi cơm hơi to so với đứa bé bảy, tám tuổi lại đang sôi. Đe hoàn thành nhiệm vụ mà mẹ giao không thể không cầu cứu người trợ giúp. Kịch tính được đẩy dần lên, nhưng vẫn những câu nói “trổng” (nói trống không) của con bé: - “Cơm sồi rồi, chắt nước giùm cái! - Cơm sôi rồi, nhão bây giò!”. Hình ảnh bé Thu lúc này thật tội nghiệp “nhìn xuống, hơi sợ, lại nhìn lên... nhăn nhó muốn khóc... luýnh quýnh... loay hoay”. Và thật bất ngờ, Thu “đáo để” tự mình giải quyết mâu thuẫn “lấy cái vá múc ra từng vá nước, miệng lẩm bẩm điều gì không rõ”. Tình cha con mỗi lúc như một xa. Điểm nhấn cuối cùng của mâu thuẫn là bữa ăn. Một bên là ngươi cha “gắp một cái trứng cá to vàng để vào chén” cho con; một bên là người con “lấy đũa soi vào chén... bất thần hất cái trứng ra, cơm văng tung toé cả mâm”. Đây chính là giọt nước tràn li, anh Sáu “vung tay đánh” con, còn Thu, cô bé “cứng đầu” không khóc mà “ngồi im, đầu cúi gằm xuống... cầm đũa, gắp lại cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm” sang bên nhà ngoại “dỗ mãi cũng không về”. Mâu thuẫn của câu chuyện không thể đẩy cao hơn được nữa. Là người trong cuộc anh Sáu tưởng như không còn hi vọng có được tình cha con trong lần về thăm nhà ngắn ngủi này. Nhưng không, người xưa từng nói “phụ tử tình thâm”, người đọc không thể mất hi vọng, anh Sáu cũng có quyền hi vọng. Và tình cha con của anh trở lại đúng vào thời khắc ngắn ngủi nhất, đem lại cho người đọc nỗi xúc động nghẹn ngào nhất. Bé Thu cũng có mặt trong buổi đưa tiễn, nhưng lại mang tâm trạng hoàn toàn khác “không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu” và cái nhìn cũng khác “đôi mắt nó như to hơn, cái nhìn của nó không ngơ ngác, không lạ lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”. Người đọc nhận thấy thái độ, tình cảm của bé Thu đã biến chuyển trong ánh mắt “xôn xao” của con bé qua nhãn quan và cách miêu tả tinh tế của người viết truyện. Nỗi khát khao tình cha con bấy lâu nay bị kìm nén trong bé Thu nay bỗng bật lên. Bắt đầu là tiếng thét gọi “Ba... a... a... ba!”, rồi “nó vừa kêu vừa chạy xô tối... dang tay ông chặt lấy cổ cha nó”, “nó nói trong tiếng khó. - Ba! Không cho ba đi nữa, ba ở nhà với con!”, “nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”. Tất cả hành động của bé Thu thật gấp gáp, dồn dập trái hẳn vối những gì chúng ta chứng kiến ỏ đầu câu chuyện.
Tình cảm cha con anh Sáu không hề mất đi dẫu có bị chiến tranh làm tổn thương, trái lại nó sẽ còn làm xúc động bao trái tim người đọc. Ai đã từng một lần đọc Chiếc lược ngà không thể không xúc động rơi nước mắt như những người chứng kiến buổi chia li sáng hôm ấy. Tất cả mọi người đều không ngờ tới đó là lần gặp nhau cuối cùng, là buổi chia xa mãi mãi của cha con anh Sáu. Nhưng “Cây lược ngà”, kỉ vật anh Sáu đã dành bao tâm sức, chất chứa bao tâm sự với con thì cuối cùng đã trở về với đứa con gái yêu dấu theo đúng lòi hẹn ước. Đó cũng là một minh chứng hùng hồn cho tình cha con bất tử.
Thời gian rồi trôi đi, bé Thu ngày nào đã trở thành một cô giao liên dũng cảm, tiếp tục con đường cách mạng của ba mình. Câu chuyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng đã kết thúc mà nỗi ám ảnh của nó về bi kịch một thòi chiến tranh, dư âm của nó về tình cha con bất tử vẫn còn làm thổn thức bao trái tim người đọc. Hiểu được như vậy là chúng ta đã tri ân người cầm bút đã có công sáng tạo ra nó, góp thêm một tiếng nói khăng định: vượt qua bi kịch, phụ tử bao giờ cũng tình thâm.
Đây là bài văn mà cô giáo mình đã giúp mình sửa lại từng đoạn văn, bạn tham khảo nhé
 

Vi Thị Khánh Hà

Học sinh chăm học
Thành viên
1 Tháng năm 2017
358
446
96
19
xã Cam Thành Bắc huyện Cam Lâm
Truyện 'chiếc lược ngà' được nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết nằm 1966, tại chiến trường nam bộ trong khi cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân ta đang diễn ra ác liệt. Câu chuyện đã mang lại cho người đọc nhiều cảm xúc về tình cho con của ông Sáu với bé Thu. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc và xây dựng tình huống bất ngờ, để thể hiện một cách cảm động tình cha con của ông Sáu với bé Thu.
Sau tám năm xa cách nhà và gia đình ông Sáu trở về từ trong niềm vui, niềm hạnh phúc, đặc biết hơn đó là sự thương nhớ con gái đầu lòng của mình. Lúc xuồng chưa cập bến, ông đã nhìn tháy mọt đứa bé tầm tám tuôi và trực giác của ông đã mách bảo ông rằng đó chính là đứa con gái bé bỏng mà ông thương nhớ nó bấy lâu nay. Niềm vui, niềm hạnh phúc của ông như được nhân đôi khi nhìn thấy nó cùng với những cử chỉ: nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra, bước vội vàng những bước dài. Giọng ông run run: 'ba đây con'. Ông nghĩ rằng đứa con cũng dẽ hạnh phúc khi nhìn thấy ông và sẽ chạy đến ôm hôn ông. nhưng thật trớ trêu, đáp lại sự vui mừng của ông là một gương mặt tái đi vì sợ của Bé Thu, nó vụt chạy và kêu thét lên gọi mẹ. Trước hành động đó củ nó làm tim ông rất đau, có thể đây chính là nỗi đau lớn nhát trong cuộc đời của ông. Mặt ông lúc này sầm lại trong thật đáng thương, hai cánh tay dơ lên để ôm đứa con bé bỏng của mình giờ thì buông thõng xuống như bị gãy.
Ông thất vọng và rất buồn nhưng ông không nản lòng để lấy được tình cảm của bé Thu. Trong ba ngày ở nhà ông đã hết mực dỗ dành vỗ về nó, nhưng ông càng gần gũi nó thì nó lại càng tránh xa ông và nó nhất quyết không chịu gọi ông là 'cha'. và rồi trong một bữa cơm nó đã hất miếng trứng cá ra khỏi bát mà ông đã gắp cho nó, ông tức quá nên đã đánh nó, nó bỏ chạy sang nhà bà ngoại ở. Tình yêu cha của bé Thu rất mạnh mẽ và cá tính, nó chỉ gọi ba, yêu ba khi xác nhận đó chính là ba ruột của nó. Vì thế những hành động của bé Thu không đáng trách mà đáng thương. Chính vì sự xa cách tám năm trời mà nó đã thiếu đi sự quan tâm sự yêu thương của một người cha. Nó không nhận ra ba nó vì cũng do không ai kịp chuẩn bị cho nó về sự thay đổi bất thường trên khuôn mặt của ông Sáu. Nhưng khi được bà ngoại giải thích thì nó cũng đã hiểu ra mọi chuyện và cũng là lúc hai cha con nó phải chia tay.
Trong buổi sáng cuối cùng ấy trước lúc ba nó đi, bao nhiêu sự yêu thương dành cho ba nó được thể hiện qua tiếng thét lớn 'ba', đối với nó, tiếng 'ba' ấy đã vỡ ra từ sâu thẳm trong lòng nó, cí tiếng mà nó đã kìm nén trong nhiều năm nay, chờ đợi và mong mỏi. Cái tiếng ấy được cất lên khiến mọi người hiểu rằng nó thèm được gọ ba như thế nào. Đó chính là tiếng nói của tình yêu thương ruột thịt, thiêng liên và quí giá vô cùng. Tiếp đến là những cử chỉ của nó, nó đã chạy lại ôm hôn ba nó, hai chân thì quắt lấy người củ ông Sáu, đôi vai bé nhỏ của nó đang run lên tình yêu cha của nó đã đáng thắng lại được cả sự sợ hãi. Trước những hành đọng này của nó thì ông Sáu vô cùng bất ngờ và cảm thấy lúc này mình là người hạnh phúc nhất trên đời. Nhưng thời gian thật ngắn ngủi không cho bé Thu được ở bên ông nữa. Đâu ai biết được đây chính là lần cuối cùng ông Sáu có mặt ở nhà, lần cuối cùng ông được ôm hôn đứa con gái yêu quí của mình. Đã đến giờ ông Sáu phải chia tay cái gia đình bé nhỏ của mình, bé Thu một mực không cho ông đi. Tình yêu thương của bé dành cho ông giờ là cao cả nhất, nó chỉ cần ba nó luôn ở cạnh nó và yêu thương nó. Khi đi ông Sáu đã hứa sẽ làm cho nó một chiếc lược ngà để tặng nó.
Ở khu căn cứ ông Sáu sống trong tâm trạng nhớ thương xen kẽ sự day dứt, ân hận vì đã trót đánh mắng con gái. Ông đã dốc hết tình yêu con, thương nhớ con vào việc làm chiếc lược ngà. Ông đã tỉ mỉ, kiên nhẫn, khéo léo như một người thợ chế tái khúc ngà voi thành một chiếc lược ngà xinh xắn. Chiếc lược ngà đã thành một vật quí giá, thiêng liêng với ông Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm nhớ thương của người cha đối với đứa con xa cách. Nhưng thật trớ trêu, ông Sáu chưa kịp trao cây lược ngà đến tận tay cho bé Thu thì ông đã hi sinh, không còn đủ sức trăn trối điều gì và ông chỉ biết đưa chiếc lực cho người bạn của mình để tra lại cho bé Thu. Ông Sáu chỉ nhắm mắt khi nào chiếc lược được đưa tận tay bé Thu. Một cảm xúc đang dâng trào lên trong lòng người đọc. Tại sao tình cha con đẹp như vậy, cao cả như vậy mà lại chỉ dừng ở đây thôi. Họ còn bao nhiêu việc phải làm với nhau. Bé Thu thì vẫn chưa thể hiện hết được tình yêu của mình với ông. Tai sao cuộc đời lại trớ trêu đến vậy. Tình cho con đẹp và thiêng liêng như vậy mà không bao giờ như ý muốn của mỗi người.
Chiếc lược ngà, là một câu chuyện vô cùng cảm động làm người đọc phải rơi nước mắt. Tình cha con thiêng liên đẹp đẽ như vậy mà phải dừng ở đây thôi sao? có lẽ không phải như vậy dù ông Sáu không còn trên đời nữa nhưng chiếc lược ngà là món quà đầu tiên và cũng là cuối cùng ông tặng nó sẽ làm xoa dịu nỗi đau khi mất ba của nó. và tình yêu thương đó mãi mãi tồn tại trong lòng bé Thu và với cả ông Sáu ở nơi yên nghỉ.
 
Top Bottom