"Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ tài hoa" (Nguyễn Minh Châu). Toàn bộ cuộc đời cũng như gần 5000 trang viết của ông đã tạo nên một "huyền sử" - huyền sử của một người ưu lối chơi "độc tấu". Cung đàn văn chương Nguyễn Tuân được viết trên cùng một khuông nhạc nhưng với thanh âm trầm bổng khác nhau của các nốt nhạc. Phong cách Nguyễn Tuân vì vậy mà có sức hấp dẫn người đọc. Những nét thống nhất và khác biệt ấy thể hiện rõ qua hai tác phẩm "Chữ người tử tù" (1939) và "Người lái đò sông Đà" (1960).
Sau nhiều lần đến với Tây Bắc đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958 tại nơi đây Nguyễn Tuân đã viết tập tuỳ bút "Sông Đà". "Người lái đò sông Đà" được coi là một trong những tác phẩm thành công xuất sắc nhất của tập tuỳ bút này. Với khát khao truy tìm "chất vàng mười của tâm hồn vùng Tây Bắc" - "thứ vàng mười đã được thử lửa" (Đi mở đường), Nguyễn Tuân đã viết lên bài ca cuộc sống của con người và thiên nhiên Tây Bắc với nhiều nét độc sáng mới lạ.
Những nhà văn lớn phải là những nhà phong cách lớn. Sinh thời Nguyễn từng ao ước khi chết đi sẽ mang theo nguyên cảo của mình và không để lại bất cứ bản sao nào khác trên cuộc đời. Có lẽ, cái Nguyễn Tuân sợ mất đi nhất chính là phong cách, cá tính của mình. Phong cách nghệ thuật chính là diện mạo thẩm mĩ độc đáo, riêng biệt của nhà văn trong cách sáng tác, được tạo thành bởi sự thống nhất của các phương tiện biểu hiện, phù hợp với cái nhìn riêng biệt của nhà văn về đời sống. Phong cách nghệ thuật được hình thành nhờ sự lặp đi lặp lại một số yếu tố thuộc phạm trù nội dung và hình thức một cách có thẩm mĩ, xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của tác giả. Đặc trưng nhất quán đầu tiên của phong cách nghệ thuật là tính thống nhất, ổn định, bền vững. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân không nằm ngoài đặc điểm này.
Nhìn lại toàn bộ sự nghiệp văn học Nguyễn Tuân, ta thấy các sáng tác của ông hướng tới nhiều chủ đề khác nhau: ca ngợi truyền thống văn hoá, phong cảnh đất nước, cách mạng,… những đề tài này được triển khai ở nhiều thể loại như truyện ngắn, tuỳ bút, ký, tiểu luận… Văn ông có thể viết trong nhiều hoàn cảnh khác nhau: những chuyến đi phiêu bạt để "thay đổi thực đơn cho các giác quan", trong một xóm cô đầu, một con thuyền trên sông hương… Còn sau cách mạng, ông viết trong những chuyến đi thực tế lên Tây Bắc, khi hành quân cùng bộ đội lên Việt Bắc… thế nhưng ta vẫn tìm thấy trong những sáng tác ấy có một cốt cách chung. Trước hết, ta thấy một Nguyễn Tuân luôn say mê truy tìm vẻ đẹp độc đáo của con người và cuộc sống.
Trong "Chữ người tử tù", Nguyễn viết về một thời đã xa nhưng còn vang bóng. Ông trân trọng, nâng nịu và giữ gìn, làm sống dậy trong lòng người đọc một thú chơi tao nhã của người xưa: Thú chơi chữ. Khi hiện thực bấy giờ với những "ông nghè, ông cống cũng nằm co" (Tú Xương). Vũ Đình Liên làm ta rơi nước mắt xót xa trước cảnh ông đồ già bị lãng quên giữa dòng chảy cuộc đời, thì Nguyễn lại cho ta rạo rực sống lại cái thủa hoàng kim, hán học với nghệ thuật thư pháp điêu luyện từng "Vang bóng một thời". Cái thi vị hoài cựu đưa ta về với những mảnh lụa trắng, bút lông, nghiên mực hay câu đối, hoành phi… - cái đẹp thanh khiết của cả người cho chữ và người chơi chữ. Tất cả cuốn người đọc về với hồn dân tộc, với nét đẹp truyền thống ngàn năm còn vang mãi. Một chàng Nguyễn ngông ngạo, ngang tàn, chỉ muốn "ném đá" vào những người xung quanh lại thiết tha với giá trị văn hoá tinh thần của cha ông. Vùng mĩ cảm của Nguyễn Tuân rất riêng cho ta thấy một tấm lòng yêu nước thầm kín, một tinh thần dân tộc có màu sắc độc đáo trong chàng trai kiêu bạc của những năm 30 của thế kỉ 20. "Có thể nói, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc gắn liền với những giá trị văn hoá cổ truyền là tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Tuân, đã tạo nên giá trị chân chính và lâu bền cho các tác phẩm của ông" (Giáo sư: Nguyễn Đăng Mạnh).
Vẫn với lòng đam mê đi tìm vẻ đẹp độc đáo của con người và cuộc sống, đến với sông Đà, Nguyễn Tuân đã thực sự bị cuốn hút bởi sự khác thường của nó:
"Chúng thuỷ giai Đông tẩu
Đà giang độc Bắc lưu"
Nếu sông Đà cứ chảy xuôi dòng như bao con sông khác thì có lẽ sẽ chẳng bao giờ Nguyễn Tuân viết về nó, bởi không có gì đặc biệt thì làm sao có thể hấp dẫn ngòi bút của nhà văn?! Một dòng sông hung bạo và trữ tình, khám phá nó như trèo lên một cái cây đầy gai, nhưng trên ngọn là quả ngọt, không ít khó khăn nhưng cũng đầy thú vị. Nguyễn Tuân đã chọn đúng đối tượng miêu tả để mang lại cho người đọc cảm giác kỳ thú, tò mò khi ở nơi thượng nguồn sông Đà và chợt khoan khoái, yên bình khi về đến hạ lưu. Màu nước sông cũng rất độc đáo tưởng như những chiếc khăn với màu sắc khác nhau mà núi rừng Tây Bắc quàng lên mình mỗi khi chuyển mùa: "Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận giữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về".
Nguyễn Tuân cũng có cách cảm nhận về ngoại hình người lái đò rất độc đáo. Người lái đò ấy dù gần 70 tuổi, nhưng vẫn tráng kiện, có thân hình "cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun" cùng với "cái đầu quắc thước", "đôi cánh tay trẻ tráng"… Nét riêng ấy của ông lái đò đã cho ta một cách cảm nhận về những con người lao động khoẻ khoắn, từng trải nơi rừng núi Tây Bắc. Những vẻ đẹp độc đáo trong văn Nguyễn Tuân đã gây ấn tượng với người đọc ngay từ những trang đầu tiên, là nét phong cách dễ nhận ra nhất của ông.
Một nét đặc sắc nữa trong phong cách Nguyễn Tuân là ông thường miêu tả những cảnh đẹp tuyệt mỹ, tuyệt đích; cái đẹp ấy là sự hội tụ của cái đẹp thi vị trữ tình và vẻ đẹp hoàng tráng dữ dội đến dữ dằn.
Ta bắt gặp một không khí hừng hực lửa cháy và khói trắng trong đêm cho chữ ở nhà tù Tỉnh Sơn (Chữ người tử tù). Đây là ấn tượng của Nguyễn Tuân về một "cảnh tượng xưa nay chưa từng có". Những tưởng sẽ chẳng có cảnh gì đẹp giữa không gian nhà tù u tối, "chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián". Thế nhưng bằng đôi mắt nghệ sĩ, Nguyễn Tuân đã khám phá ra cái đẹp tinh tế, mới mẻ ở chốn "bùn lầy nước đọng" ấy. Không gian nhà tù trở thành nơi cho chữ thiêng liêng, gợi không khí của thời tiền sử với "ánh sáng đỏ rực" của bó đuốc toả sáng đỏ cả không gian, khói toả bốc lên mờ ảo, huyền bí. Ngỡ như sương mờ của chiều hoàng hôn lạnh cháy đỏ trời đã thu hẹp và được Nguyễn Tuân đặt trong không gian này. Một cảnh thơ ảo nhưng cũng rất huyền bí ẩn chứa sức mạnh tiềm tàng.
Đến với "Người lái đò sông Đà" ta cảm thấy "sởn gai ốc" khi Nguyễn Tuân miêu tả thác đá sông Đà. Hai bên bờ sông dựng đứng vách đá như những hùm beo, ăn chẹn lòng sông Đà, gợi lên thế hiểm trở của dòng sông: "Những vách đá bờ sông dựng vách thành (…), có chỗ vách đá thành chẹn lòng sông Đà như một cái yết hầu". Cái dữ dội của nước, hút nước, thác và thạch bàn trận trên sông Đà đã khơi nguồn cảm hứng nghệ thuật cho nhà văn. Nước sông Đà như uẩn ức, oán thán mà thành "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gằn gè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ suýt". Nhà văn tưởng tượng ra cái hút nước sông Đà giống như "cái giếng bê tông (…) nước ở đây thờ và kêu như cái cửa cống bị sặc". Cái đẹp dữ dội, hoành tráng của dòng sông làm người đọc giật mình nhưng không gây cảm giác sợ hãi, rợn ngợp. Thác sông Đà "như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữ rừng vầu, rừng tre nổ lửa, phá tuông rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng". Con sông như đang lồng lộn trong một cơn cuồng phong, giống như một người trong cơn thịnh lộ ghê gớm. Cái mặt dữ dằn của sông Đà còn hiện lên trên gương mặt đá: "Mặt hòn đá nào cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm, méo mó (…) tiu nghỉu xanh lè". Con sông Đà hung bạo như hùm, beo, thuỷ quái đã giúp Nguyễn Tuân tô đậm vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc hùng vĩ uy nghiêm.
Việc tiếp cận con người sự việc từ phương diện thẩm mĩ, từ góc độ của cái đẹp của Nguyễn Tuân đã cho ta thấy một con sông trữ tình, lãng mạn. Dòng sông mơ mộng, huyền ảo bởi cái dáng hình uốn lượn tự nhiên, bởi khung cảnh thi vị hai bên bờ sông. Đây là nét đẹp thứ hai của dòng sông được Nguyễn miêu tả bằng cảm quan của một nhà văn lãng mạn với cái nhìn duy mĩ. Sông Đà gợi cảm khiến nhà văn cảm thấy "vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng, dòng sông đã gợi ra niềm vui ngây thơ con trẻ, đưa ta trở về với giây phút hồn nhiên trong quá khứ của chính mình. Cảnh bờ bãi sông Đà có lẽ đã đẹp đến tận cùng qua ngòi bút miêu tả của Nguyễn Tuân: "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích thuở xưa". Không hiểu sao tôi lại thấy thú vị với cách so sánh vừa trừu tượng, vừa cụ thể này. Sông Đà chính là nơi hội tụ của đất trời, là sợi dây nối giữa thiên nhiên hoang dại của thủa hồng hoang với cảnh vật tươi đẹp, mộng mơ của hiện tại. Nét đẹp mềm mại, trong sáng của sông Đà gợi ra từ những câu văn thướt tha duyên dáng: "Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, bung nở hoa ban, hoa gạo tháng 2 và cuồn cuộn mùi khói núi Mèo đốt nương xuân". Có lẽ đọc đến câu văn này không ít người muốn lên ngay Tây Bắc để chiêm ngưỡng ngay khung cảnh huyền diệu ấy. Cái đẹp của cảnh trời quê hương vẫn luôn là một niềm sáng trong văn Nguyễn Tuân.
Con người trong văn Nguyễn Tuân bao giờ cũng đẹp với vẻ tài hoa nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình. Với Nguyễn Tuân những người bình thường khi thực hiện những công việc bình thường trong phạm vi nghề nghiệp của mình nếu đạt tới một trình độ tinh xảo, nhuần nhuyễn, khéo léo mà người khác khó lòng theo kịp thì được coi là một kẻ tài hoa: "mỹ thuật vốn không có bà con luận lí với thời đại, một thằng ăn cắp cũng trở lên đẹp đẽ khi nó cắt túi người ta rất gọn, rất nhanh". Vì vậy trong "Vang bóng một thời", Nguyễn Tuân không chỉ ca ngợi tài "thả thơ", "đánh thơ", tài ném bút chì… mà còn trân trọng tài viết chữ "rất nhanh rất đẹp" của Huấn Cao - "những nét chữ vuông tươi tắn nói lên cái hoài bão tung hoành của cả một đời con người". Đẹp hơn nữa là cái nhân cách đáng trọng in tâm hồn Huấn Cao. Đó là thiên lương cao đẹp, khí phách hiên ngang không khuất phục quyền uy. Chính vì vậy, đối với quản ngục, xin chữ Huấn Cao không chỉ bởi chữ quý mà còn như vớt được một linh hồn cao khiết giữa chốn trần ai bụi bặm thời bấy giờ. Huấn Cao toả sáng rực rỡ trong ngục tù tăm tối, ông chính là "tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ" và cũng là người muốn trao tấm lụa ấy cho thầy thơ lại, quản ngục. Nếu như Nguyễn để cho cụ ấm mơ ước "chỉ có những người tao nhã cùng một thanh khí mới có thể cùng nhau ngồi bên một ấm trà" (Chén trà in sương sớm) thì đến với Huấn Cao không chỉ muốn mình giữ được thanh khí mà còn muốn những người tốt xung quanh mình không mất đi cái thanh khí. Đó là một con người có cái tâm cao cả, rộng lớn.