Sử 10 [Chia sẻ]Học Các quốc gia cổ đại qua THƠ

D

diendan.thcs

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Xưa nay việc học lịch sử qua thơ và cùng với nó, việc trình bày các sự kiện, tri thức lịch sử dưới dạng văn vần là điều không phải hiếm hoi. Thời phong kiến đã có bộ Đại Nam quốc sử diễn ca dưới triều Nguyễn. Bác Hồ cũng từng diễn thơ những trang sử nước nhà để "Dân ta phải biết sử ta - Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam".
Nhưng đó đã là câu chuyện của thế kỉ trước. Bước sang những năm đầu thế kỉ XXI, môn Sử trong nhà trường ít được học sinh quan tâm, yêu thích. Một phần cũng vì cách truyền thụ, giảng dạy còn cứng nhắc, tri thức lịch sử trong sách giáo khoa trình bày khô khan. Trước tình trạng đó, đã có một nhà giáo, nhà thơ muốn dạy cháu mình những trang sử cha ông mà không bị lệ thuộc vào sách vở, đã bỏ công "thơ hóa" lịch sử, trình bày những câu chuyện lịch sử dưới dạng thơ 5 chữ (gần gũi với những bài đồng dao bình dị, dễ thuộc, dễ nhớ). Ấy là nhà giáo/nhà thơ Thái Bá Tân.

Mời các em cùng ngâm nga một đoạn trong phần viết về Các quốc gia cổ đại nhé.

CÁC QUỐC GIA CỔ ĐẠI


Vào cuối thời nguyên thủy,
Cư dân sống rất đông
Ở những vùng đất lớn
Dọc theo các dòng sông,

Như sông Nin Ai Cập,
Sông Dương Tử, Trường Giang,
Trung Hoa thời cổ đại.
Ở Ấn Độ - sông Hằng.

Ti-grơ, Ơ-phơ-rat,
Hai sông nặng phù sa,
Ở khu vực Tây Á,
Còn gọi là Lưỡng Hà.

Nhờ nông cụ cải tiến,
Đất rộng và phì nhiêu,
Nông nghiệp phát triển mạnh,
Năng suất cao hơn nhiều.

Đặc biệt là lúa gạo,
Cả khoai sắn, rau, dưa.
Chăn nuôi cũng phát triển,
Đã có phần dư thừa.

Vậy là có chiếm hữu -
Có người không đủ ăn,
Có người thành giàu có,
Giai cấp hình thành dần.

Năm nghìn năm về trước,
Lần đầu tiên, quốc gia
Hình thành ở Ai Cập,
Trung Quốc và Lưỡng Hà.

Ở các quốc gia ấy
Dân sống bằng nghề nông,
Nhưng họ không có ruộng,
Chỉ là người làm công.

Sau mỗi mùa thu hoạch
Họ phải nộp, trung bình,
Một phần ba sản phẩm
Cho chúa đất của mình.

Ngoài ra phải lao dịch,
Tức là làm không công
Cho nhà giàu, quí tộc,
Và cho cả cộng đồng.

Bọn nhà giàu, quí tộc
Không làm việc chân tay,
Vì có người hầu hạ
Suốt cả đêm lẫn ngày.

Đó là các nô lệ,
Vốn là những tù binh,
Những người nghèo bị ép
Bán sức để nuôi mình.

Đứng đầu lớp quí tộc
Có ông vua, ông này
Nắm hết mọi quyền lực
Trong mọi việc hàng ngày.

Hơn thế, vua tự nhận
Là thánh thần, hơn người.
Trung Quốc là Thiên Tử,
Nôm na là con trời.

Còn ở nước Ai Cập
Vua là Pha-ra-ông,
Tức là “ngôi nhà lớn”.
Các cháu thấy kỳ không?

Để giúp việc vua ấy,
Một bộ máy chính quyền
Do quí tộc nắm giữ,
Suốt từ dưới lên trên.

Chúng bắt dân đóng thuế,
Bắt đi lính, bắt phu,
Xây cung điện, ai chống
Sẽ bị giết, bỏ tù…

*
Vậy là ông đã nói
Ngắn gọn trong mấy dòng
Về ba quốc gia cổ,
Tất cả đều Phương Đông.

Giờ các cháu nghe tiếp
Về hai nước Phương Tây,
Rô-ma và Hy Lạp,
Được hình thành thế này.

Có hai bán đảo nhỏ
Ở miền Nam châu Âu,
Nhô ra Địa Trung Hải.
Ở nơi ấy, từ lâu,
Hơn ba nghìn năm trước
Hình thành hai quốc gia,
Là Hy Lạp cổ đại
Và nhà nước Rô-ma.

Đất ở đây không tốt
Như các nước Phương Đông,
Nên người dân buộc phải
Tìm giống và chọn trồng

Nhiều cây lưu niên phụ,
Như ô-liu và nho.
Chúng không cần nhiều nước,
Nhưng quả mọng và to.

Đặc biệt hai nước ấy
Không chỉ giỏi nghề nông,
Còn giỏi nghề làm rượu
Và nhiều nghề thủ công,

Như nghề luyện kim loại
Làm công cụ, nữ trang,
Nghề thủy tinh, gốm sứ,
Cả nghề tìm, đãi vàng.

Rô-ma và Hy Lạp
Có nhiều cảng nước sâu,
Nên buôn bán phát triển,
Tấp nập thuyền và tàu.

Xã hội hai nước ấy
Gồm có hai loại người -
Chủ nô và nô lệ.
Tỉ lệ một trên mười.

Nô lệ phải làm việc
“Như nô lệ”, tất nhiên.
Bị coi như súc vật,
Không cơm áo, gạo tiền.

Chủ nô, tức quí tộc,
Lại sung sướng cực kỳ.
Chỉ ăn chơi, nhảy múa,
Không động tay làm gì.

Nô lệ đã khởi nghĩa
Rất nhiều lần ở đây,
Vì họ không cam chịu
Cuộc sống bất công này.

Vào buổi bình minh ấy,
Các quốc gia cổ xưa
Đạt được những thành tựu,
Cũng không phải loại vừa.

Trung Quốc có âm lịch,
Mười hai tháng một năm.
Ba mươi ngày một tháng,
Tính toán cả ngày rằm.

Họ có đồng hồ nước,
Đồng hồ cát để bàn
Để đo và tính toán
Giờ giấc và thời gian.

Người Phương Đông thời cổ
Nghĩ ra chữ tượng hình
Để ghi lại cảm nghĩ
Và văn hóa của mình.

Trong lĩnh vực toán học,
Người Lưỡng Hà là người
Nghĩ ra các con số
Từ một cho đến mười.

Những con số đơn giản
Các cháu dùng ngày nay.
Đơn giản như khi đếm
Mười ngón trên hai tay.

Trong khi người Ai Cập
Lại tìm ra số Pi,
Vì họ giỏi Hình Học,
Chính xác đến lạ kỳ.

Trong lĩnh vực xây dựng,
Họ để lại cho ta
Rất nhiều Kim Tự Tháp,
Thành quách ở Lưỡng Hà.

Người Rô-ma, Hy Lạp
Vào thời ấy mịt mùng
Đã có bảng chữ cái
Nay nhiều nước vẫn dùng.

Trong lĩnh vực khoa học,
Như Toán, Sử, thơ văn,
Vật Lý, Triết, Hình Học,
Điêu Khắc, Địa, vân vân,

Xuất hiện nhiều tên tuổi
Có thể gọi khổng lồ -
Pla-tông, A-si-met,
Ta-let, Pi-ta-go…

Trong lĩnh vực xây dựng
Và kiến trúc ở đây,
Nhiều công trình đồ sộ
Tồn tại đến ngày nay.

Ông đã chiêm ngưỡng chúng -
Đấu trường Cô-li-dê
Ở Rô-ma cổ kính.
Không tin à? Ông thề.

Ông còn đến Hy Lạp,
Thăm đền Pac-tê-nông.
To, đẹp, hoành tráng lắm.
Sao, lại không tin ông?

Mai sau các cháu lớn,
Cứ đến những nơi này,
Ngắm chúng và hãy nhớ
Lời ông nói hôm nay.

Các cháu mệt chưa nhỉ?
Chưa à? Có gì đâu.
Học lịch sử thích lắm,
Như ông nói từ đầu.
.........................



Nếu quan tâm, các em có thể tham khảo thêm tại đây nhé: http://thaibatan.com/index.php?option=com_content&task=category&sectionid=7&id=17&Itemid=33


Thân ái
 
  • Love
Reactions: Dương Phạm 106
T

thuydung97

hay tuyệt!giá mà bài lịch sử nào mà cũng được phổ thơ như thế này thì Lịch sử sẽ trở thành một môn học rất thú vị.
 
R

rancanheo

hay tuyệt!giá mà bài lịch sử nào mà cũng được phổ thơ như thế này thì Lịch sử sẽ trở thành một môn học rất thú vị.

Spam tý nhé! Mình chia sẻ cho bạn một bài thơ của Bác Hồ này!
TÓM TẮT LỊCH SỬ VIỆT NAM BẰNG THƠ CỦA BÁC HỒ

Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam
Kể năm hơn bốn nghìn năm
Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hoà

Hồng Bàng là Tổ nước ta
Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang
Thiếu niên ta rất vẻ vang
Trẻ con Phù Đổng tiếng vang muôn đời,
Tuổi tuy chưa đến chín mười
Ra tay cứu nước dẹp loài vô lương.
An Dương Vương thế Hùng Vương,
Quốc danh Âu Lạc cầm quyền trị dân.

Nước tàu cậy thế đông người,
Kéo quân áp bức giống nòi Việt Nam,
Quân Tàu nhiều kẻ tham lam.
Dân ta há dễ chịu làm tôi ngươi?

Hai Bà Trưng có đại tài
Phất cờ khởi nghĩa giết người tà gian,
Ra tay khôi phục giang san,
Tiếng thơm dài tạc đá vàng nước ta.

Tỉnh Thanh Hoá có một bà,
Tên là Triệu Ẩu tuổi vừa đôi mươi,
Tài năng dũng cảm hơn người,
Khởi binh cứu nước muôn đời lưu phương.
Phụ nữ ta chẳng tầm thường,
Đánh Đông, dẹp Bắc làm gương để đời,

Kể gần sáu trăm năm giời,
Ta không đoàn kết bị người tính thôn
Anh hùng thay ông Lý Bôn,
Tài kiêm văn võ, sức hơn muôn người,
Đánh Tàu đuổi sạch ra ngoài.
Lập nên triều Lý sáu mươi năm liền.
Vì Lý Phật Tử ngu hèn,
Để cho Tàu lại xâm quyền nước ta.

Thương dân cực khổ xót xa,
Ông Mai Hắc Đế đứng ra đánh Tàu,
Vì dân đoàn kết chưa sâu,
Cho nên thất bại trước sau mấy lần.

Ngô Quyền quê ở Đường Lâm,
Cứu dân ra khỏi cát lầm ngàn năm.
Đến hồi Thập nhị sứ quân
Bốn phương loạn lạc, muôn dân cơ hàn.

Động Hoa Lư có Tiên Hoàng,
Nổi lên gây dựng triều đàng họ Đinh.
Ra tài kiến thiết kinh dinh,
Đến vua Phế Đế chỉ kinh hai đời.

Lê Đại Hành nối lên ngôi.
Đánh tan quân Tống, đuổi lui Xiêm Thành
Vì con bạo ngược hoành hành,
Ra đời thì đã tan tành nghiệp vương.

Công Uẩn là kẻ phi thường,
Dựng lên nhà Lý cầm quyền nước ta.
Mở mang văn hoá nước nhà,
Đắp đê để giữ ruộng nhà cho dân.

Lý Thường Kiệt là hiền thần,
Đuổi quân nhà Tống, phá quân Xiêm Thành.
Tuổi già phỉ chí công danh,
Mà lòng yêu nước trung thành không phai.

Họ Lý truyền được chín đời,
Hai trăm mười sáu năm giời thì tan.

Nhà Trần thống trị giang san,
Trị yên trong nước, đánh tan địch ngoài,

Quân Nguyên binh giỏi tướng tài:
Đánh đâu được đấy, dông dài Á, Âu,
Tung hoành chiếm nửa Âu châu,
Chiếm Cao Ly, lấy nước Tàu bao la,

Lăm le muốn chiếm nước ta,
Năm mươi vạn lính vượt qua biên thuỳ,
Hải quân theo bể kéo đi,
Hai đường vây kín BẮc Kỳ như nêm

Dân ta nào có chịu hèn,
Đồng tâm, hợp lực mấy phen đuổi Tàu.
Ông Trần Hưng Đạo cầm đầu,
Dùng mưu du kích đánh Tàu tan hoang,

Mênh mông một giải Bạch Đằng,
Nghìn thu soi rạng giống dòng quang vinh,
Hai lần đại phá Nguyên binh,
Làm cho Tàu phải thất kinh rụng rời.

Quốc Toản là trẻ có tài,
Mới mười sáu tuổi ra oai trận tiền,
Mấy lần đánh thắng quân Nguyên
Được phong làm tướng cầm quyền binh nhung
Thật là một đấng anh hùng,
Trẻ con Nam Việt nên cùng noi theo.

Đời Trần văn giỏi võ nhiều,
Ngoài dân thịnh vượng, trong triều hiền minh.
Mười hai đời được hiển vinh,
Đến Trần Phế Đế nước mình suy vi.

Cho con nhà Hồ Quý Ly,
Giết vua tiếm vị một kỳ bảy niên.
Tình hình trong nước không yên,
Tàu qua xâm chiếm giữ quyền mấy lâu,
Bao nhiêu của cải trân châu,
Chúng vơ vét chở về Tàu sạch trơn.

Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn,
Mặc dầu tướng ít binh đơn không nàn.
Mấy phen sông Nhị núi Lam,
Thanh gươm yên ngựa Bắc, Nam ngang tàng.
Kìa Tuý Động nọ Chi Lăng,
Đánh hai mươi vạn quân Minh tan tành.
Mười năm sự nghiệp hoàn thành,
Nước ta thoát khỏi cái vành nguy nan.

Vì dân hăng hái kết đoàn,
Nên khôi phục chóng giang san Lạc Hồng.
Vua hiền có Lê Thánh Tôn,
Mở mang bờ cõi đã khôn lại lành.
Trăm năm truyền đến cung hoàng,

Mạc Đăng Dung đã hoành hành chiếm ngôi
Bấy giờ trong nước lôi thôi,
Lê Nam, Mạc Bắc rạch đôi san hà,
Bảy mươi năm nạn can qua
Cuối đời mười sáu Mạc đà suy vi.

Từ đời mười sáu trở đi,
Vua Lê, Chúa Trịnh chia vì khá lâu
Nguyễn Nam, Trịnh Bắc đánh nhau,
Thấy dân cực khổ mà đau đớn lòng.

Dân gian có kẻ anh hùng,
Anh em Nguyễn Nhạc nổi vùng Tây Sơn,
Đóng đô ở đất Quy Nhơn,
Đánh tan Trịnh, Nguyễn, cứu đảo huyền
Nhà Lê cũng bị mất quyền,
Ba trăm sáu chục năm truyền vị vưong.

Nguyễn Huệ là kẻ phi thường,
Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc Tàu,
Ông đà chí cả mưu cao,
Dân ta lại biết cùng nhau một lòng.
Cho nên Tàu dẫu làm hung,
Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà.

Tướng Tây Sơn có một bà,
Bùi là nguyên họ, tên là Thị Xuân,
Tay bà thống đốc ba quân,
Đánh hơn mấy trận, địch nhân liệt là.

Gia Long lại dấy can qua,
Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài.
Tự mình đã chẳng có tài,
Nhờ Tây qua cứu tính bài giải vây.
Nay ta mất nước thế này,
Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà,
Khác gì cõng rắn cắn gà,
Rước voi dẫy mả, thiệt là ngu si.

Từ năm Tân Hợi trở đi,
Tây đà gây chuyện thị phi với mình.
Vậy mà vua chúa triều đình,
Khư khư cứ tưởng là mình khôn ngoan.
Nay ta nước mất nhà tan
Cũng vì những lũ vua quan ngu hèn.

Năm Tự Đức thập nhất niên
Nam Kỳ đã lọt dưới quyền giặc Tây.
Hăm lăm năm sau trận này,
Trung kỳ cũng mất, Bắc kỳ cũng tan,
 
  • Love
Reactions: Dương Phạm 106
Top Bottom