Dưới đây là một bài mẫu, (ghi chú: không phải của mình) bạn có thể tham khảo:
Trong cái bóng văn hoá phong kiến, thân phận người phụ nữ khổ nhục vì hủ nho
Những ngày tháng cũ nơi quê xưa, trai tráng làng tôi rất muốn làm theo mấy ý thơ của Nguyễn Xuân Sanh: "Cô gái Việt Nam ơi, từ buổi sơ sinh lận đận rồi. Tôi muốn nạm muôn vàn khổ cực, cho lòng cô gái Việt Nam vui".
Cách mạng bùng lên, nước nhà độc lập, thân phận người phụ nữ được giải phóng, bình đẳng cùng nam giới, đứng lên “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”.
Giờ đây, nhìn những gương mặt rạng rỡ của người phụ nữ trên mọi cương vị, trên các diễn đàn đây đó nơi các chân trời xa xứ, trên từng góc cạnh nhỏ của quê hương, tôi không khỏi chạnh lòng, bùi ngùi nhớ lại cảnh ngộ của bà, mẹ, cô, dì, vợ và em gái hay những người yêu ta xưa, sao mà tội tình thế. Thử hồi tưởng lại qua ca dao, hò vè, nói về thân phận nữ giới.
Trong cái bóng văn hoá phong kiến cổ hủ từ phương Bắc chụp xuống theo sau các đội quân xâm lược, thân phận người phụ nữ khổ nhục vì hủ nho: "trọng nam khinh nữ"; truyền khẩu tục ngữ như: “nữ sinh ngoại tộc” tức con sinh ra là gái thì kể như bị đặt ra ngoài giòng họ, hay hôn nhân sinh con thì “nhất nam viết hữu thập nữ viết vô”, sinh đến 10 con gái cũng kể như không sinh. Cũng vì tư duy áp đặt này đã tạo nên cảnh “làm trai năm thê bảy thiếp, đàn bà thì chí quyết một bề nuôi con”. Hủ nho cũng đề ra án lệ “tứ đức tam tòng” để khống chế người phụ nữ, phải có tứ đức là “công, dung, ngôn, hạnh” và tam tòng là “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Tòng phụ là cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, tòng phu là phu xướng phụ tùy...
Đi mô cho thiếp đi cùng,
Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam
Hay
Lấy chồng thì phải theo chồng,
Chồng đi hang rắn hang rồng cũng theo
Đến khi chồng chết còn phải tòng tử: ở mãi một mình mà thờ chồng, nuôi con. Đã có nhiều thế hệ con gái bị động buông trôi số phận:
Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
Trong tình yêu và hôn nhân, thân phận của họ thật quá tội nghiệp.
Thầy với mẹ thương anh,
Em phải thương theo
Giả như chiếc tàu buồm đang chạy
Thả neo cũng phải ngừng
Cũng trong dòng văn học hủ nho đó, chữ nghĩa Hán - Nôm cũng chen vào ca dao, hò vè, những bà mẹ quê hát ru con với câu thơ Hán.
Thiên sinh nhơn, hà thiên sinh lộc
Địa sinh thảo, hà thảo mộc vô căn
Một mình em đứng giữa lòng thuyền
dưới nước trên trăng
Không biết ai vô đây mà trao duyên gởi nợ,
cho bằng thế gian
Tuổi thanh xuân gái còn đã mơ hồ trong chuyện lứa đôi, đến khi thành gia thất nếu mà chẳng may 12 bến nước, gặp “bến đục” thì còn phải kêu than tiếp:
Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp
Em qua không kịp tội lắm anh nờ
Đạo vợ chồng là nghĩa phu thê
Cớ làm sao anh cứ xăm xăm đi mãi chẳng chịu chờ đợi em?
Hoặc còn khổ hơn nữa
Đêm năm canh anh mê tam cúc yên lượng (một cụm từ chỉ môn đánh lú)
Ngày sáu khắc anh theo tướng, sĩ, tượng, pháo, xe
Cơi khi thiếp nói chàng nghe
Đến mỗi mô nay chừ chừ
Tay bưng nón gạo, tay xách bó củi nè thảm chưa.
Thơ Hán - Nôm còn được vận dụng vào hát ru con, diễn tả tâm trạng mỏi mòn của thân phận phụ nữ, mang tính đối vế.
Mẹ thương con ra ngồi cầu Ái Tử
Vợ thương chồng lên đứng núi Vọng Phu
Chiều chiều bóng xế, trăng lu
Nghe con ve kêu mùa hạ, biết mấy thu mới gặp chàng...
Khổ mãi theo mấy chữ “tòng”, nên người con gái sau khi về phụng dưỡng nhà chồng chỉ còn biết.
Chiều chiều ra đứng ngả sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều
Một cách “chơi chữ” của giới bình dân “chiều chiều” là khái niệm thời gian đối với “chín chiều” là khái niệm tâm sinh lý. Cũng như một dòng tám chữ thành ngữ: “Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn” cũng có tới ba vế đối. Ướt đối với ráo, mẹ đối với con và nằm đối với lăn, rất chỉnh. Một thân phận bị hẩm hiu bất công nhưng người phụ nữ vẫn kiên trì.
Khó thời đòn gánh đè vai
Lần hồi nuôi mẹ mặc ai chê cười
Qua đó, cho thấy trong tủi nhục cũng văn hoa được, qua đau thương vẫn có ý sống để mà vượt thoát và khi có thể, cơ hội đến thì họ đã vùng dậy tạo thế đứng sánh vai cùng nam giới, hiên ngang mà tươi xinh, dịu hiền mà quyết liệt.