bài viết số 3-Hình ảnh người phụ nư trong ca dao

T

toi0bix

MB: Giới thiệu chung về những câu ca dao giúp chúng ta hiểu rõ hơn về hoàn cảnh những người phụ nữ trong xã hội pk .
TB:Trong xã hội ấy ,họ bị tước đi quyền cơ bản của con người ,họ biến thành nô lệ cho những luật lệ ,những ràng buộc nghiêm khắc của lễ giáo pk,những quan niệm cổ hủ lạc hậu .Họ ko có quyền quyết định số phận mình mà họ phụ thuộc hoàn toàn vào người khác bởi qui định "tam tòng" quá nghiêm khắc của Nho giáo .....Những sự ràng buộc kéo theo bao nhiêu nỗi bất hạnh của người phụ nữ ,chính vì thế ,họ cất tiêgns hát than thở về thân phận mình :
thân em như tấm lụa đào
phất phơ giữa chợ biết vào tay ai ...
_lấy dẫn chứng thêm 1--2 câu ca dao mở đầu = "thân em",sau đó phân tích 1 chút để rút ra kết luận :Họ tự khẳng định giá trị của bản thân ,nhưng phải chịu cuộc sống bất hạnh khổ đau ,nếu may mắn thì đc ở chỗ hạnh phúc ,còn không sẽ rơi vào chốn lao đao ........
Bạn có thể tham khảo thêm 1 số câu ca dao sau :
Lấy chồng từ thuở mười ba
Đến nay mười sáu ,thiếp đà năm con
hay:
Ra đường thiếp hãy còn son
Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng
....
Rồi ,quan niệm "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy " đã tước đi quyền hạnh phúc của biết bao nhiêu cô gái .Những bất trắc ,lo âu của họ được gửi gắm trong những câu ca dao đầy tâm sự:
Hòn đá đóng rong vì hòn nước chảy
Hòn đá bạc đầu vì bởi sương sa
Em thương anh không dám nói ra
Sợ mẹ bằng đất ,sợ cha bằng trời
Em với anh cũng muốn kết đôi
Sợ vầng mây bạc trên trời mau tan
..........<phân tích 1 số ý >..................
KL: Khẳng định sự thiệt thòi của người phụ nữ do xã hội pk đưa đẩy ntn ? So sánh với ngày nay ,người phụ nữ ngày càng khẳng định vị trí của mình trong XH...Chúng ta đã loại bỏ dần những quan niệm lạc hậu ko phù hợp...........
 
S

siengnangnhe

Ca dao là khúc hát tâm tình của người dân quê Việt Nam được lưu truyền qua bao năm tháng.Nó bồi đắp tâm hồn ta từ những ngày thơ bé qua lời ru êm đềm của bà của mẹ. Nó rực rỡ, thơm ngát như bông sen trong đầm, gần gũi, quen thuộc như luỹ tre bao bọc xóm làng, như cánh cò bay lả trên ruộng đồng. Nó bồi đắp tâm hồn ta từ những ngày thơ bé qua lời ru của bà của mẹ, giúp ta cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp bình yên nơi thôn quê, nỗi nhọc nhằn cũng như vẻ đẹp khoẻ khoắn của người lao động, tình cảm gia đình thắm thiết, nghĩa vợ chồng tao khang của những con người quê chân chất, mộc mạc.


Trong thế giới đó, lắng sâu hơn cả vẫn là hình ảnh của những người phụ nữ xưa – đau khổ, cay đắng đến cùng cực nhưng cũng đẹp đẽ, cao quý đến vô ngần. Có thể nói, ca dao đã làm tròn sứ mệnh của nó trong việc lưu giữ những nỗi lòng của người phụ nữ bình dân xưa và mang đến cho ta cái nhìn toàn diện về họ, trong khổ đau cũng như những vẻ đẹp tâm hồn ngời sáng.

Xã hội phong kiến phụ quyền tồn tại hàng nghìn năm với những quan niệm bất công, khe khắt “tại gia tong phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tong tử”, quan niệm trọng nam khinh nữ “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, đã dành mọi ưu tiên, ưu đãi cho người đàn ông và đẩy người phụ nữ xuống địa vị thấp kém nhất trong gia đình cũng như xã hội. Nỗi niềm ấy được họ gửi gắm vào những câu ca dao than thân:

- “Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

- “Thân em như hạt mưa sa

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”

- “Thân em như chổi đầu hè

Phòng khi mưa gió đi về chùi chân

Chùi rồi lại vứt ra sân

Gọi người hàng xóm có chân thì chùi”

Có biết bao nhiêu nỗi khổ mà người phụ nữ phải chịu đựng, nỗi khổ vật chất “ngày ngày hai buổi trèo non”, “ngày thì dãi nắng đêm thì dầm sương”. Nhưng nỗi khổ lớn nhất, xuất hiện với tần số cao nhất vẫn là nỗi khổ về tinh thần, nỗi khổ của thân phận mong manh, bị động, ít giá trị. Những người phụ nữ ở đây bị “đồ vật hoá”, được định giá theo giá trị sử dụng. Thân phận họ chỉ được ví với “hạy mưa sa”, “chổi đầu hè”...Ta có thể cảm nhận được bao nỗi xót xa của người phụ nữ khi cất lên những lời ca ấy. Không phải người phụ nữ không ý thức được vẻ đẹp và phẩm giá đáng quý của mình. Họ luôn ví mình với “tấm lụa đào”, “giếng nước trong”...nhưng những phẩm chất ấy đâu có được xã hội , người đời biết đến và coi trọng. Cả đời họ chỉ lầm lũi, cam chịu trong sự đau khổ, nhọc nhằn. Và dường như sự bất hạnh ấy của người phụ nữ trong xã hội xưa là một hằng số chung, ở tất cả các vùng miền. Người phụ nữ dân tộc Thái cũng từng đau đớn thốt lên: “Thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa, con chão chuộc thôi”.

Có ai đó đã nói, nếu dùng một từ để nói về số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến thì đó là “tủi nhục”. Quãng thời gian họ sống trên đời được đong đếm bằng những nỗi đau khổ mà họ phải gánh chịu. Khi còn nhỏ, sống trong gia đình, người thiếu nữ đã phải chịu sự bất công của quan niệm “trọng nam khinh nữ”:

- “Cô kia cắt cỏ đồng màu

Chăn trâu cho béo làm giàu cho cha

Giàu thì chia bày chia ba

Phận cô là gái được là bao nhiêu”

- “Em như quả bí trên cây

Dang tay mẹ bứt những ngày còn non”

Khi đi lấy chồng, họ còn chịu thêm trăm điều cay cực. Quan niệm “xuất giá tòng phu”, “lấy chồng làm ma nhà chồng” đã khiến bao người phụ nữ xa quê phải ngậm ngùi nuốt đắng cay, thấm thía nỗi buồn, nhớ khi nghĩ về quê mẹ:

- “Chiều chiều ra đứng bờ sông

Muốn về với mẹ mà không có đò”

- “Chiều chiều ra đứng ngõ sau

trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”

- “Chiều chiều xách giỏ hái rau

Ngó lên mả mẹ ruột đau như dần”

Nhớ nhà nhớ mẹ mà không được về, những người đi làm dâu còn phải chịu sự đày đoạ của gia đình nhà chồng, đặc biệt là mẹ chồng. Trong chế độ cũ, những người mẹ chồng xưa kia thường là “nỗi kinh hoàng” của những nàng dâu vì xã hội phog kiến với quan niệm hôn nhân gả bán cho phép người ta “mua” vợ cho con khác nào mua người lànm không công, trả cái nợ đồng lần mà chính người mẹ chồng trước đây phải gánh chịu:

- “Tiếng đồn cha mẹ anh hiền

Cắn cơm không vỡ cắn tiền vỡ tan”

- “Trách cha, trách mẹ nhà chàng

Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau

Thực vàng chẳng phải thau đâu

Đừng đem thử lửa mà đau lòng vàng”


Trong hoàn cảnh ấy đại đa số những người phụ nữ phải cam chịu, nín nhịn nhưng cũng có trường hợp, người con dâu tỏ thái độ phản kháng có phần quyết liệt, cô “đội nón về nhà mình” dẫu biết hành động ấy sẽ bị lên án, bị không ít tiếng thị phi, cay độc vì trong xã hội xưa còn gì đáng sợ hơn bằng tội “trốn chúa, lộn chồng”:




“Cô kia đội nón đi đâu

Tôi là phận gái làm dâu mới về

Mẹ chồng ác nghiệt đã ghê

Tôi ở chẳng được, tôi về nhà tôi”



Sở dĩ họ phải phản kháng là do không còn nơi để bấu víu, tựa nương. Mẹ chồng đã vậy, lại còn chịu thêm nỗi khổ của “cảnh chồng chung”. Xã hội phong kiến cho phép “trai quân tử năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng” đã gây ra bao cảnh đau lòng. Nhân dân hướng về những người vợ lẽ - những người chịu nhiều thua thiệt hơn cả để cảm thông, để lắng nghe những tiếng giãi bày xót xa, cay đắng:

- “Lấy chồng làm lẽ khổ thay

Đi cấy đi cày chị chẳng kể công

Tối tối chị giữ mất chồng

Chị cho manh chiếu, nằm không chuồng bò

Mong chồng chồng chẳng xuống cho

Đến khi chồng xuống, gà o o gáy dồn

Chém cha con gà kia, sao mày vội gáy dồn

Để tao mất vía kinh hồn về nỗi chồng con”

- “Thân em làm lẽ chẳng nề

Có như chính thất, ngồi lê giữa đường”

Khao khát của người phụ nữ ở đây không phải là cái khao khát mang tính chất bản năng thuần tuý mà là những khát khao hạnh phúc chính đáng nhất của một con người. Vì thế họ đã nhắn nhủ nhau:

- “Đói lòng ăn nắm lá sung

Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng”

- “Chồng con là cái nợ nần

Thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm”.


Nhưng dù sống trong bất hạnh, tâm hồn người phụ nữ vẫn sáng lên lấp lánh ánh sáng của trái tim đôn hậu, cao thượng, vị tha. Từ trong khổ đau, bất hạnh, từ trong tiếng hát than thân đầy tủi cực, tâm hồn trung hậu, đẹp đẽ, thuỷ chung của người phụ nữ vẫn vươn lên, toả sáng khiến cho tiếng hát than thân kia không mang vẻ bi luỵ mà vẫn toả sáng, ấm áp tình đời, tình người. Ca dao đã phản ánh đầy đủ những vẻ đẹp đó của họ - những con người thuỷ chung son sắt, giàu nghĩa tình.

Quên đi những nhọc nhằn, vất vả của cuộc sống lao động, những người phụ nữ bình dân ấy cũng có những phút giây sống cho cảm xúc riêng tư, cũng trải qua các cung bậc nhớ nhung của một trái tim mới yêu:

- “Gió sao gió mát sau lưng

Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này”

- “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

Có cô gái thì hồn nhiên, tinh nghịch. Họ không quá câu nệ như các cô gái khuê phòng:

Ước gì sông rộng một gang

Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi”



Cũng có khi thật tế nhị, ý ứ, nết na:

“Sáng ngày tôi đi hái dâu

Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn

Hai anh đứng dậy hỏi han

Hỏi rằng cô ấy vội vàng đi đâu

Thưa rằng tôi đi hái dâu

Hai anh mở túi đưa trầu mời ăn

Thưa rằng bác mẹ tôi răn

Làm thân con gái chớ ăn trầungười”


Họ biết đề cao tình yêu thương, lòng chung thuỷ:

- “Trăng tròn chỉ một đêm rằm

Tình duyên chỉ hẹn một lần mà thôi”

- “Muối ba năm muối đang còn mặn

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay

Đạo cương thường chớ đổi đừng thay

Dẫu có làm nên danh vọng hay rủi có ăn mày ta cũng theo nhau”


Người phụ nữ đảm đang, vị tha, chung thuỷ đã thể hiện cảm nghĩ của một cách giản dị mà vẫn có sức cuốn hút lạ thường. Cả khi khó khăn họ vẫn nhẫn nại:

- “Chồng em áo rách em thương

Chồng người áo gấm , sông hương mặc người”

- “Râu tôm nấu với ruột bầu

Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”

Chỉ những lời ca ngắn ngủi mà chất chứa trong đó bao ý tình sâu xa. Đó là lời nhắn nhủ của những người phụ nữ trọn nghĩa vẹn tình. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ vẫn đồng cam cộng khổ cùng chồng, xây dựng một gia đình đầm ấm yên vui.


Ở thời nào cũng vậy, vẻ đẹp của người phụ nữ như một hằng số, bất biến ngàn đời. Đó là sự nhẫn nại, cam chịu, là sự thuỷ chung son sắt. Dù bao khổ đau, bất hạnh vẫn không thể vùi lấp được những vẻ đẹp đó. Nó như những viên ngọc thô mà thời gian, những bất hạnh khổ đau là chất xúc tác mài giũa, càng ngày càng toả sáng lấp lánh.

Văn học, nghệ thuật ngày nay cũng rất chú ý đến việc lưu giữ những vẻ đẹp của người phụ nữ. Nhưng những làn điệu dân ca từ thuở sơ khai vẫn chính là kho tàng vô giá lưu giữ trọn vẹn nhất về những con người kì lạ ấy: càng trong đau khổ lại càng ngời sáng, thanh cao.

Sẽ còn mãi lắng đọng trong tâm hồn những người dân đất Việt hình ảnh những người phụ nữ sáng lấp lánh trong những câu ca dao tự ngàn xưa.
 
Top Bottom