bài viết số 5

C

congchuamouoc_ad

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

mấy bạn giúp mình bài này nha rùi mình xin hậu tạ :khi (176)::khi (196):
đề bài:
1:thuyết minh về chùa 1 cột
2:em hãy viết 1 bài giới thiệu thủ đô HÀ NỘI cho một bạn nước ngoài
mấy bạn giúp minhf nha thứ 6 mình kiểm tra rùi
yêu các bạn nhiều:khi (12):
 
L

lollipop_9x

Chùa được xây dựng vào mùa đông tháng mười âm lịch năm 1049.

Chùa chỉ có một gian nằm trên một cột đá ở giữa hồ Linh Chiểu nhỏ có trồng hoa sen. Truyền thuyết kể lại rằng chùa được xây dựng theo giấc mơ của vua Lý Thái Tông (1028-1054) và gợi ý thiết kế của nhà sư Thiền Tuệ. Vào năm 1049, nhà vua đã mơ thấy được Phật bà Quan Âm ngồi trên tòa sen dắt vua lên toà. Khi tỉnh dậy, nhà vua kể chuyện đó lại với bày tôi và được sư Thiền Tuệ khuyên dựng chùa, dựng cột đá như trong chiêm bao, làm toà sen của Phật bà Quan Âm đặt trên cột như đã thấy trong mộng và cho các nhà sư đi vòng xung quanh tụng kinh cầu kéo dài sự phù hộ, vì thế chùa mang tên Diên Hựu.[1]

Hằng năm cứ đến ngày 8 tháng 4 Âm lịch, nhà vua lại tới chùa làm lễ tắm Phật. Các nhà sư và nhân dân kinh thành Thăng Long cùng dự lễ. Sau lễ tắm Phật là lễ phóng sinh, vua đứng trên một đài cao trước chùa thả một con chim bay đi, rồi nhân dân cùng tung chim bay theo trong tiếng reo vui của một ngày hội.

Đến năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho sửa ngôi chùa và cho dựng trước sân hai tháp lợp sứ trắng. Năm 1108, Nguyên phi Ỷ Lan sai đúc một cái chuông rất to, nặng một vạn hai nghìn cân, đặt tên là "Giác thế chung" (Quả chuông thức tỉnh người đời). Đây được xem là một trong tứ đại khí - bốn công trình lớn của Việt Nam thời đó - là: tháp Báo Thiên, chuông Qui Điền, vạc Phổ Minh và tượng Quỳnh Lâm. "Giác thế chung" đúc xong nặng quá không treo lên được, để dưới mặt đất thì đánh không kêu. Người ta đành bỏ chuông xuống một thửa ruộng sâu bên chùa Nhất Trụ, ruộng này có nhiều rùa, do đó có tên Quy Điền chuông (chuông ruộng rùa). Đến thế kỷ 15, giặc Minh xâm lược, chiếm thành Đông Quan (Hà Nội). Năm 1426 Lê Lợi đem nghĩa quân Lam Sơn ra đánh, vây thành rất gấp. Quân Minh thiếu vũ khí đạn dược, tướng Minh là Vương Thông bèn đem phá chuông Quy Điền lấy đồng. Quân Minh thua, nhưng chuông Quy Điền thì không còn nữa.

Văn bia tháp Sùng thiện diên linh (chùa Đọi, Hà Nam), năm 1121 viết: "Do lòng sùng kính đức Phật và dốc lòng mộ đạo nhân quả (đạo Phật) nên hướng về vườn Tây Cấm nổi danh (Ngôi vườn ở phía tây cấm thành Thăng Long đời Lý) mà xây ngôi chùa sáng Diên Hựu theo dấu vết chế độ cũ, cùng với ý mưu mới của nhà vua (ý nói: theo dấu vết lề lối xây dựng chùa đời Lý Thánh Tông, có thêm ý mới của Lý Nhân Tông mà chữa lại chùa đẹp hơn trước)".

Đến thời nhà Trần, chùa đã không phải là ngôi chùa đời nhà Lý nữa vì sách cũ đã ghi: Năm 1249, "...mùa xuân, tháng giêng, sửa lại chùa Diên Hựu, xuống chiếu vẫn làm ở nền cũ...".

Chùa Một Cột được trùng tu vào khoảng những năm 1840-1850 và vào năm 1922. Đài Liên Hoa chúng ta thấy hiện nay được làm lại năm 1955 do kiến-trúc-sư Nguyễn Bá Lăng đảm-nhiệm.

Thiền sư Huyền Quang (1254-1334) có một bài thơ về chùa Một Cột như sau:


Toàn cảnh chùa Một Cột延祐寺
上方秋夜一鐘闌 (蘭)
月色如波楓樹丹
鴟吻倒眠方鏡冷
塔光雙峙玉尖寒
萬緣不擾城遮俗
半點無憂眼放寬
參透是非平等相
魔宮佛國好生觀 Diên Hựu tự
Thượng phương thu dạ nhất chung lan
Nguyệt sắc như ba phong thụ đan
Si vẫn đảo miên phương kính lãnh
Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn
Vạn duyên bất nhiễu thành giá tục
Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan
Tham thấu thị phi bình đẳng tướng
Ma cung Phật quốc hảo sinh quan Nguyễn Huệ Chi dịch:
Đêm thu chùa thoảng tiếng chuông tàn
Phong đỏ, trăng ngời, sóng nguyệt lan
In ngược hình chim, gương nước lạnh
Sẫm đôi bóng tháp, ngón tiên hàn.
Muôn duyên chẳng vướng: xa trần tục
Một mảy nào lo: rộng nhãn quan
Thấu hiểu thị phi đều thế cả
Dầu ma dầu Phật, chốn nào hơn?

Cạnh chùa Một Cột ngày nay còn có một ngôi chùa có cổng tam quan, với ba chữ "Diên hựu tự", là ngôi chùa mới được xây dựng phụ vào với chùa Một Cột, xây khoảng đầu thế kỷ 18.

[Sửa] Kiến trúc

Không gian chung quanhTheo tài liệu lịch sử, lối kiến trúc một cột có từ trước đời nhà Lý. Ở Hoa Lư, Ninh Bình trong ngôi chùa con gái vua Đinh Tiên Hoàng, có một cây cột đá cao, sáu cạnh, khắc bài kinh Lăng Nghiêm, đề niên hiệu thời Lê Hoàn (981–1005). Phía trên cột là tòa sen chạm. Do vậy có thể nói "chùa Diên Hựu ở Hà Nội là bản sao y của chùa một cột ở Hoa Lư"[2][3]

Năm Long Thụy Thái Bình thứ năm đời Lý Thánh Tông (1058) có xây điện Linh Quang ở Thăng Long, phía trước điện dựng lầu chuông, một cột sáu cạnh hình bông sen. Như vậy, trước khi xây chùa Một Cột, lối kiến trúc đó đã là một thực tế nghệ thuật cổ truyền.

Ngôi chùa có kết cấu bằng gỗ, trong chùa đặt tượng Phật bà Quan Âm để thờ. Năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho mở rộng kiến trúc khu chùa có thêm hồ Linh Chiểu. Về sau, quy mô chùa Một Cột chỉ còn lại ngôi chùa nhỏ trên cột đá như hình ảnh hiện nay. Ðến cuối năm 1954 khi thi hành hiệp định Genève, quân đội Pháp chuẩn bị rút lui khỏi Hà Nội và miền Bắc Việt Nam thì có kẻ lạ mặt đặt thuốc nổ phá hủy chùa Một Cột ngày 11-9-1954 (rằm tháng tám ta). Liên Hoa Ðài bị phá hủy từ mặt sàn trở lên. Tuy nhiên, pho tượng Quan Âm nơi đây, vẫn ngồi y nguyên ở gần ngay đấy, chỉ bị rời mấy cánh tay gỗ chắp, ngày nay pho tượng vẫn còn được thờ trong chùa.

Sau đó, chính quyền Hà Nội cử chuyên viên Sở Bảo Tồn Cổ Tích Nguyễn Bá Lăng, nghiên cứu họa đồ và điều khiển công trường. Họa đồ đã được nghiên cứu căn cứ theo một ảnh chụp cũ khoảng cuối thế kỷ XIX của trường Viễn Ðông Bác Cổ. Vì là ảnh chụp lập diện (géométral) nên những kích thước cũ, chiều rộng, chiều cao, độ dốc mái kể cả chi tiết tầu đao, lan can được phục nguyên một cách chính xác. Cột đá đường kính 1m20 và bộ con sơn sóc nách bên dưới vẫn được giữ nguyên, còn bên trên bình đồ vuông nay được phục nguyên mỗi mặt rộng 4m20, chiều cao từ sàn đến diềm mái là 2m20. Chi tiết trang trí trên nóc mái là đôi rồng ngoảnh cổ lại chầu mặt nguyệt, là đặc điểm trang trí từ thời cuối Lê sang Nguyễn được đắp lại như cũ. Bốn góc mái đao được làm cong hớt lên hơn trước một ít. Những hình đắp trang trí trên bốn góc đao trong hình chụp không rõ vì đã hư mòn thì được đắp lại theo hình đầu rồng lá lật như kiểu cuối thời Lê, còn thấy khá phổ thông ở các kiểu kiến trúc cổ tại miền Bắc. Vách gỗ bao quanh cung thờ được làm theo kỹ thuật cổ truyền là vách nong đố gỗ. Lan can được làm con tiện và cái «vỉ ruồi« trang trí ở hai đầu hồi thì được chạm theo kiểu chép ở nhà thủy tạ chùa Tam Sơn, huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. Bên trong, phía sau bên trên bàn thờ Ðức Quan Thế Âm, được trang trí bằng một giải ván thượng diệp chạm lưỡng long chầu nguyệt dập theo một kiểu chạm gỗ ở đình làng Ðình Bảng (Bắc Ninh). Cũng ở đây bên trên giáp mái treo tấm bảng chữ Hán «Liên Hoa Ðài«. Tòa Liên Hoa đài này đã được dập kiểu để dựng trong vườn của một bảo tàng viện tại Varsovia (Ba Lan) nhưng theo tỷ lệ thu nhỏ ơ và thay thế cầu thang gạch bằng cầu thang gỗ.[4]

Chùa Một Cột hiện nay bao gồm đài Liên Hoa hình vuông, chiều dài mỗi cạnh 3 mét, mái cong, dựng trên cột cao 4 m (không kể phần chìm dưới đất), đường kính 1,20 m có cột đá là 2 khúc chồng lên nhau thành một khối. Tầng trên của cột là hệ thống những đòn gỗ làm giá đỡ cho ngôi đài ở trên. Đài Liên Hoa có mái ngói, bốn góc uốn cong, trên có lưỡng long triều nguyệt. Ngày nay không có những cánh sen trên cột đá như đã nói đến trong bia văn thời nhà Lý, nhưng ngôi chùa dựng trên cột vươn lên khỏi mặt nước vẫn là kiến trúc độc đáo, gợi hình tượng một bông sen vươn thẳng lên khu ao hình vuông được bao bọc bởi hàng lan can làm bằng những viên gạch sành tráng men xanh. Kiến trúc chùa xây dựng gần với kiến trúc nhà Hậu Lê.

Trong vườn chùa hiện có một cây bồ đề sum xuê từ đất Phật, do tổng thống Rajendra Prasad tặng nhân dịp Chủ tịch Hồ Chí Minh qua thăm Ấn Độ năm 1958.

[Sửa] Biểu tượng chùa Một Cột
Hình:5000xus.jpg
Chùa Một Cột ở mặt sau tiền kim loại 5000 đồngChùa Một Cột được xem là một trong những biểu tượng văn hóa của thủ đô Hà Nội[5][6][7] (Ngày nay 1/9/2004 Khuê Văn Các trong Văn Miếu - Quốc Tử Giám được chọn [8]). Tuy nhiên vào năm 2005 Ngân hàng Nhà nước đã chọn đồng tiền xu mệnh giá 5.000 đồng làm biểu trưng của Việt Nam để in trên con tem của cơ quan bưu chính Liên hợp quốc[9]. Họa sĩ Bùi Trang Chước còn thiết kế tiếp bộ tem "Chùa Một Cột" gồm 2 mẫu, phát hành ngày 22.12. 1957. Tem tết năm 2000 Canh Thìn, bưu chính Việt Nam kỷ niệm 990 năm Thăng Long, vẽ nền rồng vàng biểu tượng của thủ đô nghìn năm văn vật, trên đó là hình ảnh cách điệu các di tích lịch sử của đất Thăng Long như chùa Một Cột, cột cờ Hà Nội[10]. Tại quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh cũng có một phiên bản Chùa Một Cột, và gần đây một cán bộ thuộc cục Thuế TP HCM đã phục chế nguyên mẫu chùa Một Cột bằng gỗ dáng hương, hiến cúng cho Tỉnh Tiền Giang; Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc Tỉnh đã nhận được công văn số 1336/CV-TU ngày 09/4/08 của sở Văn Hoá Thông Tin về việc tiếp nhận ngôi chùa đó. Tại Ấn Độ, tiểu ban Bihar, hai ngôi chùa Việt Nam Phật Quốc Tự và Chùa Viên Giác cũng được xây dựng chùa Một Cột với kích thước lớn hơn. Đầu năm 2008, để lôi cuốn khách du lịch tại Chieng Mai miền bắc Thái Lan cũng đã xây dựng hoàn tất một ngôi chùa Một Cột, đồng thời rất nhiều tờ báo, cơ sở văn hóa, trang web, trong logo và biểu tượng của họ có biểu tượng chùa Một Cột. Có thể nói chùa Một Cột là biểu tượng văn hóa Việt Nam trong nhiều thế kỷ và cho đến ngày nay, và khi người nước ngoài nhìn thấy chùa Một Cột là biết ngay nó có liên quan đến Việt Nam.

[Sửa] Chùa Nam Thiên Nhất Trụ
Ngoài chùa Một Cột ở Hà Nội được xây dựng đời nhà Lý đầu thế kỷ XI, thì ở Thành phố Hồ Chí Minh có chùa Nam Thiên Nhất Trụ (Trời Nam một trụ) gọi nôm na là chùa Một Cột. Chùa tọa lạc ở đường Đặng Văn Bi, quận Thủ Đức Thành phố Hồ Chí Minh.

Chùa do Hòa thượng Thích Trí Dũng dựng vào 8 tháng 4 năm 1958. Kiến trúc sư Nguyễn Gia Đức vẽ thiết kế, chùa được hoàn tất vào năm 1977.

Xây dựng chùa này cốt để các tín ngưỡng phương Nam chiêm ngưỡng lễ Phật, nhớ về cội nguồn tổ tiên, hun đúc hy vọng quốc thái dân an, quê hương hưng thịnh.

Trụ chùa "Nam Thiên nhất trụ" đúc vĩnh cửu bằng xi măng cốt thép. Mái lợp ngói uốn cong như chùa Một Cột Hà Nội
 
V

vuchicuong92

THỦ ĐÔ HÀ NỘI

Hà Nội nằm ở vị trí trung tâm đồng bằng Bắc Bộ. Hà Nội có diện tích 3.324,92 km², dân số 6,233 triệu (2008) ,khoảng cách dài nhất từ phía bắc xuống phía nam là trên 50km và chỗ rộng nhất từ tây sang đông 30 km. Điểm cao nhất là núi Chân Chim: 462 m (huyện Sóc Sơn); nơi thấp nhất thuộc xã Gia Thụy (huyện Gia Lâm) 12 m so với mặt nước biển. Hà Nội nằm hai bên bờ sông Hồng, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ trù phú và nổi tiếng từ lâu đời, Hà Nội có vị trí và địa thế đẹp, thuận lợi để trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học và đầu mối giao thông quan trọng của cả nước.

Trong những năm qua, nền kinh tế Thủ đô Hà Nội cùng cả nước đạt được nhiều chuyển biến tích cực. Với chính sách mở cửa, tăng cường hội nhập nền kinh tế quốc gia vào đời sống kinh tế khu vực và quốc tế, các hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam có nhiều khởi sắc. Đặc biệt, ngành du lịch đã phát triển rất nhanh và trở thành một ngành kinh tế quan trọng của cả nước nói chung cũng như Hà Nội nói riêng.

Ngoài chức năng hành chính, chính trị, kinh tế và văn hoá, Hà Nội còn là một trung tâm du lịch có sức hấp dẫn của cả nước. Du lịch là một trong nhiều thế mạnh của Thủ đô.

Hà Nội, thành phố với bề dầy lịch sử ngàn năm văn hiến chứa đựng tiềm năng du lịch to lớn vị trí Thủ đô của Hà Nội có ý nghĩa đặc biệt đối với việc phát triển du lịch. Nằm ở trung tâm Bắc Bộ, giữa vùng đồng bằng châu thổ màu mỡ với kết cấu hạ tầng tương đối phát triển, thành phố có nguồn tài nguyên du lịch tiềm tàng, đặc biệt là tài nguyên văn hoá - lịch sử.

Trải qua bao biến động thăng trầm Hà Nội lưu giữ được nhiều di tích văn hoá - lịch sử có giá trị đối với hoạt động du lịch. Các di tích lịch sử, nghệ thuật, kiến trúc tạo thành bộ sưu tập quý giá trong kho tàng di sản văn hoá của Việt Nam.

Cho đến nay, Hà Nội có trên 300 di tích được công nhận di tích lịch sử văn hoá (trong khoảng 2000 di tích trên địa bàn), đứng đầu cả nước về số di tích được xếp hạng, mật độ trung bình 2 di tích/km2. Nhiều loại di tích có ý nghĩa lịch sử gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước (thành Cổ Loa với sự tích An Dương Vương, khu di tích Sóc Sơn gắn với truyền thuyết chống giặc Ân của Phù Đổng Thiên Vương, khu di tích về cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh...), Hà Nội vẫn còn lưu giữ nhiều công trình kiến trúc cổ, gồm hơn 600 ngôi chùa và khu phố cổ. Bên cạnh các công trình kiến trúc cổ còn có nhiều công trình mới được xây dựng như Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, cung Văn hoá Hữu Nghị... cùng hệ thống các viện bảo tàng và nhà hát phong phú, đa dạng (bảo tàng Hồ Chí Minh, bảo tàng Hà Nội, bảo tàng Lịch sử, bảo tàng Cách Mạng...). Tiềm năng du lịch Hà Nội còn thể hiện ở các hoạt động văn hoá - văn nghệ dân gian, nghệ thuật múa rối nước là loại hình sân khấu dân tộc độc đáo hấp dẫn khách du lịch nước ngoài muốn tìm hiểu nền nghệ thuật truyền thống Việt Nam, các lễ hội truyền thống (hội Lệ Mật, hội Triều Khúc...), các làng nghề truyền thống (đúc đồng Ngũ Xã, gốm sứ Bát Tràng, Cốm Vòng....). ẩm thực Hà Nội được du khách trong nước và thế giới đánh giá cao (Phở bò, Chả cá Lã Vọng, bánh cuốn Thanh Trì, Giò chả...).
Hà Nội đặc biệt với “mùa thu vàng” đã làm rung động biết bao tâm hồn thi sĩ... Hà Nội còn được gọi là thành phố “xanh” với các hàng cây thuốc nhiều loại khác nhau như xà cừ, bàng, sấu, phượng, hoa sữa... trải khắp phố phường xanh cả bốn mùa. Trên 300 vườn hoa, công viên và thảm cỏ cùng hệ thống tượng đài, các bể phun nước càng làm tăng thêm vẻ đẹp của Thủ đô. Nói đến Hà Nội không thể nói đến vẻ đẹp của hệ thống sông hồ. Dòng sông Hồng như dải lụa vắt ngang thành phố, hai bên bờ sông có biết bao di tích mà du khách có thể ghé thăm nếu đi du lịch bằng đường thuỷ. Những hồ đẹp và tiêu biểu của Hà Nội là Hồ Tây, Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Thuyền Quang, Hồ Trúc Bạch gắn với huyền thoại thiêng liêng giữ nước của dân tộc Việt Nam.

Ngoài ra, xung quanh Hà Nội trong bán kính 100 cây số có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp như rừng Cúc Phương, động Hương Tích, núi Tam Đảo, đền Hùng, Hoa Lư... Những điểm du lịch này kết hợp với Hà Nội thành vùng du lịch hấp dẫn và Hà Nội trở thành một đầu mối cho toàn vùng.

Có thể nói, một quần thể du lịch phụ cận bao quanh thủ đô cấu thành một Hà Nội phong phú, đa dạng về tiềm năng du lịch, xứng đáng là một trung tâm du lịch lớn của cả nước. Hà nội có nhiều danh thắng nổi tiếng, nhiều đặc sản và hàng thủ công mỹ nghệ với bản sắc riêng. Người Tràng An nổi tiếng duyên dáng và thanh lịch. Với tiềm năng ấy, cộng với một nền văn hoá đậm đà chất Á Đông, du lịch Hà Nội chắc chắn hấp dẫn khách trong nước và quốc tế.

Hà Nội là đầu mối giao thông quan trọng của cả nước, là nơi hội tụ của 6 tuyến đường sắt, 8 tuyến đường bộ và đường hàng không. Hệ thống giao thông này là cầu nối Thủ đô với các tỉnh trong nước và thế giới.

Hà Nội là đầu mối giao thông đường sắt quan trọng, lớn nhất cả nước. Hội tụ về đây có 6 tuyến đường chính: Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội - Lạng Sơn, Hà Nội - Thái Nguyên, Hà Nội - Lào Cai, Hà Nội - Uông Bí. Mạng lưới đường sắt góp phần không nhỏ trong việc phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô.
 
V

vuchicuong92

THỦ ĐÔ HÀ NỘI

Hà Nội nằm ở vị trí trung tâm đồng bằng Bắc Bộ. Hà Nội có diện tích 3.324,92 km², dân số 6,233 triệu (2008) ,khoảng cách dài nhất từ phía bắc xuống phía nam là trên 50km và chỗ rộng nhất từ tây sang đông 30 km. Điểm cao nhất là núi Chân Chim: 462 m (huyện Sóc Sơn); nơi thấp nhất thuộc xã Gia Thụy (huyện Gia Lâm) 12 m so với mặt nước biển. Hà Nội nằm hai bên bờ sông Hồng, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ trù phú và nổi tiếng từ lâu đời, Hà Nội có vị trí và địa thế đẹp, thuận lợi để trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học và đầu mối giao thông quan trọng của cả nước.

Trong những năm qua, nền kinh tế Thủ đô Hà Nội cùng cả nước đạt được nhiều chuyển biến tích cực. Với chính sách mở cửa, tăng cường hội nhập nền kinh tế quốc gia vào đời sống kinh tế khu vực và quốc tế, các hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam có nhiều khởi sắc. Đặc biệt, ngành du lịch đã phát triển rất nhanh và trở thành một ngành kinh tế quan trọng của cả nước nói chung cũng như Hà Nội nói riêng.

Ngoài chức năng hành chính, chính trị, kinh tế và văn hoá, Hà Nội còn là một trung tâm du lịch có sức hấp dẫn của cả nước. Du lịch là một trong nhiều thế mạnh của Thủ đô.

Hà Nội, thành phố với bề dầy lịch sử ngàn năm văn hiến chứa đựng tiềm năng du lịch to lớn vị trí Thủ đô của Hà Nội có ý nghĩa đặc biệt đối với việc phát triển du lịch. Nằm ở trung tâm Bắc Bộ, giữa vùng đồng bằng châu thổ màu mỡ với kết cấu hạ tầng tương đối phát triển, thành phố có nguồn tài nguyên du lịch tiềm tàng, đặc biệt là tài nguyên văn hoá - lịch sử.

Trải qua bao biến động thăng trầm Hà Nội lưu giữ được nhiều di tích văn hoá - lịch sử có giá trị đối với hoạt động du lịch. Các di tích lịch sử, nghệ thuật, kiến trúc tạo thành bộ sưu tập quý giá trong kho tàng di sản văn hoá của Việt Nam.

Cho đến nay, Hà Nội có trên 300 di tích được công nhận di tích lịch sử văn hoá (trong khoảng 2000 di tích trên địa bàn), đứng đầu cả nước về số di tích được xếp hạng, mật độ trung bình 2 di tích/km2. Nhiều loại di tích có ý nghĩa lịch sử gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước (thành Cổ Loa với sự tích An Dương Vương, khu di tích Sóc Sơn gắn với truyền thuyết chống giặc Ân của Phù Đổng Thiên Vương, khu di tích về cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh...), Hà Nội vẫn còn lưu giữ nhiều công trình kiến trúc cổ, gồm hơn 600 ngôi chùa và khu phố cổ. Bên cạnh các công trình kiến trúc cổ còn có nhiều công trình mới được xây dựng như Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, cung Văn hoá Hữu Nghị... cùng hệ thống các viện bảo tàng và nhà hát phong phú, đa dạng (bảo tàng Hồ Chí Minh, bảo tàng Hà Nội, bảo tàng Lịch sử, bảo tàng Cách Mạng...). Tiềm năng du lịch Hà Nội còn thể hiện ở các hoạt động văn hoá - văn nghệ dân gian, nghệ thuật múa rối nước là loại hình sân khấu dân tộc độc đáo hấp dẫn khách du lịch nước ngoài muốn tìm hiểu nền nghệ thuật truyền thống Việt Nam, các lễ hội truyền thống (hội Lệ Mật, hội Triều Khúc...), các làng nghề truyền thống (đúc đồng Ngũ Xã, gốm sứ Bát Tràng, Cốm Vòng....). ẩm thực Hà Nội được du khách trong nước và thế giới đánh giá cao (Phở bò, Chả cá Lã Vọng, bánh cuốn Thanh Trì, Giò chả...).
Hà Nội đặc biệt với “mùa thu vàng” đã làm rung động biết bao tâm hồn thi sĩ... Hà Nội còn được gọi là thành phố “xanh” với các hàng cây thuốc nhiều loại khác nhau như xà cừ, bàng, sấu, phượng, hoa sữa... trải khắp phố phường xanh cả bốn mùa. Trên 300 vườn hoa, công viên và thảm cỏ cùng hệ thống tượng đài, các bể phun nước càng làm tăng thêm vẻ đẹp của Thủ đô. Nói đến Hà Nội không thể nói đến vẻ đẹp của hệ thống sông hồ. Dòng sông Hồng như dải lụa vắt ngang thành phố, hai bên bờ sông có biết bao di tích mà du khách có thể ghé thăm nếu đi du lịch bằng đường thuỷ. Những hồ đẹp và tiêu biểu của Hà Nội là Hồ Tây, Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Thuyền Quang, Hồ Trúc Bạch gắn với huyền thoại thiêng liêng giữ nước của dân tộc Việt Nam.

Ngoài ra, xung quanh Hà Nội trong bán kính 100 cây số có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp như rừng Cúc Phương, động Hương Tích, núi Tam Đảo, đền Hùng, Hoa Lư... Những điểm du lịch này kết hợp với Hà Nội thành vùng du lịch hấp dẫn và Hà Nội trở thành một đầu mối cho toàn vùng.

Có thể nói, một quần thể du lịch phụ cận bao quanh thủ đô cấu thành một Hà Nội phong phú, đa dạng về tiềm năng du lịch, xứng đáng là một trung tâm du lịch lớn của cả nước. Hà nội có nhiều danh thắng nổi tiếng, nhiều đặc sản và hàng thủ công mỹ nghệ với bản sắc riêng. Người Tràng An nổi tiếng duyên dáng và thanh lịch. Với tiềm năng ấy, cộng với một nền văn hoá đậm đà chất Á Đông, du lịch Hà Nội chắc chắn hấp dẫn khách trong nước và quốc tế.

Hà Nội là đầu mối giao thông quan trọng của cả nước, là nơi hội tụ của 6 tuyến đường sắt, 8 tuyến đường bộ và đường hàng không. Hệ thống giao thông này là cầu nối Thủ đô với các tỉnh trong nước và thế giới.

Hà Nội là đầu mối giao thông đường sắt quan trọng, lớn nhất cả nước. Hội tụ về đây có 6 tuyến đường chính: Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội - Lạng Sơn, Hà Nội - Thái Nguyên, Hà Nội - Lào Cai, Hà Nội - Uông Bí. Mạng lưới đường sắt góp phần không nhỏ trong việc phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô.
 
Top Bottom