Biên độ của trí tưởng tượng ? Chúa Jesus nói tiếng Việt

P

phamminhkhoi

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Sau đây là một bài khảo cứu nghiêm túc của một người nghiên cứu có uy tín dựa trên những nguồn tài liệu đáng tin cậy. Nhưng hãy coi chừng ngôn ngữ học !!


ĐỨC CHÚA JESUS NÓI ĐƯỢC TIẾNG VIỆT

Nguyễn Xuân Quang

Tôi khám phá ra câu nói cuối cùng của Chúa Jesus khi bị đóng đinh trên thánh giá là bằng tiếng Việt! Chuyện khó tin nhưng không phải là không có thật. Trong Sách Tân Ước (The Books of the New Testament) có ghi lại câu nói cuối cùng của chúa Jesus khi bị đóng đinh trên thánh giá như sau: "Eli, Eli, lama sabac tha ni". Không một ai hiểu Chúa nói gì. Không một ai biết Chúa có ẩn ý gì. Vì câu nói này không phải là tiếng Do Thái hay bất cứ một thứ tiếng Tiểu Á nào đang nói vào thời Chúa Jesus sống. Chúa đã dùng một thứ ngoại ngữ. Tại sao Chúa đã nói bằng tiếng ngoại ngữ? Bởi vì Chúa không muốn những kẻ đóng đinh Chúa hiểu những gì Chúa nói. Cũng chính bởi Chúa nói bằng tiếng ngoại ngữ nên các kẻ đóng đinh Chúa vì không hiểu câu nói cuối cùng của Chúa, họ đã rất tò mò nên đã ghi lại lời Chúa nói và vì thế câu nói cuối cùng này của Chúa sau này đã được ghi lại trong Tân Ước. Gần hai ngàn năm không một ai hiểu lời nói cuối cùng của Chúa. Cho mãi tới khoảng thập niên ba mươi, James Churchward, một nhà khảo cổ rất nổi tiếng mới hiểu được ý nghĩa của câu nói cuối cùng của Chúa. Trong cuốn sách The Symbols of Mu, ông cho đây là tiếng nói của vùng Đông Á châu mà ông gọi là Naga-Maya, một tiếng nói thuần túy của vùng Đất Mẹ "Mother Mu". Theo ông, tiếng Naga-Maya-Đông Á châu là một ngôn ngữ cổ nhất của loài người. Cũng theo ông câu nói này đã được phát âm và đánh vần sai trong Tân Ước. Thật ra phải đánh vần, đọc và phát âm như sau: " Hele, hele, lamat zabac ta ni". Ông dịch qua Anh ngữ: "Hele- I faint (Ta xỉu)- Hele-I faint (Ta ngất); lamat zabac ta ni - darkness is coming over my face" (bóng tối đang phủ xuống mặt ta) (1).

James Churchward gọi vùng đất Mu là Motherland, một vùng đất ở biển Đông ngày xa xưa thuộc địa bàn của văn hóa Hòa Bình trong đó có cổ Việt. Ngày nay vùng đất Mẹ "Mu" này đã chìm xuống biển. Cũng theo James Churchward, vùng đất Mẹ Mu này
có một nền văn minh rất huy hoàng và là nguồn gốc của văn minh loài người. Cũng nên biết là gần đây một bác sĩ Nhi Khoa tên là Stephen Oppenheimer, trong quyển sách Địa Đàng ở Phương Đông hay Lục Địa đã Chìm Đắm ở Đông Nam Á (The Eden in
the East, The Drowned Continent in Southeast Asia) cũng chứng minh rằng ở vùng biển Đông Nam Á trước đây có một lục địa mà ông gọi là Sundaland về sau bị nước biển dâng lên nhận chìm xuống. Stephen Oppenheimer cũng cho rằng Sundaland có
một nền văn minh rất huy hoàng. Đất Mẹ Mu của James Churchward chính là Sundaland của Stephen Oppenheimer.

James Churward cũng cho biết ông không phải là người duy nhất đã tìm cách dịch câu nói cuối cùng của chúa Jesus khi bị đóng đinh trên thánh giá mà sau này Don Antonio Batres Jaurequi, một học giả uyên bác về Maya của Guatemala, trong quyển sách
"History of Central America", đã viết "Những từ cuối cùng của Chúa Jesus trên Thánh giá là tiếng Maya, một thứ ngôn ngữ cổ nhất hiện biết đến. Lời chúa nói phải đọc như sau: "Hele, Hele, lamah sabac ta ni". Dịch sang Anh ngữ: "Now I am fainting; the
darkness covers my face" (Bây giờ Ta đang ngất xỉu; bóng tối bao phủ mặt ta" (3). James Churward cho rằng ông phát âm "lamat" và zabac còn Jaurequi phát âm "lamah" và "sabac" là do ông dựa theo ngôn ngữ Naga-Maya ở Đông Á châu, còn Jaurequi dựa vào ngôn ngữ Maya hiện nay ở Trung Mỹ. Hai dòng ngôn ngữ lấy từ hai vùng cách xa nghìn trùng của quả đất nhưng đồng thuận với nhau về mọi điểm trọng yếu (4). Hai thứ ngôn ngữ này đều có cùng một gốc là Ngôn ngữ Mẹ Mu. Nói một cách khác chúng là hai ngôn ngữ chị em. Hay tiến xa hơn chỉ là một ngôn ngữ nhưng nói theo hai phương âm khác nhau như ngôn ngữ nói ở miền Bắc và ở miền Trung-Nam của Việt Nam.

Bây giờ, một người thứ ba là tôi, Nguyễn Xuân Quang, xin chuyển câu nói cuối cùng này của Chúa Jesus qua tiếng Việt. Tôi sẽ chứng minh câu nói này là bằng tiếng Việt, một trăm phần trăm tiếng Việt.

-"Eli", "Hele":

Eli, hele là những tán thán từ (exclamation). Eli là một tiếng cổ Anh ngữ liên hệ với từ Anh ngữ hiện kim là "Alas" và biến âm với tiếng Việt hiện kim là "Ế a", "Ối a" và "Hele" là tiếng cổ Anh ngữ liên hệ với tiếng hiện kim Pháp ngữ "Hélas" và liên hệ với tiếng
Việt cổ Hĩ ôi! (Alexandre de Rhodes, Từ Điển Việt Bồ La) và với tiếng Việt hiện kim "Hỡi a!", "Hỡi ơi!", "Hỡi ôi!"

- "lama", "lamat", "lamah":

.Nếu coi từ lama hay lamah là hai từ riêng rẽ: la và ma (mah)

./ la là làn. Từ làn là lớp che như một làn sương khói, một làn khói bốc lên (la liệng hệ với Anh ngữ "layer"). Theo l=m như lờ = mờ,

lu, lù = mù, mờ; lạch = mạch (nước), ta có làn = màn, một làn sương mù = một màn sương mù .

./ma là mà, mù, mờ, mây, làm cho không thấy, che mắt: ta thường nghe nói các nhà a?o thuật "mà" con mắt người xem (ma tương đương với một nghĩa của ma thuật, "magic").

Lama là lờ mờ, lù mù, làn mây mù, lớp mây mù.

. Nếu coi lama chỉ là một từ

Lama có lam- có nghĩa là sương mờ, sương mù, màu sương khói mù như khói lam chiều là khói sương mù buổi chiều. Màu lam là mầu khói sương mờ. Hán Việt lam sơn như câu nói lam sơn chướng khí có thể hiểu là núi (che phủ) mây mù khói sương và khí
độc (miasma). Ở câu này phải hiểu "lam" là mây mù, khói sương mới đi đôi với "khí" chứ không nên hiểu lam là màu lam vì nó cọc cạch.

Như thế lama là làn mây mù, lờ mờ, lù mù.

Như đã biết Việt ngữ liên hệ với tiếng Nam Đảo (Austronesian language). Ta có thể dùng tiếng Nam Đảo để kiểm chứng lại nghĩa ngữ của từ lama để thuyết phục thêm những người có đầu óc đa nghi. Tôi mò tìm trong ngôn ngữ Nam Đảo và đã tìm thấy trong Ngôn ngữ Nam Dương tộc Torah có từ "lama" có nghĩa là "dew" (sương),
"mist" (mù) (WMP; van der Veen 1940) và ngôn ngữ ở đảo Salomon có từ "lama" có nghĩa là "spread over, cover over" (lan tỏa, che phủ) (Robert Blust, tr. 101).

Tóm lại rõ như hai năm là mười là "lama" là làn mây mù, lớp lam mù và từ lama viết trong Tân Ước đúng hơn là hai từ của hai tác giả trên là "lamat", "lamah".

-"sabac", "zabac"

Theo sự biến âm lịch sử trong Việt ngữ, âm b là âm cổ ví dụ các cụ chúng ta nói bồ hôi = chúng ta ngày nay thích nói mồ hôi, các cụ nói bồ hóng = chúng ta nói mồ hóng, các cụ nói thuốc bồi = chúng ta nói thuốc mồi... như thế ta có sabac là dạng cổ của Việt ngữ samac. Gần hai ngàn năm trước, Chúa nói "sabac", chúng ta ngày nay nói "samac".

.Nếu coi samac là hai từ riêng rẽ là sa và mac

-sa, sà là rơi xuống, đổ xuống như sa xuống, sà xuống.

-mac là mặt (cũng nên biết là người Trung Nam ngày nay cũng thường phát âm c thay cho t, viết chính tả hay lầm c với t).

Samac là sa, sà xuống mặt.

.Nếu coi samac chỉ là một từ

Samac có sam- là sâm, sẩm, xẩm, sầm hàm nghĩa tối, đen như sâm sẩm tối, lúc xẩm tối, tối sầm lại. Sâm, xâm, xẩm cũng có nghĩa là bị tối mắt lại tức bị xỉu, ngất như bị xây xẩm mặt mày, bị sâm (faint).

Như thế, samac có thể hiểu là tối đen đổ xuống mặt, bị xỉu, ngất. Vắn tắt sabac là samac là sa, sà (xuống), sa sầm (bóng tối đổ

xuống) xuống mặt, mắt, bị sâm, xây xẩm.

-"ta ni"

Ta ni chính là Việt ngữ "ta ni", "ta nì", "ta này", "ta nầy", "ta nè". Ta ni trăm phần trăm là tiếng Việt, một ngàn phần trăm là tiếng Việt, một triệu phần trăm là tiếng Việt. Ta ni là tiếng Việt đứt đuôi con nòng nọc. Ta ni là tiếng Việt "chính cống bà lang trọc". Gần hai ngàn năm hai từ "ta ni" không thay đổi trong tiếng Việt. Gần hai ngàn năm trước Chúa nói "ta ni" và ngày nay chúng ta cũng vẫn nói là "ta ni".

Tóm lại, toàn câu nói " Hele, hele, lama sabac ta ni" = "Hỡi ơi! Hỡi ôi! Làn mây mù sà xuống mặt ta nì" hay "Hỡi ơi! Hỡi ôi! Làn mây mù sà xuống tối mặt ta nì" hay "Hỡi ơi! Hỡi ôi! Lớp mù làm xây xẩm ta nì".

Tổng quát, nghĩa của câu tiếng Việt rất ăn khớp với nghĩa của James Churchward và Don Antonio Batres Jaurequi đã dịch: "I am fainting, the darkness covers my face".

Nhưng tất cả mọi người phải công nhận với tôi là câu tiếng Việt chính thống và đúng nghĩa nhất.

Theo Việt ngữ hiện kim thì câu nói cuối cùng của Chúa Jesus trên thánh giá phải viết như sau " Hoioi, hoioi, lamay samat ta ni".

Như thế rõ ràng Chúa Jesus đã nói được tiếng Việt! Bây giờ, một câu hỏi lớn được đặt ra là Chúa đã học thứ ngoại ngữ này ở đâu?
 
P

phamminhkhoi

Giáo sử của Thiên chúa giáo có ghi lại rằng Chúa Jesus đã "vắng bóng" một khoảng thời gian mà các tín đồ không rõ ngài đi đâu. Một tài liệu gần đây nói rằng Chúa đã viếng thăm vùng phía bắc Ấn Độ. James Churchward cũng xác nhận điểm này. Ông
là một nhà khào cổ học uyên bác đã từng lặn lội đến những vùng đất có những nền văn minh huy hoàng cổ nhất của nhân loại để nghiên cứu. Ông đã từng đến những vùng bắc Ấn, Hy Mã Lạp Sơn, Tây Tạng. . . để tìm tòi nghiên cứu về nguồn gốc văn minh loài người. Trong quyển Symbols of Mu ông đã viết:

"Một dịp, một lão tu Ấn Độ Rishi báo cho tôi biết rằng truyền thuyết của ngôi đền có ghi rằng ‘Chúa Jesus, trong khi lưu lại ở một tu viện ở Himalaya, ngài đã nghiên cứu thứ tiếng thiêng liêng Sacred Inspired Writings, ngôn ngữ, chữ viết và và Vũ Trụ luận của vùng Đất Mẹ". Đây là lý do ông đã cho rằng câu nói cuối cùng của Chúa là thứ ngôn ngữ của vùng Đất Mẹ.

Như thế Chúa đã nói một thứ ngôn ngữ cổ vùng Đông Á mà địa bàn của cổ Việt là ở vùng Đông Á liên hệ với vùng Hy Mã lạp Sơn thì hiển nhiên Chúa nói được tiếng cổ Việt. Tôi xin chứng minh có sự liên hệ giữa tiếng Việt và tiếng Naga-Maya Đông Á của
James Churchward. Vì thời giờ giới hạn tôi xin so sánh vài ba từ Naga-Maya Đông Á trong tự vựng của James Churchward và tiếng Việt.

- Ngôn ngữ Naga-Maya Đông Á có "naga" là rắn nước (nag- là nát, nước), một thứ rồng. Theo truyền thuyết chúng ta là dòng dõi Lạc Long Quân. Long là rồng là Naga, như thế dân Lạc Việt có gốc rồng liên hệ với Naga-Maya Đông Á châu của J.
Churchward. Lạc Long Việt và Naga-Maya Đông Á cùng một dòng Naga-Long, dòng nước, Mặt trời nước, dòng vũ trụ. Tiếng cổ Việt là tiếng Naga-Maya Đông Á hay liên hệ vời tiếng này.

-Naga-Maya Đông Á châu ngữ "keh": con hươu, người đầu tiên trên mặt đất (Keh ruột thịt với Pháp ngữ cerf là con hươu; với gốc Hy lạp ker-, sừng như keratitis, sưng màng sừng ở mắt). Keh chính là Việt ngữ "kẻ" (người, núi nổng), Hán Việt Kì (núi nổng, con hươu nọc). Vua đầu tiên của chúng ta là Kì Dương Vương có Kì là Kẻ ruột thịt với Naga-Maya "kek", con hươu, người đầu tiên. Kì Dương Vương là người đầu tiên của tộc Việt và của cả loài, người đã lập ra nước đầu tiên của tộc Việt là Xích Quỉ cũng có tên mẹ đẻ là con hươu đực Lộc Tục (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).

-Naga-Maya Đông Á châu Mu là Me ruột thịt với Việt ngữ Mụ, Mẹ, Mệ, Mợ.

-Ngôn ngữ Maya Đông Á "Menen" (người) chính là Việt ngữ "Man", "Mán", "Mường", "Môn" (người).

. . . . . .

Như thế chỉ qua ba từ, ta thấy ngôn ngữ, truyền thuyết, cổ sử của Việt Nam liên hệ khắng khít ruột thịt với Naga-Maya ngữ.

Vậy Chúa nói tiếng Naga-Maya Đông Á thì Chúa cũng nói tiếng Việt.

Như trên ta đã biết tiếng Naga-Maya Đông Á và tiếng Maya Trung Mỹ

Là hai ngôn ngữ chị em. Vậy tiếng Naga-Maya Đông Á Liên hệ với Việt ngữ thì Việt ngữ cũng phải liên hệ với tiếng Maya Trung Mỹ. Tôi xin chứng minh. Có ít nhât hai tác giả Việt Nam cho rằng có sự liên hệ giữa Việt Nam và Maya Trung Mỹ:

-Bình Nguyên Lộc trong "Nguồn Gốc Mã Lai của Dân Tộc Việt Nam" cho rằng Maya ngữ Trung Mỹ châu là tiếng Mã Lai đợt II.

Có nhiều tác giả trong đó có Bình Nguyên Lộc đã chứng minh rằng có sự liên hệ giữa Việt ngữ và tiếng Mã Lai nằm trong nhóm ngôn ngữ Nam Đảo. Vậy thì tiếng Việt liên hệ với tiếng Maya Trung Mỹ.

-Triết gia Kim Định trong Việt Lý Tố Nguyên cho rằng Maya liên hệ với Bộc Việt. Bộc là Bọc là túi, nang. Bộc Việt là Nòng Việt, dòng âm, ngoại, dòng Vũ trụ, Hư Không.

-Tôi, Nguyễn Xuân Quang, cũng nhận thấy giữa Maya và Việt Nam có một sự liên hệ mật thiết về văn hóa, cổ sử và ngôn ngữ.

Họ là tộc thờ mặt trời thuộc dòng Nòng (tức Bọc, Bộc), dòng Vũ trụ Hư, dòng nước, dòng Mẹ Mặt trời. Hãy lấy một vài ví dụ để soi sáng.

-Maya

Trước hết hãy tìm hiểu xem Maya nghĩa là gì? Theo các nhà nghiên cứu Maya Tây phương ngày nay, Maya có nghĩa là 'not many': "The name Mayapán, given to Maya New Empire which endured from A.D. 987 to 1697 means the 'Standard of the Not
Many', from Maya (not many) and pán (standard). It was sometimes called Ichpa meanning 'within the closure', an exactly parallel idea on the Nahuaque as Lord of the Ring" (Irene Nicholson, Mexican and Central American Mythology, tr.123) (Tên
Mayapán, đặt cho Tân Đế Quốc Maya kéo dài từ 987 đến 1697 sau công nguyên có nghĩa là "Tiêu chuẩn Không nhiều", do Maya là 'Không nhiều' và pán 'tiêu chuẩn'. Đôi khi cũng được gọi là Ichpa có nghĩa là "trong vòng kín", chính là ý nghĩa song song với Nahuaque, "Chúa Vòng"). Câu cắt nghĩa này thật là tối nghĩa và gần như là ngớ ngẩn. Đây là cách giải nghĩa đã đi lệch ra ngoài. Bây giờ ta thử dùng Việt ngữ và chữ nòng nọc để tìm nghĩa đích thực của tên tộc Maya xem sao. Đối chiếu với Việt ngữ ta thấy "Maya" (không nhiều) quả thật có nghĩa là Mấy (mấy cũng có nghĩa là không nhiều như sức mấy, mấy hơi, mấy kẻ... Mấy liên hệ với mỡ, mậu, mụ, mô có nghĩa là không, không có gì, xem dưới). Do đó "Maya" chính là "Mấy", "Không". Pán chính
là Việt ngữ "bản", buôn, mường chỉ người, chỗ ở, đất nước. Bản về sau cũng có nghĩa là căn bản, đơn vị gốc dùng làm tiêu chuẩn, các nhà nghiên cứu Maya hiện nay đã hiểu theo nghĩa standard là tiêu chuẩn này. Mayapán là Bản Mấy, Bản Không,
Mường Mấy, Mường Không. Không có nghĩa là hư không, là Khôn, Nòng. Từ Mayapán có nghĩa đi đôi với Ichpa có nghĩa là "within the closure", là "quây kín", "Ring", "Vòng". "Lord of the Ring" là "Chúa Vòng". Ở đây ta phải hiểu theo chữ nòng nọc, theo vũ trụ giáo. Theo v=n, víu = níu, Vòng = Nòng. Vòng là Nòng, là Khôn tức ngành âm. Rõ như ban ngày là Maya là Mấy, Không mang ý nghĩa Vòng, Nòng, Khôn, Hư Không. Maya là một tộc thuộc ngành Nòng, Ngoại, Khôn trong vũ trụ tạo sinh. Điều này cũng thấy rất rõ là nét nổi bật nhất của Maya là mặt trời của Maya là mặt trời âm và có cả mặt trời cõi âm có biểu tượng là con báo. Theo duy dương Maya là một thứ Bộc Việt, theo duy âm là một thứ Âu Việt thuộc ngành nòng ở Mỹ châu.

-Maya ngữ có "Ma" có nghĩa là Mẹ, chính là Việt ngữ Má, Mạ, Me, Mẹ, Mợ, Mụ. Nếu Ma đứng đầu chữ tức là tiền tố thì Ma- có khi mang nghĩa phủ định (negation) có nghĩa là không, không có, chớ có (James Churchward, Land of Mu). Điểm này cũng giống như trong Việt ngữ có các cổ ngữ "mựa", "mỡ" có nghĩa phủ định như thấy trong thơ Lê Thánh Tôn, thế kỷ 15:

Mỡ ểu áo vàng chẳng có việc.

Mỡ ểu có nghĩa là chớ có kêu ca (giải thích của Bùi Đức Tịnh, Văn Phạm Việt Nam, Xuân Thu, tr.237), mỡ là không; tiếng Huế mô (mô có = không có), Quảng Đông mụ, mậu (không)...

.Maya có vật tổ là Kucucan là Rắn Lông Chim có Kucu là chim cúc-cu (tú hú, biểu tượng cho gió), -can là chăn, trăn, rắn. Kucucan là Rắn Chim, Rắn Gió (Thần Gió) tức là Rắn bay được tức là một loại naga, long, thuồng luồng, rồng. Hiển nhiên qua vật tổ này ta thấy rất rõ Maya Trung Mỹ cũng thuộc dòng âm Naga. Họ là Naga-Maya ổ Trung Mỹ. James Churchward đã chứng minh đúng.

.Maya ngữ ou (ếch) biến âm với oa, ếch.

.Số zero Maya có hình con sò có hai răng mang hình ảnh Nữ Oa là "con ốc có hai ngà" (Kim Định, Việt Lý Tố Nguyên). Theo truyền thuyết Việt (và Trung Hoa) Nữ Oa có đuôi rắn là dòng nước, Mẹ, Nòng là người đăng bà đầu tiên của nhân loại. Maya
Trung Mỹ đã lấy hình ảnh con ốc có hai ngà của Nữ Oa làm con số không zero. Như thế họ ruột thịt với Nữ Oa (điều này cũng cho thấy Nữ Oa không phải là của Trung Hoa, xem Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).

. . . . . .

Cuối cùng một bằng chứng vững chắc và đáng tin cậy nhất là nghiên cứu di truyền học dựa trên DNA. Sự khảo cứu dựa trên DNA của Tiến sĩ J.Y. Chu chứng minh rằng con người Homo sapiens sapiens phát xuất từ đông châu Phi tới vùng Lưỡng Hà rồi đến Đông Nam Á. Ở đây, họ chia ra làm hai nhánh. Một nhánh đi lên phía Bắc tức Trung Hoa rồi vượt qua eo biển Bering qua Mỹ châu. Nhánh thứ hai đi xuống Nam Đảo ở Thái Bình Dương.

Khảo cứu này cung cấp một bằng chứng kiên cố là thổ dân Mỹ châu nói chung và Maya Trung Mỹ nói riêng phát gốc từ Đông Nam Á. Hiển nhiên Maya Trung Mỹ liên hệ với cổ Việt.

Như thế câu nói cuối cùng của chúa Jesus theo James Churward là tiếng Naga-Maya Đông Á châu và ta đã thấy rõ có liên hệ với tiếng cổ Việt. Theo James Churward tiếng Naga-Maya Đông Á châu và tiếng Maya Trung Mỹ là hai dòng "thuộc địa" của Đất Mẹ Mu mặc dù xa cách ngàn trùng nhưng tương thuận với nhau về mọi điểm (4). Theo Jaurequi câu nói cuối cùng của Chúa Jesus là tiếng Maya Trung Mỹ và ta đã thấy Maya là một thứ Bộc Việt, một thứ Việt dòng ngoại. Sự khảo cứu của tôi cũng đã cho thấy câu nói của Chúa là tiếng Việt. Như thế thì rõ ràng như "con cua tám cẳng hai càng, một mai hai mắt rõ ràng con cua" là câu nói cuối cùng của Chúa Jesus là tiếng cổ Việt. Bắt buộc. Bắt buộc. Và bắt buộc.

Kết Luận
Tóm lại câu nói cuối cùng của Chúa Jesus trên thánh giá là câu nói bằng một ngôn ngữ tối cổ của loài người, có thể hiểu qua ngôn ngữ Maya Đông Á châu của James Churward, qua ngôn ngữ Maya Trung Mỹ của Jaurequi và qua ngôn ngữ Việt của tôi.
Chúa nói được tiếng Việt. Dù gì thì qua câu nói này ta rút ra được một điều chắc chắn là tiếng Việt là một thứ ngôn ngữ nằm trong nhóm ngôn ngữ cổ nhất hay liên hệ với một thứ ngôn ngữ cổ nhất của loài người mà Chúa Jesus đã học ở vùng Himalaya và đã
nói lời cuối cùng trên thánh giá. Rõ ràng James Churchward cho tiếng Naga-Maya là tiếng tối cổ, Jaurequi cho tiếng Maya Trung Mỹ là "tiếng cổ nhất hiện biết đến" thì hiển nhiên Việt ngữ liên hệ với hai ngôn ngữ đó cũng phải là một ngôn ngữ tối cổ. Ta
có thể so sánh tiếng Việt với bất cứ ngôn ngữ nào của loài người. Ta có thể dùng tiếng Việt để nghiên cứu bất kỳ một ngôn ngữ nào của loài người và ngược lại có thể dùng bất cứ một ngôn ngữ nào để nghiên cứu tiếng Việt.

Ta có thể dùng tiếng Việt để tìm ra nguồn gốc ngôn ngữ loài người (xem Việt Ngữ và Nguồn Gốc Ngôn Ngữ Loài Người).


Cước Chú Và Tài Liệu Tham Khảo
.(1) "This is not Hebrew nor any tongue that was spoken in Asia Minor during the life of Jesus. It is the pure tongue of the Motherland, badly pronounced and spelt in New Testament. It should have been spelt, read and pronounced: " Hele, hele, lamat zabac ta ni" Translation: Hele-I faint. Hele-I faint; lamat zabac ta ni-: darkness is coming over my face" (p. 54).

.(2) "On one occasion the old Rishi informed me that temple legends stated: ‘Jesus, during his sojourn in the Himalayan monastery, studied the contents of the Sacred Inspired Writings, the language, the writing and the Cosmic Forces of the Motherland" (p.54).

.(3) "The last words of Jesus on the Cross were in Maya, the oldest known language". He says they should read "Hele, Hele, lamah sabac ta ni". Put in English: "Now I am fainting; the darkness covers my face".

.(4) Jaurequi spells the word "lamah. I spell it "lamat". He spells the word "sabac". I spell it "zabac". This difference is brought about by the translation coming from two different lines of colonization. Mine comes from the Naga-Maya of Eastern Asia;
Jaurequi’s comes from the Modern Maya of the Central America. The two, taken from vastly distant parts of the earth, agree in all material points’ (The Sacred Symbols of Mu, (p. 54-55).

.Bình Nguyên Lộc, Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam, Xuân Thu xuất bản.

.Robert Blust, Austronesian Etymologies, Oceanic Languistics, Vol. XIX, No 1 and 2, 1980.

.James Churchward:

-The Lost Continent of Mu, 1969 Paperback Library Edition, Coronet Communications Inc.;

-The Childen of Mu, 1959 Compton Printing Works Ltd, London.

-The Sacred Symbols of Mu, Neville Spearman, London.

. Don Antonio Batres Jaurequi, History of Central America.

.Kim Định, Việt Lý Tố Nguyên, An Tiêm xuất bản 1970.
 
R

rua_it

em không biết phải nói sao chứ cái này đang gẫy tranh cãi đến cãi vã trên 1 số trang wed vì mức độ rảnh của người viết ra bài này.
theo em biết thì bãy câu nói cuối cùng của Chúa Giê-su đã được sử sách ghi chép lại, hoàn toàn không hề có câu nào dịch không được. em xin trích câu nói cuối cùng của Ngài:"Lạy Cha! con phó thác linh hồn con trong tay Cha (Lc 23, 46)"
=> nếu ai rành ngôn ngữ học thì bài trên phi lý và phản khoa học. cứ thử xem những yếu tố dẫn đến kết liận đó là tiếng việt thì biết

nhưng quả thật phải khâm phục người viết ra .
 
Last edited by a moderator:
F

firefrog_ngo

"Pó" toàn bộ với mấy ông này.
Thế mấy ông định nói là người Việt nên tự hào vì Chúa nói tiếng Việt à.
Mà tôi nghĩ câu đó dịch ra tiếng Việt thì trong kinh thánh đã ghi rất rõ rồi.
Có chăng thì nên tin đi hẵng rồi muốn làm gì thì làm.Hở cái là nghiên cứu này nghiên cứu nọ mà chẳng hợp lý tý nào.
 
Top Bottom