Cách viết mở bài

T

thuyhoa17

Mở bài cho việc phân tích một tác phẩm văn xuôi hay thơ thì đều có 3 phần:

- Giới thiệu tác giả.
- Giới thiệu tác phẩm.
- Nêu yêu cầu của đề (tức là đề nói cái gì thì nêu lại cái đó).



Phân loại cụ thể:
1. Đề yêu cầu phân tích một bài thơ hoàn chỉnh (còn văn xuôi thì chắc chắn ko thể có dạng đề này) {vd: Em hãy phân tích bài thơ "Tây Tiến"}.

- Giới thiệu về tác giả: <chú ý nêu những điểm về tác giả càng gần với tác phẩm càng tốt>.

- Giới thiệu về bài thơ: có thể dùng 1 nhận định, hoặc nêu ngắn gọn hoàn cảnh ra đời, hoặc ấn tượng đầu tiên về tác phẩm.

- Yêu cầu của đề: Có thể nói câu là: Tìm hiểu bài thơ, chúng ta sẽ thấy được những điều ý nghĩa khiến chúng ta phần nào phải lắng mình lại để suy ngẫm về nó.

2. Dạng đề phân tích 1 đoạn văn xuôi/đoạn thơ:

- Tương tự như trên sẽ là giới thiệu tác giả, tác phầm.

- Yêu cầu của đề: Nêu vị trí của đoạn văn/ đoạn thơ; nội dung của đoạn văn/ đoạn thơ đó. Trích dẫn đoạn văn/đoạn thơ.

3. Dạng đề từ một đoạn văn/đoạn thơ làm sáng tỏ một điều gì đó.

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

- Yêu cầu của đề: Nêu điều mà ta cần làm sáng tỏ rồi trích dẫn đoạn văn/đoạn thơ đó ra.

4. Phân tích để làm sáng tỏ nhận định:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

- Nêu yêu cầu của đề: tức là viết sao cho ra cái câu mà người ta bỏ trong dấu ngoặc kép (" ")

5. Phân tích 1 nhân vật:

- Giới thiệu tác gải, tác phẩm.

- Nêu yêu cầu của đề: bạn có thể nêu ấn tượng đầu tiên về nhân vật đó, hoặc dẫn bằng nhiều cách khác (có tên nv ở trong là được rồi ^^).

.... Còn các dạng khác, bạn cứ áp dụng như thế rồi làm nhé.

* Chú ý: Mở bài chỉ viết trên 1 đoạn văn. Chưa nêu đc yêu cầu của đề thì chưa được xuống dòng (trừ thi HSG).
Nhớ là nếu có đoạn trích mà người ta cho thì phải trích nó ra. :)
Thơ trên 8 câu thì viết câu đầu rồi "..." rồi viết câu cuối; nếu <= 8 cầu thì viết hết ra luôn.
Đoạn văn thì chấm chấm "..." cũng được. :)

Đó là những kiến thức mà tớ tiếp nhận được từ cố giáo. Có bịa thêm ^^
 
H

hoan1793

Trong thực tế học văn, làm văn, khá nhiều học sinh còn lúng túng khi gặp kiểu bài phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự. Lúng túng này do nhiều nguyên nhân. Có phần do cách đọc và nắm tác phẩm để dẫn chứng khi làm bài. Có phần do chưa thuần thục phương pháp, kĩ năng, chưa biết tìm ra các vấn đề phân tích. Lại có phần bởi chưa thực hiểu mục đích, ý nghĩa của việc mình đang làm. Việc gì cũng thế, khi chưa thật hiểu mục đích công việc thì khó có thể làm tốt, làm một cách có ý thức cao được.
Trong tác phẩm tự sự, nhà văn “nói” qua nhân vật. Nhân vật chính là nơi mang chở nội dung phản ánh, tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, là nơi kí thác quan niệm về con người, về nhân sinh của nhà văn. Bởi thế, phân tích nhân vật trở thành con đường quan trọng nhất để đi đến giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo của tác phẩm, để nhận ra lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Một nhân vật văn học lớn bao giờ cũng thể hiện một số phận, một quan niệm nhân sinh độc đáo và thường điển hình cho một tầng lớp xã hội, một giai cấp, thậm chí một thời đại nào đó.
Không phải không còn những người chưa hiểu thật đầy đủ rằng nhân vật trong tác phẩm văn học là “con đẻ”, là sản phẩm sáng tạo của một nhà văn nhất định. Nó là kết quả của một quá trình khám phá, chiêm nghiệm. Nó là sản phẩm từ sự tổng hợp, nhào nặn. Cũng do thế, nhân vật mang dấu ấn của cá nhân sáng tạo ra nó. Không ít người còn đối chiếu máy móc nhân vật với hiện thực lịch sử, với sự thực cuộc đời để đánh giá đúng, sai, hay, dở mà quên đi một sự thực khác: nhân vật có thể mang màu sắc “siêu thực”, có thể đi lối riêng theo cách dẫn dắt, theo ý đồ và bút pháp nghệ thuật của nhà văn. Phân tích nhân vật còn để nhận ra tài năng, đặc điểm bút pháp của nhà văn, để thêm thú vị khi thưởng hức một giá trị thẩm mĩ.
Việc phân tích một nhân vật cần được soi tỏ dưới các ánh sáng trên. Khi phân tích một nhân vật phải vươn lên khái quát được các giá trị trên. Nhắc lại mấy điều này, chúng tôi xin lưu ý các bạn hai nhược điểm mà không ít người phân tích nhân vật thường mắc phải:

Thứ nhất, biến bài phân tích nhân vật thành một bài miêu tả, ca ngợi một con người nào đó ngoài đời (nhất là khi phân tích loại nhân vật chính diện có các phẩm chất, vẻ đẹp cao quí). Quá trình phân tích một nhân vật văn học cần gắn với sự cảm thụ, đánh giá bút pháp nghệ thuật miêu tả của nhà văn. Chữ phân tích ở đây không nên hiểu chỉ là một thao tác nghị luận (chỉ ra các đặc điểm của nhân vật) mà bao hàm cả sự nhận xét, đánh giá bằng cảm thụ, suy nghĩ của mình.
Tứ hai, bài phân tích nhân vật chỉ dừng ở cấp độ cụ thể mà không nâng lên tầm khái quát để rút ra tư tưởng, quan niệm của nhà văn. Nên nhớ rằng khi xây dựng một nhân vật (nhất là nhân vật chính) bao giờ nhà văn cũng muốn gửi gắm qua đó một cách nhìn nhận về xã hội, một quan niệm nhân sinh. Nếu phân tích nhân vật mà chỉ dừng ở nhân vật nghĩa là chưa ý thức được vị trí của nhân vật ấy trong chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
Bây giờ chúng ta cùng nhau xác định phân tích nhân vật là phân tích những gì.
Một nhân vật văn học thành công cũng như một con người sinh động ngoài đời vậy. Đó là “con người này” trong sự phân biệt với con người khác. Nó có tính cách riêng, số phận riêng không thể lẫn. Bởi thế, suy cho cùng, phân tích một nhân vật làm sáng tỏ một tính cách, một số phận. Song vấn đề là nhà văn không trực tiếp bước vào tác phẩm mà nói lên điều ấy. Tính cách, số phận nhân vật hiện lên sinh động trong tác phẩm qua nhiều phương diện cụ thể. Đó chính là những phương diện người đọc, người phân tích cần lưu ý.
3.1. Lai lịch
Đây là phương diện đầu tiên góp phần hình thành đặc điểm tính cách, chi phối con đường đời của nhân vật cũng như mục đầu tiên ta thường khai trong bản “Sơ yếu lí lịch” là thành phần xuất thân, hoàn cảnh gia đình vậy. Hoàn cảnh mồ côi từ nhỏ, hành vi vô giáo dục khi ở với người bác họ (để rồi bị đuổi ra khỏi nhà) cùng những thành tích bất hảo trong cuộc sống lang thang hè đường xó chợ của Xuân Tóc Đỏ đã góp phần tạo nên tính cách lưu manh, láu lỉnh của y sau này (Số đỏ – Vũ Trọng Phụng). Ngay từ khi được sinh ra đã bị vứt khỏi lề cuộc sống, được người ta nhặt về nuôi rồi hết đi ở cho nhà này sang nhà khác, không bà con thân thích, không thước đất cắm dùi – hoàn cảnh xuất thân ấy là một nguyên nhân tạo nên số phận cô độc thê thảm của Chí Phèo (Chí Phèo – Nam Cao). Vốn xuất thân từ tầng lớp trên, quen hưởng cuộc sống giàu sang, lại ít có dịp gần gũi với quần chúng lao động nên văn sĩ Hoàng (Đôi mắt – Nam Cao) dễ có cái nhìn đen tối, khinh miệt đối với người nông dân kháng chiến. Tính cách nhân vật được lí giải một phần bởi thành phần xuất thân, hoàn cảnh gia đình và điều kiện sinh hoạt trước đó.
3.2. Ngoại hình
Trong văn học, nhà văn miêu tả ngoại hình nhân vật thường với hai mục đích. Thứ nhất, để cá thể hóa nhân vật, nghĩa là tạo ấn tượng riêng về nhân vật ấy (không thể lẫn vào các nhân vật khác). Thứ hai, qua vẻ bề ngoài mà phần nào hé mở tính cách, bản chất của nhân vật ấy. Một nhà văn có tài thường chỉ qua một số nét khắc họa chấm phá có thể giúp người đọc hình dung ra diện mạo, tư thế cùng bản chất của một nhân vật nào đó. Một nhân vật thành công bao giờ cũng là “con người này” khác với con người kia, con người nọ… Miêu tả nhân vật Hoàng – một kiểu trí thức trưởng giả, không yêu một ai, chẳng chịu làm việc gì, chỉ có tài chửi đổng – Nam Cao đâu quá kĩ lưỡng, rườm rà. Qua mắt Độ, nhà văn miêu tả: dáng người to béo, bước đi khệnh khạng, vừa đi vừa như bơi hai cánh tay ra hai bên vì những khối thịt ở dưới nách kềnh ra, bàn tay múp míp, bộ mặt đầy đặn và trên mép một cái vành móng ngựa ria trông như chiếc bàn chải nhỏ. Chừng ấy chi tiết đủ giúp người đọc hình dung rõ một con người kiểu cách, luôn tỏ ra bề trên, một lối sống sung túc, dư thừa giữa lúc nhân dân đang gian khổ kháng chiến. Trái lại, khuôn mặt với đôi gò má cao đầy tàn hương, bàn tay có những ngón rất to ở nhân vật Đào (Mùa lạc – Nguyễn Khải) đã “nói” với người đọc về số kiếp “quân tử gian nan, hồng nhan vất vả”, về những năm tháng long đong, nhiều sương gió của người phụ nữ này. Trong truyện ngắn Vi hành, mượn lời người con trai (đôi nam nữ thanh niên người Pháp đi trên toa xe điện ngầm), tác giả Nguyễn ái Quốc đã phác họa chân dung Khải Định: “Chẳng phải vẫn cái mũi tẹt ấy, vẫn đôi mắt xếch ấy, vẫn cái mặt bủng như vỏ chanh ấy đấy à?”. Các chi tiết này vừa có giá trị tả thực về Khải Định vừa ám chỉ thật sâu cay tính cách hèn kém, chẳng có mấy thiên lương của ông vua bù nhìn An Nam. Đến với Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), chúng ta ấn tượng bởi hình ảnh một cô gái lúc nào cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Nhà văn đặc tả một hình dáng khi nào cũng cúi mặt nhìn đất mà không dám ngẩng cao, nhìn xa một chút. Một khuôn mặt xinh đẹp là thế mà mang nỗi u sầu thăm thẳm. Chi tiết này khiến ta ấn tượng với thân phận tủi nhục của người con dâu gạt nợ.
Khi cảm nhận, phân tích ngoại hình nhân vật cần thấy rằng phần lớn trường hợp, đặc điểm tính cách, chiều sâu nội tâm được thống nhất với vẻ bề ngoài. Song cũng có những trường hợp cái bên trong và vẻ bên ngoài của nhân vật “trật khớp”, thậm chí trái ngược nhau. Bên trong cái thân hình xấu xí, dị dạng của Quadimôdô (nhân vật trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức Bà của Vichto Huygô) lại là một tâm hồn cao thượng, trái tim thánh thiện. Lão Hạc (truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao) thân hình nhỏ thó, bộ mặt nhăn nheo như quả trám nhưng lòng tự trọng, tình thương yêu thì lớn lao, cao cả ít ai bằng.
Trong phân tích nhân vật, cần qua các chi tiết ngoại hình mà “đọc” đúng nội tâm, bản chất của đối tượng.
 
H

hoan1793

3.3. Ngôn ngữ
Qua lời ăn tiếng nói, qua cách dùng từ, giọng điệu của một người, chúng ta có thể nhận ra nghề nghiệp, trình độ văn hóa, nhận ra tính cách của con người ấy. Ngôn ngữ của nhân vật văn học thành công thường được cá thể hóa cao độ, nghĩa là mang đậm dấu ấn của một cá nhân. Nhà văn có tài là người biết sống với nhiều nhân vật, nắm bắt được nhiều kiểu ngôn ngữ. Người ta hay nói tới tài cá thể hóa ngôn ngữ nhân vật của Nguyễn Công Hoan trong truyện ngắn trào phúng. Nhân vật của ông quả ai nói ra người ấy, đúng với nghề nghiệp, bản chất xã hội của họ. Nhắc tới nhân vật cố Hồng trong tiểu thuyết trào phúng Số đỏ của Vũ Trọng Phụng chúng ta nhớ ngay đến câu gắt đầu cửa miệng “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!” mặc dầu ông ta chẳng biết cho ra đầu ra đũa việc gì cả. Cho đến khi trở thành “nhà cải cách thẩm mĩ”, “đốc-tờ Xuân”, “giáo sư quần vợt”, “cố vấn báo Gõ mõ”… được cả xã hội thượng lưu thành thị trọng vọng, Xuân Tóc Đỏ vẫn đầu cửa miệng mấy chữ “mẹ kiếp”, “nước mẹ gì”. Điều ấy chứng tỏ cái bản chất lưu manh, vô học của y không sao gột rửa nổi. Hãy chú ý đến ngôn ngữ của Hoàng (Đôi mắt – Nam Cao) – một bậc đàn anh trong văn giới đồng thời là tay chợ đen chợ đỏ rất tài tình: “ông thanh niên”, “bà phụ nữ”, “bố tự vệ”, “ cái Số đỏ”, “Tôi cho rằng cuộc Cách mạng tháng Tám cũng như cuộc kháng chiến hiện nay chỉ ăn vì người lãng đạo cừ”, “Bộ Đông chu mất ở Hà Nội, không đem đi được. Thế mới sầu đời chứ! Hận quá. May mà bộ Tam quốc lại để ở ngoại thành, đem đi được. Nếu không thì buồn đến chết.”. Ngay đến cách vỗ đùi, đến giọng “chửi yêu” Tào Tháo cũng rất… Hoàng. Trong Rừng xà nu ngôn ngữ của nhân vật Tnú nhiều khi ngắn gọn, chắc nịch, chứng tỏ một tính cách mạnh mẽ, dứt khoát: “Chỉ còn thằng chỉ huy dưới hầm. Kêu nó không lên. Bỏ lựu đạn, nó có ngách. Người chỉ huy mình hỏi: Ai xuống? Tôi xuống. Tối lắm. Tôi mò thấy nó. Nó bắn. Tôi giật được súng nó. Nó vật tôi. Nhưng tôi mạnh hơn. Tôi tống đầu gối lên ngực nó. Tôi bóp đèn pin lên mặt nó: Dục, mày còn nhớ tau không? Nó lắc đầu. Được, đây này, hai bàn tay tau đây này, nhớ chứ? Tau vẫn cầm được súng! Mắt nó trắng giã. Tôi nói: Này, tau có súng đây, tau có cả dao găm đây. Nhưng tau không giết mày bằng súng, tau không đâm mày bằng dao nghe chưa! Dục! Tau giết mày bằng mười ngón tay cụt này thôi, tau bóp cổ mày thôi!”. Quả là đôi bàn tay dồn nén căm hờn, đôi bàn tay quả báo. Con người miền núi là thế: yêu ai, yêu hết lòng, ghét ai, ghét tận độ. Từ ngày thằng Dục dẫn lính về đàn áp dân làng, đánh đập chết mẹ con Mai, Tnú khắc sâu mối thù. Cái tên thằng Dục in đậm trong tâm khảm… Anh muốn chứng tỏ với kẻ thù rằng đôi bàn tay từng bị hành hạ dã man trước đây để dập tắt mộng cầm súng, mỗi ngón đã bị cụt một đốt, lúc này vẫn thừa sức trả thù. Ngôn ngữ ấy, những lời hỏi, lời cảnh cáo cùng cách trả thù ấy chứng tỏ một tính cách mạnh mẽ, một hành động quyết liệt.
3.4. Nội tâm
Khi phân tích nhân vật cần quan tâm đến thế giới bên trong với những cảm giác, cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ… Thế giới bên trong này thường tương tác với thế giới bên ngoài (môi trường thiên nhiên, sự biến chuyển của đời sống xã hội, quan hệ và hành vi của các nhân vật khác xung quanh) đồng thời cũng có qui luật vận động riêng của nó. Một nghệ sĩ tài năng thường cũng là một bậc thầy trong việc nắm bắt và diễn tả tâm lí con người. Miêu tả chân thực, tinh tế đời sống nội tâm nhân vật là chỗ thử thách tài nghệ nhà văn và cảm nhận, phân tích được một cách kĩ lưỡng, thuyết phục mặt này cũng thành nơi chứng tỏ năng lực của người phân tích tác phẩm. Bố cục truyện ngắn Hai đứa trẻ vận động theo dòng cảm giác bâng khuâng, tâm trạng buồn man mác của nhân vật Liên trong không gian phố huyện nhỏ trước giờ khắc ngày tàn rồi dần về đêm. Tính trữ tình, sự tinh tế của ngòi bút Thạch Lam thể hiện qua việc diễn tả bao biến thái nhẹ nhàng của cảnh vật và sự hòa điệu của lòng người. Ở truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, hay nhất có lẽ là những trang Tô Hoài diễn tả sự trỗi dậy từng bước của sức sống tiềm tàng trong lòng Mị, quá trình hồi sinh của tâm hồn cô trong đêm mùa xuân nghe tiếng sáo gọi bạn tình và diễn biến tâm trạng, hành động của Mị trong đêm mùa đông cắt dây trói giải thoát cho A Phủ rồi bất ngờ chạy theo người ấy. Sống trong tâm trạng thiết tha bổi hổi rồi ngày càng rạo rực của nhân vật khi bỗng nghe tiếng sáo, Tô Hoài diễn tả chân thực quá trình hồi sinh này qua các bước tâm trạng, cử chỉ và hành động. Về hành động uống rượu của Mị, chúng tôi đã phân tích ở trước. Cũng tương tự như thế, hãy chú ý hành động thắp sáng thêm đĩa đèn của người phụ nữ này sau đó: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo…”. Hành động này có ý nghĩa gì? Bấy lâu nay Mị có bận tâm gì đến bóng tối hay ánh sáng xung quanh mình đâu. Cuộc đời đối với người con dâu gạt nợ chỉ như một đêm dài thăm thẳm. Nhưng giờ đây có lẽ Mị không còn chịu nổi bóng tối đang vây bọc quanh mình nữa. Thắp sáng thêm đĩa đèn hay là người phụ nữ này đang muốn thắp sáng lại cuộc đời mình? Tiếp theo hành động uống rượu để lòng càng nhớ về ngày trước, để thấy mình còn trẻ, hành động này chứng tỏ phản kháng âm thầm mà quyết liệt, chứng tỏ sóng cuộn trong chiều sâu tâm trạng từ khi nghe tiếng sáo gọi bạn yêu lấp ló ngoài đầu núi, lửng lơ bay ngoài đường. Đến khi diễn tả tâm trạng, hành động nhân vật Mị ở đêm mùa đông giá lạnh sau đó, ngòi bút Tô Hoài như hồi hộp dõi theo nỗi lòng người phụ nữ này để dẫn người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Chúng ta vừa bất ngờ trước hành động táo bạo cắt dây trói cho A Phủ lại ngỡ ngàng trước việc Mị vùng chạy theo (dù trước đó vài giây vẫn đang nghĩ chuyện ở lại mà chết thay) với câu nói trong cơn gió thốc lạnh buốt “ ở đây thì chết mất!”. Nhưng ngẫm ra thì những hành động bất ngờ này lại rất tự nhiên và hợp lí bởi đúng với hoàn cảnh cụ thể ấy, với tính cách ấy. Thâm nhập thế giới nội tâm phong phú của một nhân vật nào đó trở thành hành trình đầy thú vị của nhà văn, cũng là điều hấp dẫn đối với người đọc, người phân tích tác phẩm sau đấy. Điều đáng lưu ý mà qua các dẫn chứng nêu trên các bạn đã thấy là diễn biến nội tâm thường gắn liền cùng từng cử chỉ, hành động của nhân vật, thường được “hữu hình hóa” qua cử chỉ, hành động. Tất nhiên không phải lúc nào chúng ta cũng có thể “đọc xuôi” nỗi lòng qua cử chỉ, hành động bởi không phải bao giờ hai phía này cũng trùng khít, thậm chí chúng có thể đối lập nhau.
3.5. Cử chỉ, hành động
Không phải ngẫu nhiên mà khi miêu tả nhân vật Hoàng trong buổi chiều rồi buổi tối tiếp chuyện Độ, Nam Cao (qua mắt Độ) hay đặc tả những động tác khác thường ở nhân vật này. Chúng ta hãy thử liệt kê: “Anh cười gằn một tiếng, nhìn bao trùm cả người tôi, hỏi”, “Nỗi khinh bỉ của anh phì cả ra ngoài, theo cái bĩu môi dài thườn thượt. Mũi anh nhăn lại như ngửi thấy mùi xác thối”, “Anh trợn mắt bảo tôi…”, “Hoàng nhếch một khóe môi lên, gay gắt”, “Anh chộp lấy câu của tôi, nhanh như một con mèo vồ con chuột”… Qua những động tác, cử chỉ ấy, chúng ta đủ hiểu Hoàng khinh miệt, ghê tởm dân quê đến mức nào, tính hiếu thắng, kẻ cả trong trò chuyện của anh ta ra sao. Đó cũng là một cái tài của Nam Cao khi khắc họa nhân vật
Bản chất của con người ta bộc lộ chân xác, đầy đủ nhất qua cử chỉ, hành động. Phân tích nhân vật, vì thế, cần tập trung khai thác kĩ phương diện này. Đó là sự thật hiển nhiên. Nhưng đáng chú ý là bản chất nhân vật không chỉ bộc lộ ở việc nhân vật ấy làm mà còn qua cách làm việc ấy của nhân vật nữa. Vế sau này cũng là một phương diện vô cùng quan trọng để nhà văn cá tính hóa nhân vật. Nghị Hách (Số đỏ của Vũ Trọng Phụng) đúng là Nghị Hách ở hành động vỗ bụng Thị Mịch mà ỡm ờ đùa cợt, ở hành động say sưa diễn thuyết và nhỏ nước mắt tỏ lòng thương xót bình dân. Nam Cao đã dựng lên trước mắt ta một Chí Phèo bằng xương bằng thịt với tính cách điên khùng, uất ức, với số phận tuyệt đối cô độc và bi thảm không thể lẫn với bất kì một ai khác. Quả là rất Chí Phèo từ bộ mặt đầy những vằn ngang vạch dọc, dáng đi ngật ngưỡng đến cách chửi, từ kiểu rạch mặt ăn vạ, kiểu uống rượu đến lối làm tình với Thị Nở, Từ hành động xách dao ra đi trả thù đến cách đâm chết Bá Kiến rồi tự kết liễu đời mình. Cũng trừng trị người nô lệ song cái cách thống lí Pá Tra hành hạ A Phủ chỉ vì anh để hổ bắt mất một con bò nhà nó mới độc ác làm sao, càng chứng tỏ cái quyền lực ghê gớm và bộ mặt tàn bạo của giai cấp phong kiến thống trị ở miền núi. Khi điển hình hóa nhân vật, một nhà văn có tài thường “lựa chọn” cho nhân vật những hành động độc đáo, gây ấn tượng sâu đậm đối với người đọc.
 
H

hoan1793

3.6. Lời các nhân vật khác về nhân vật
Để khắc họa tính cách, bản chất một nhân vật, nhà văn còn mượn lời nói, lời đánh giá của các nhân vật khác. Lắm khi, nhà văn còn “tổ chức” cho các nhân vật khác thảo luận, bàn bạc về nhân vật ấy. Viết Vi hành, Nguyễn Ái Quốc đã khéo léo tạo tình huống lầm lẫn thú vị để mượn cuộc đối thoại của đôi nam nữ thanh niên người Pháp trên xe điện ngầm ở Pa ri mà dựng chân dung, đả kích ông vua bù nhìn Khải Định. Qua những lời đối thoại ngắn gọn, sinh động mà hình ảnh ông vua An Nam lần lượt hiện lên khá toàn vẹn (từ lối ăn mặc, trang sức xa hoa, lòe loẹt, khoe của một cách kệch cỡm đến điêu bộ nhút nhát, lúng ta lúng túng, từ cái mũi tẹt, đôi mắt xếch, cái mặt bủng như vỏ chanh đến hành vi ám muội…). Tác giả đã mượn lời đôi nam nữ thanh niên Pháp mà bàn luận, định giá thật đích đáng về Khải Định. Ông vua này được xem như một trò giải trí, mua vui cho người dân Pháp giữa lúc mọi trò quảng cáo trên báo chí đương thời không hấp dẫn được công chúng nữa. Mỉa mai thay trò giải trí này lại không hề tốn một đồng xu (không bằng vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên, tụi làm trò leo trèo nhào lộn của sư thánh xứ Công Gô). Thậm chí, Khải Định được ví như vai rối mà ông bầu nhà hát Múa rối có định kí giao kèo thuê. Đã là con rối thì không thể tự thân chuyển động mà phải tuân theo sự điều khiển, giật dây của những ai đó. Khải Định chỉ là một con rối trên sân khấu chính trị đương thời. Mọi hành động, mọi lời nói của ông vua này đều nhất nhất tuân theo sự điều khiển của quan thầy Pháp! Đến với truyện ngắn Rừng xà nu, lời cụ Mết nói với con cháu Xô Man lại cho ta hiểu được phần nào hoàn cảnh gia đình và tính cách của Tnú: “Anh Tnú mà tau đã kể cho ********* nghe bao nhiêu lần rồi đó. Đấy, nó đấy, nó đi giải phóng quân đánh giặc, nay nó về thăm làng một đêm, cấp trên cho nó về một đêm, có chữ kí người chỉ huy, chị bí thư coi rồi. Nó đấy! Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta…”. Trong tác phẩm văn học, các nhân vật thường ở giữa những mối quan hệ tương tác, ràng buộc nhiều khi rất phức tạp, thường nhận (hoặc chịu) sự nhận xét, đánh giá của các nhân vật khác. Tất nhiên, không phải lời nhận xét, đánh giá nào cũng đúng và đều là ý kiến của nhà văn.

Sau khi trình bày sáu phương diện cụ thể lúc phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự, chúng tôi muốn lưu ý các bạn mấy điểm:
- Thứ nhất: Không phải bất cứ nhân vật nào cũng được nhà văn thể hiện đầy đủ các phương diện này (lai lịch, ngoại hình, ngôn ngữ, nội tâm, cử chỉ, hành động, qua lời các nhân vật khác). Tùy trường hợp mà có chỗ nhiều, chỗ ít, chỗ đậm, chỗ nhạt. Bởi thế, không phải cứ máy móc tìm đủ, phân tích đủ mà cần biết tập trung, xoáy sâu vào các phương diện thành công nhất của tác phẩm. Cũng không cứ phải tuần tự theo sáu phương diện như thế mà nên sắp xếp theo thực tế, làm sao cho bài văn của mình hấp dẫn.
- Thứ hai: Tránh lầm lẫn cấp độ của những phương diện phân tích. Có thể xem sáu phương diện đã nêu đồng đẳng và đều là sự cụ thể hóa, hiện thực hóa của tính cách, số phận nhân vật. Không nên xem tính cách như một phương diện ngang bằng các phương diện ấy (như một vài cuốn sách về làm văn lâu nay vẫn sắp xếp). Điều này không đúng về mặt lí luận và sẽ gây lúng túng trong thực tế làm bài.
- Thứ ba: Nắm vững sáu phương diện cơ bản đã nêu khi phân tích nhân vật chính là điều có ý nghĩa định hướng cho việc đọc tác phẩm tự sự. Biết đọc tác phẩm tự sự nghĩa là hiểu được, nhớ được nội dung phản ánh của tác phẩm và mối quan hệ giữa các nhân vật, nắm được tính cách, số phận của các nhân vật chính. Để có căn cứ phân tích, để có chất liệu làm bài, khi đọc tác phẩm cần ghi nhớ các chi tiết, các hình ảnh về từng phương diện ấy.:D
 
M

maly95

Mở bài dùng cho tất cả các tác phẩm văn xuôi

- Cuộc đời cầm bút của nhà văn giông như một chú ong thợ hút mật từ trăm hoa.mỗi một giọt mật tinh chất chính là sự kết tinh từ vạn chuyến đường dài và "tác giả... chính là một đời ong như vậy.Bàn tay tài hoa của ong đã làm nên bao tác phẩm có giá trị cho bạn đọc,cho đời và cả cho nhân loại.Tác phẩm ... chính là một tp như vậy.....
-Chiếc tháp cao0 nào cũng bắt nguồn từ mặt đật,dòng sông cũng bắt nguồn từ một cội mà ra.Văn học cũng vậy cung bắt nguồn từ hiện thực tươi dòng của cuộc sông để tạo nên những tác phẩm có giá trị...(Mở bài này chủ yếu dũng cho văn học lãng mạng sẽ hay hơn)
........Mình chỉ biết c0 hai mở bài này thui........khi nào làm thêm được mình post lên cho....Chuc bạn học tốt:)
 
Top Bottom