Bài Văn tham khảo.

C

conu

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Dưới đây là bài Văn viết tham khảo khá hay về tác phẩm "Rừng xà nu" của Nguyên Ngọc. Mong các bạn đóng góp thêm những bài viết tham khảo có chất lượng cho box Văn, chân thành cảm ơn!

Đề bài:
Phân tích hình tượng cây xà nu trong truỵên ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.

Bài làm:
Gió thổi qua cánh rừng xào xạc. Bao giờ cũng vậy, gió thổi làm tâm hồn ta thêm trong sáng và tươi mát hơn. Gió lại thổi qua cánh “rừng xà nu” đau thương, quả cảm của Nguyễn Trung Thành. Gió ơi, gió hãy thổi nữa đi để hồn ta cảm nhận thêm sâu sắc, hình tượng cây xà nu trong khói lửa của một cuộc chiến tranh.

Xà nu, tùng, bách hay phi lao? Đã có biết bao thi sĩ mượn hình ảnh của cây này để biểu đạt lòng mình. Ta như vừa thoát khỏi thế giới bồng bềnh êm dịu và mình ta còn bám đầy “phấn thông vàng” của Xuân Diệu. Cây thông độ lượng đêm Giáng sinh có ông già Nôen phát quà bánh cho em nhỏ dưới ánh sáng lung linh. Và giờ đây ta lại gặp hình tượng cây xà nu.
Xà nu! Cái tên thân thuộc gắn với dân làng Xô man tự bao đời. Và cũng không biết từ bao giờ ai đã trồng và đặt tên đó là cây xà nu để chúng thành bãi, thành rừng đến hôm nay. Xà nu! Cái tên ấy dường như có cùng với sự xuất hiện dân làng Xô man bởi vì xà nu và người dân là một, xà nu là một biểu tượng cho dân làng chốn rừng núi Tây Nguyên này.

Quả thật như vậy, gần hai mươi lăm lần nhà văn nhắc đến “xà nu” bằng thứ ngôn ngữ giàu chất thơ và cảm xúc say mê mãnh liệt. Xà nu biết căm giận, biết quật khởi và khát khao mãnh liệt cuộc sống di truyền cho con cháu mai sau. Cả một thiên truyện dài đều có cây xà nu. Xà nu mọc thành rừng, xà nu làm đuốc soi đường cho Dít giã gạo, xà nu làm lửa thổi cơm cho dân làng và nó cũng làm cháy sáng mười đầu ngón tay của Tnú. Xà nu đi vào cuộc sống chân chất đời thường và lao vào cuộc chiến đấu một mất một còn của dân tộc. Xà nu là nhân chứng của bản anh hùng ca hào hùng quật khởi của một thời đại đầy bão tố khốc liệt trong chiến tranh giải phóng dân tộc, chống Mĩ ngụy của nhân dân Tây Nguyên và đồng bào miền Nam.

Xà nu là biểu tượng của dân Xô man hứng chịu bao hậu quả tàn khốc mà chiến tranh gây ra. Mỗi một người mất đi là thêm một cây xà nu gục ngã. Cây to, cây nhỏ và vô số cây lấm tấm những vết đạn như dân làng từ trẻ đến già không thể không bị ảnh hưởng chiến tranh, cơn lốc quái ác ấy cứ xoắn xít và vây lấy từng số phận con người. Xà nu gục ngã hay Mai chết do bị đánh đập vào kì sinh nở? Xà nu gãy hay anh Quyết hi sinh vì bom đạn kẻ thù! Và còn biết bao đồng chí anh em khác đã hi sinh trong cuộc chiến này. Mai chết hay xà nu xanh sớm vội lìa đời? Máu chị hay nhựa xà nu đã ứa ra từng cục quyện bầm tím lại? Máu ứa ra kèm theo những điều linh thiêng quan trọng. Máu ứa ra như một di hận mà dân làng phải trả thù cho mẹ con Mai. Từng giọt, từng giọt rỉ ra như kim đâm muối xát vào lòng người dân Xô man thôi thúc họ cầm súng cầm mác mà diệt giặc.

Xà nu vốn che chở cho dân làng thế mà dầu xà nu biến thành ngọn lửa hủy diệt mười ngón tay của Tnú. Ngọn lửa tai quái ấy phải chăng bọn thằng Dục – bọn tay sai “rước voi về giày mả tổ” phản bội lại lợi ích của nhân dân, phản bội lại tác dụng có ích của xà nu? Xà nu không phải là dầu nhập cảng cũng như bọn thằng Dục từ đời ông cha nhà nó vẫn ở cái xứ nầy…kẻ thù nguy hiểm muốn giấu bàn tay tội ác nên nó âm mưu “dùng người Việt trị người Việt” cũng như nhựa xà nu đốt đỏ mười ngón tay Tnú. Vậy là đối với dân làng Xô man, cây xà nu phần lớn là gắn bó trong cuộc tử sinh với cuộc đời của họ. Nhưng trong cả rừng xà nu như thế cũng có những cây bị lợi dụng để hủy diệt anh em mình? Phải chăng lũ lính man rợ là thứ nhựa xà nu nung ruột nung gan Tnú khi nó phừng phừng trên mười đầu ngón tay anh? … Cũng có thể hiểu nhựa xà nu bốc lửa ấy là biểu tượng cho lòng căm hận. Tội ác trời không dung, đất không tha của lũ thằng Dục đã bị mười ngọn lửa ấy cảnh cáo. Chú ý là kẻ thắp lửa để hủy diệt. Nhưng xà nu đã thành mười bó đuốc Đan Kô có tác dụng chỉ lối soi đường, kêu gọi lòng người đánh thức lí trí con người, bắt người Xô man nhận thức ngay ra chân lí. “Chúng nó cầm súng mình phải cầm mác”. Có lẽ ý sau nhất quán với hình tượng cây xà nu hơn.

Mặc dù bị vùi dập bởi đạn đại bác nhưng không vì thế mà cây xà nu nhụt chí, nó vẫn vươn lên và hướng về ánh sáng, về phía trước. Đó chính là khát vọng sống mãnh liệt của người dân ở làng Xô man. “Cạnh một cây gục ngã đã có bốn, năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Xà nu đã gần kề với cái chết nhưng vẫn cố gắng vùng dậy giành sự sống. Chỉ có những tấm lòng nhiệt tình muốn sống mới có được điều ấy. Thật đáng trân trọng làm sao hình ảnh quên mình vì dân làng, quên nỗi đau riêng mình để bảo vệ người khác “Những vết thương của chúng chóng lành như một thân thể cường tráng” và rồi “ưỡn tấm ngực lớn của mình r ache chở cho dân làng”.

Bom đạn giặc có thể diệt được một hai cây xà nu chứ không thể nào làm lay chuyển cả rừng xà nu thay nhau mọc ấy. Giặc có thể giết dã man Mai, anh Quyết chứ chúng không thể giết được lòng căm hận ngùn ngụt của dân làng truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Làm sao chúng có thể ngăn chặn lòng căm thù của những Dít, Tnú, bé Heng… nối tiếp các bậc tiền bối khi xưa? Xà nu bị thay đổi đó nhưng vẫn đứng gượng dậy lên da non để sống. Tnú mất mười đốt ngón tay nhưng bàn tay anh vẫn còn và hẳn nhiên anh vẫn còn cầm súng được để tiêu diệt kẻ thù. Tnú mất mười đốt ngón tay nhưng bàn tay anh vẫn còn và hẳn nhiên anh vẫn còn cầm súng được để tiêu diệt kẻ thù. Tnú bị trói đó nhưng đôi mắt anh như có lửa thiêu đốt mọi tâm đồ đen tối của kẻ thù. Lòng căm hận, nỗi xót xa chạy giần giật trong anh như nhựa xà nu bốc cháy. Nó gan góc bền vững dù đạn đại bác xả vào vẫn không làm rung chuyền… xà nu bị thương nhưng vẫn giữ hình ảnh tuyệt đẹp “vết thương đọng lại lóng lánh nắng hè” phải chăng những con người Xô man đến chết vẫn giữ được bản chất anh hùng của họ?

Đầu tác phẩm là hình ảnh cây xà nu và cuối tác phẩm vẫn là hình ảnh rừng xà nu nối tiếp nhau chạy tới chân trời. Không phải ngẫu nhiên có sự trùng hợp kì lạ đó có lẽ nhà văn muốn nói: Không một sức mạnh tàn bạo nào hủy diệt được con người vùng Xô man này. Chính vì lẽ đó mà cụ Mết – người đại diện cho dân làng Xô man đã nói với mọi người “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”. Đó phải chăng là lời khẳng định đầy tự hào về sức mạnh tiềm tàng của chính dân làng mình?

Câu chuyện mang đậm tính sử thi thần thoại. Bếp lửa hồng bên ngôi nhà sàn rộng bừng bừng tỏa lửa soi sáng những khuôn mặt người Xô man cùng giọng kể trầm trầm của cụ Mết đưa ta về với thế giới huyền hoặc xa xưa, thế giới cuả trận quyết đấu mà dân làng Xô man đã chiến thắng. Ánh sáng mười ngón tay Tnú bị đốt như có ma lực thúc đẩy mọi người hành động. Bên bếp lửa xà nu ta cũng nghe kể được một chuyện tình đẹp, thật sáng trong nhưng cũng thật là thương tâm cảm động giữa Mai và Tnú…

Cụ Mết có lẽ là cây xà nu đại thụ. Cụ là sợi dây nối giữa xa xưa và hiện đại, là pho sử sống của làng Xô man. Cụ chính là linh hồn, là vị tướng chỉ huy tài tình của dân làng, phải chăng cây xà nu ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho dân làng” chính là hình ảnh cụ Mết – vị già làng đáng kính. Trải bao bao sóng dập gió vùi nhưng cây đại thụ ấy ngày càng chắc chắn hơn, rễ cây bám sâu vào từng thớ đất buôn làng….

Như đã nói ở trên, cây xà nu như một chứng nhân lịch sử. Ánh lửa xà nu soi sáng và dường như chính nó là động lực tăng thêm sức mạnh lời anh Quyết dặn “Người còn sống phải chuẩn bị dao, rựa… sẽ có ngày dùng tới”. Ngọn lửa xà nu cũng đã soi sáng, minh chứng tấm lòng trung thành của Tnú: “Tnú sẽ không kêu thanm anh Quyết ơi! Cháy! Không! Tnú sẽ không kêu…” Nhưng có lẽ linh thiêng nhứt vẫn là ngọn lửa xà nu chứng kiến mười tên giặc phơi thây trước sân nhà: “đống lửa xà nu giữa nhà vẫn đỏ” và lửa xà nu vẫn âm ỉ cháy khắp rừng.

Cùng với Đất nước đứng lên, Rừng xà nu đã biểu hiện sinh động cuộc chiến đấu của người dân vùng núi rừng Tây Nguyên. Cám ơn nhà văn Nguyễn Trung Thành, người đã góp phần xây dựng mối quan hệ tốt đẹp anh em miền xuôi ngược trong cuộc kháng chiến cứu nước. Quả thật, đọc tác phẩm của anh xong tôi thấy cả một trang sử vàng “đau thương nhưng anh dũng” của làng Xô man, của Tây Nguyên quật khởi và cả gương mặt của miền Nam trong thời lửa đạn chống Mĩ – ngụy, có những nỗi đau ghê gớm nhưng vẫn sáng ngời nhân phẩm, ý chí tiêu diệt kẻ thù. Rừng xà nu vẫn cứ sinh sôi chạy mãi tít tắp chân trời, nó bất chấp đạn bom và vì thế nó cứ ưỡn tấm ngực lớn che chở cho dân làng lao động chiến đấu và dám đối đầu với những hoàn cảnh khốc liệt nhất.
 
C

conu

Đề bài:

Một trong những sáng tác nghệ thuật đặc sắc của Kim Lân trong truyện ngắn Vợ nhặt là đã xây dựng đựơc tình huống truyện đặc sắc và hấp dẫn. Hãy phân tích truyện Vợ nhặt để chứng minh ý kiến trên.

BÀI LÀM:
Đọc Vợ nhặt của Kim Lân tôi lại rờn rợn nhớ đến Một đám cưới nghèo của Nam Cao với những bóng đen lầm lũi đi trong màn sương chiều nhập nhoạng. Cái đói, cái nghèo ấy sao đầy kinh hoàng và u ám đến thế. Chính cái đói, cái nghèo đó tạo nên cho Vợ nhặt một tình huống hết sức độnc đáo và hấp dẫn. Và vì thế, Kim Lân đã đóng góp một truyện ngắn vào loại hay nhất trong văn học Việt Nam hiện đại
Ngay từ tựa đề của tác phẩm cũng gợi lên sự chua xót, mai mỉa, một nỗi đâu không thể nói thành lời. “Nhặt vợ”, một hành động nghe sao đơn giản và dễ dàng đến như vậy? Điều đó hoàn toàn trái ngược với quan niệm của dân gian:
Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà
Trong ba việc ấy thật là khó thay
Vậy mà ở đây Tràng đã nhặt được vợ hẳn hoi, trong cơn đói khủng khiếp mà có lẽ “đến năm 2000 con cháu chúng ta vẫn kể cho nhau nghe để rùng mình” đang hoành hành. Cái lạ thường, kì dị của hành động đã tạo nên một tình huống vô cùng độc đáo mang ý nghĩa phân phối toàn bộ tác phẩm.
Đã từ lâu, dân làng cái xóm ngụ cư này đã quá quen với hình ảnh vộp vạp, thô kệch của Tràng với cái cười “hềnh hệch” vô hồn lúc nào cũng nở trên môi, Tràng nghèo túng, xấu xí, đần độn hơn cả những con người tồi tàn, bèo bọt ở cái xóm làng thì làm gì có thể lấy được vợ? Thế nhưng hôm nay, bên cạnh cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn lại có cả một người đàn bà rón rén và e thẹn. Điều đó gợi nên sự kinh ngạc cho cả xóm. Sự tòm mò, xoi mói cứ lan dần theo từng bước đi của Tràng và người đàn bà trên con đường xao xác, heo hút. Mọi người cứ xì xầm bàn tán “Ai đấy nhỉ ! Hay là người nhà bà cụ Tứ mới lên?” “Chả phải, từ ngày còn mồ mả ông cụ Tứ có thấy họ mạc nào lên thăm đâu?” thỉnh thoảng lại “rung rúc” vang lên tiếng cười đầy ghê rợn như tiếng cú báo hiệu tai ương và chết chóc vọng mại theo đôi uyên ương về cuối xóm. Mặc cho những lời bàn tán, Tràng vẫn lầm lũi bước dưới những gốc gạo sù sì có “bóng những người đói đi lặng lẽ như những bóng ma thay cho khách” và tiếng quạ gào lên thê thiết từng hồi thay cho pháo cười. Câu chuyện chìm trong nặng nề và sợ hãi, đầy những cảnh ma quái, đen tối. Cái đói đã luồn những làn gió chết chóc mọi nơi. Vậy mà Tràng lại có vợ “Ôi chao! Biết có nuôi nổi nhau qua được cái thời này không”
Tình huống Tràng có vợ gây ra ấn tượng rất mạnh. Cả xóm ngạc nhiên đã đành, mà ngay cả bà cụ Tứ, mẹ Tràng cũng rất ngạc nhiên. Làm sao kể xiết sự sững sờ của bà khi trông thấy người đàn bà đứng ở đầu giường của con mình, lại còn chào mình bằng u nữa. Bà không thể nghĩ rằng con mình lại có vợ, ngay trong cái thời buổi đói kém này. Bà cứ hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn mà càng lúc nó cứ nhoèn mãi ra.
Tình huống càng bất ngờ đến hài hước khi chính Tràng cũng vẫn còn “ngỡ ngàng như không phải”. “Ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải. Ra hắn đã có vợ đấy ư?”. Mọi chuyện xảy ra quá bất ngờ, dường như chỉ là cơn mơ. Người đàn bà chỉ gặp mới hai lần lại trở thành vợ hắn. Mà thật ra, hắn cũng không có ý định gì với thị...Thị liều lĩnh đến với hắn chỉ bằng mộ câu nói suông. Thị theo hắn như phó mặc cho số phận. Cái đói đã đẩy họ đến với nhau.
Trong cái thời tao đoạn ấy, việc Tràng lấy vợ quả là một tình huống oái ăm. Ta sẽ mừng hay lo, buồn hay vui cho cặp vợ chồng này? Tâm trạng của những nhân vật trong câu chuyện chứa đầy những cảm xúc ngổn ngang và mâu thuỗn. Bà cụ Tứ vui vì cuối cùng con mình cũng có vợ nhưng lại tủi vì sự trớ trên của số phận : có phải thời “tao đoạn” như thế, người ta mới hcịu lấy con mình? Bà mẹ nghèo nặng trĩu những lo âu cho tương lai của con mình, “liệu chúng nó có nuôi nhau nổi sống qua được cơn đói khát này không?”. Câu hỏi từ tận đáy lòng của bà mẹ “chất chứa nỗi hoang mang, ám ảnh của kiếp bần hàn không lối thoát và cả sự rình rập trước ngõ của cơn ác mộng về cái đói chưa bao giờ dữ dội đến thế”. Trong lòng bà, ta cảm thấy cả nỗi buồn của một người mẹ không được thấy con trong ngày vui, không được một vài mâm làm lễ gia tiên. Trong lời nghẹn ngoài tâm sự của à có cả sự xót xa, một chút ân hận vì đã không làm được đầy đủ bổn phận của một người mẹ đối với con.
Tâm trạng của Tràng cũng biến đổi liên tục từ khi thị quyết định theo hắn về nhà. Tình huống nhặt vợ mang đầy vẻ bi hài, chỉ bằng những câu bông lơn và bốn chén bánh đúc, thị đã đồng ý làm bạn với hắn. Thị theo hắn dường như để giải quyết nhu cầu ăn. Những chuyện tưởng như rất thô luậ và trơ trẽn nhưng dưới ngọi bút tài tình của Kim Lân, nó trở nên nhẹ nhàng hơn và lấp ló tình thương. Tràng hoàn toàn mờ mịt về tương lai của mình “thóc gạo này đến thân mình còn chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng” nhưng hắn vẫn ra tay cưu mang người đàn bà nghèo khổ. Đói kém đã đẩy đưa người phụ nữ đến với hắn, mang đến cho hắn niềm hạnh phúc của một người có được mái ấm gia đình với bao ước mơ về tương lai dung dị nhưng đầy cảm động. Chính vì thế, hắn nhận ra trách nhiệm của mình đối với hạnh phúc mà mình vừa có được. Lòng hắn chợt loé lên một ý nghĩa được đổi đời, tự dưng hắn thấy ân hận , tiếc rẻ, vẩn vơ, khó hiểu.
Không cần dùng đến những lời lẽ đanh thép hay “đại ngôn” nhưng tác phẩm Vợ nhặt mang đến một giá trị nhân bản vô cùng to lớn. Bằng tình huống đầy bi hài, nó xoáy vào tố cáo chế độ thực dân phát xít, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái đói kinh hoàng. Cái đói mang đến sự chết chót, tang thương khắp mọi nơi và cũng chính nó làm những giá trị con người bị hạ xuống mức thấp nhất. Con người dường như mất hẳn tính ngươờ, chỉ còn sống theo bản năng để được ăn, được sống...Cơn đói khát làm cho ngừoi đàn bà quên cả sĩ diện, đượcmì ăn hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên tức thì, thế rồi “thị sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Đoạn văn làm cho bất cứ ai có lương tâm cũng phải xấu hổ, phải quay mặt đi để cười ra nước mắt. Thì làm ta liên tưởng đến bà lão trong Một bữa no của Nam Cao. Con người trở nên trơ trẽn, mất nhân cách khi cái đói lởn vởn trong tâm trí. Giận thị nhưng ta vẫn xót xa trước dáng hình tiều tịu của thị “hôm nay thị rách quá, quần áo tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Cái đói, với bóng đen kinh hoàng của nó bao trùm khắp mọi nơi, đè nặng lên cuộc sống bình thường của mỗi con người. Còn gì thê thảm bằng đám “rước dâu” có tiếng quạ kêu thê thiết đón chào, đêm tân hôn có tiếng ai hờ khóc tỉ tê “có mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt”. Thân phận bọt bèo của những con người như Tràng, những cám cảnh bần cùng ấy tự thân nó đã có sức tố cám mạnh mẽ cái tội ác của thực dân phát xít....
Thế nhưng, chính trong cái cảnh thê lương ấy, những tấm lòng nhân hậu lại sáng ngời lên mà tiêu biểu trong tác phẩm là bà cụ Tứ. Trong lòng người mẹ nghèo ấy lúc nào cũng mang sẵn tình thương con vô bờ bến “vừa ai oán vừa xót xa cho số kiếp của đứa con mình”. Trong cái nhìn đăm đăm vào người đàn bà đang “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt” có sự xót thương, thông cảm sẻ chia. Tình thương con dù bao la đến mấy cũng có thể chỉ làm bà “rũ xuống hai dòng nước mắt”. Cái khổ đau vất vả một đời đã vắt kiệt nước mắt người mẹ. Nó không đủ để chảy thành dòng “rũ” xuống như chết non một cách tức tưởi. Không còn nước mắt nhưng bà vẫn nhận lấy nguy cơ bị cái chết gần thêm bước nữa.
Bằng ngòi bút tài năng của mình, Kim Lân có lúc đã đưa người đọc đến tận cùng màn đêm tối tăm, u ám, nhưng rồi lại nhẹ nhàng hé ra một khe sáng lấp ló đâu đó khiến chúng ta hướng về và vươn tới. Người dân Việt nam mà đại diện là những bà mẹ Tràng, anh Tràng và người đàn bà vẫn khát khao cuộc sống hạnh phúc tươi sáng hơn. “Bà lão nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này”. Trong tâm trí bà đã có sẵn một viễn cảnh tươi sáng gia đình. Niềm vui làm bà mẹ Tràng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác thường , “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Ta vui lây niềm vui của gia đình hoà thuậ, đầm ấm, niềm vui của Tràng được thấy xung quanh mình hôm nay có gì vừa thay đổi mới mẹ, khác thường. Niềm vui bất chợt của gia đình làm ta cười sung sướng nhưng nước mắt vẫn cứ tuôn mãi nghẹn ngào. Ta múôn tha thứ tất cả, kể cả sự trơ tráo của người đàn bà và cả tội phung phí đến hai hào dầu của anh Tràng.
Chỉ một tình huống nhỏ nhoi nhưng Kim Lân đã gợi nên biết bao điều. Mỗi ý nghĩ của tình huống lại mang một giá trị nhân bản,tấm lòng nhân đạo bao la của nhà văn. Chính vì thế, tác phẩm mang đầy tình yêu thương nồng ấ mnư một ngọn lửa nhỏ lấp loé mãi trong cuộc đời. Và tác phẩm đã cho ta phát hiện thêm một bản chất tuyệt vời nhân hâu., tuyệt vời đứa hi sinh của những người nông dân Việt Nam. Dù đứng trước sự mất còn của mạng sống ( hiểu theo nghĩa đen trần trụi nhất) vẫn cưu mạng, vẫn lấy lại phẩm giá để làm người, để sống với hi vọng, với tương lai. Lá cờ đỏ sao vàng của Việt Minh dẫn đoàn đói khát đi phá kho thóc của Nhật đâu chỉ là mộng tưởng ? Tương lai mới “bạch sắc” (màu trắng) nhưng “dĩ thành hồng” (đã thành đỏ) rồi. Cách mạng đã gần kề, suối nguồn của chủ nghĩa nhân đạo sẽ tắm gội những con người bình dị nhưng có phẩm chất nhân đạo như cụ Tứ, như Tràng và cô “vợ nhặt” tội nghiệp....Họ sẽ viết tiếp truyện thống về phẩm giá con người Việt Nam trong tương lai.
 
C

conu

Đề: Phân tích hình ảnh con người Việt Nam anh hùng qua các tác phẩm “Rừng xà nu” cùa Nguyễn Trung Thành và “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu.

I. Mở bài:
Con người Việt Nam là đề tài phong phú, là nguồn cảm hứng vô tận để các nhà văn sang tác những tác tác phẩm văn học có giá trị.
Mỗi tác phẩm văn học, mỗi nhà văn khi viết về con người Việt Nam đều phản ánh ở nhiều góc độ khác nhau. Nhưng tất cả đều tập trung phản ánh được chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con người Việt Nam khi đất nước bị xâm lược.
Hai tác phẩm “Rừng xà nu”, “Mảnh trăng cuối rừng” là những tác phẩm tiêu biểu, đã nêu khá đầy đủ những đặc điểm của con người Việt Nam anh hùng trong công cuộc chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta.

II. Thân bài: Phân tích hình ảnh con người Việt Nam anh hùng:
Được sang tác trong công cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước dù được miêu tả ở nhiều góc độ khác nhau, nhưng cả hai tác phẩm nói trên đều làm nổi bật những đặc điểm của con người Việt Nam anh hùng.
- Có lòng yêu nước nồng nàn:
# Trong tác phẩm “Rừng xà nu” lòng yêu nước được thể hiện tập trung ở nhân vật Tnú, Mai, Dít, cụ Mết.
Cụ Mết:
Là người chỉ huy tinh thần dân làng Xô Man. Cụ đã giáo dục dân làng “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Tấm lòng tin yêu đối với Đảng, đối với Cách mạng đó đã truyền thêm sức mạnh cho dân làng, khiến họ không nề gian khổ, hiểm nguy thay nhau vào rừng nuôi cán bộ, người này ngã xuống có người khác tiếp theo: Anh Xút bị treo cổ thì có bà Nhan nối tiếp, bà Nhan bị chặt đầu thì có Tnú và Mai thay thế. Nhờ có cụ Mết, ánh sáng của Đảng vẫn soi rọi đến vùng đất hẻo lánh của dân làng Xô Man. Bị kẻ thù áp bức, cụ kêu gọi dân làng mài giáo mài rựa đấu tranh vì “Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo”. Lời nói ngắn gọn nhưng chứa đựng cả một phương châm chiến lược: “Phải dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng”.
Lòng yêu nước của cụ còn thể hiện ở việc kể chuyện Tnú cho cả làng nghe như là viết những trang sử sống cho nhân dân mình “Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi thương nước, hãy lắng mà nghe mà nhớ, sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe”.
Tnú:
Ngay từ lúc nhỏ đã tham gia công tác nuôi giấu cán bộ và hoàn thành xuất sắc công việc giao liên. Nhiều đêm Tnú phải ngủ lại trong rừng với cán bộ vì một ý nghĩ rất đơn giản và cũng rất tình thương đối với cán bộ “lỡ giặc lùng, ai dẫn cán bộ chạy”.
Vì yêu nước, yêu Đảng, nên Tnú rất nghe lời dạy của cán bộ. Anh Quyết dạy học chữ, Tnú cố gắng khắc phục gian khổ làm theo, lấy tre nứa làm bảng, đi lên núi Ngọc Linh lấy đá làm phấn. Và khi Tnú tỏ ra chán nản vì sự tối dạ của mình, thì chỉ một lời động viên của anh Quyết “Không học chữ sao làm được cán bộ giỏi” cũng đã truyền thêm sức mạnh khiến cho Tnú tiếp tục thực hiện công việc học tập đầy khó khăn, không hứng thú đó.
Khi làm giao liên, Tnú tỏ ra rất gan dạ: băng rừng, anh không bao giờ chịu đi đường mòn mà chỉ thích “xé rừng mà đi”. Qua sông, anh không thích lội chỗ nước êm mà cứ “lựa chỗ thác mạnh” để bơi ngang vì Tnú biết rằng “qua chỗ nước êm thằng Mỹ Diệm hay phục, chỗ nước mạnh nó không ngờ”.
Mai, Dít, Heng ngay từ nhỏ đã thay người lớn đi làm liên lạc.
# Ở tác phẩm “Mảnh trăng cuối rừng” dù chưa đến độ tuổi đi bộ đội, Lãm đã trốn gia đình để đi bộ đội. Nguyệt sau khi học xong cấp ba, cô đã gia nhập thanh niên xung phong đến công tác ở ngầm Đá xanh. Nguyệt là cô gái sống có lý tưởng và nhiều khát vọng đẹp: cô muốn được sống có ích, được phục vụ và cống hiến mình cho Tổ quốc. Lý tưởng và khát vọng đó bắt nguồn từ tình yêu đất nước, vì thế cuộc sống ở công trường xây dựng đầy gian khổ nhưng Nguyệt vẫn lao động hăng say với tất cả nhiệt tình tuổi trẻ, khiến chị em trong đội giao thông ở Ngầm đá xanh ai cũng yêu mến, Nhưng rồi giặc Mỹ dùng không quân bắn phá ra miền Bắc hòng phá hủy các công trình xây dựng, ngăn chặn những con đường huyết mạch của ta. Chiếc cầu đá “xanh biếc và đẹp như một giấc mộng” mà Nguyệt và đồng đội mất gần hai năm mới xây dựng xong đã bị bom giặc phá sập. Thế là cô công nhân giao thông đi xây dựng cuộc sống mới hôm qua lại trờ thành cô gái mở đường cùng đồng đội của mình ngày đêm rãi đá vá đường, quyết bảo vệ những con đường cho xe ra trận.
- Có lòng căm thù giặc sâu sắc:
Tnú căm thù giặc vì giặc đã tàn phá quê hương anh, đã giết chết bao nhiêu người dân Xô man, lòng căm thù giặc càng sôi nổi hơn khi Tnú chứng kiến cảnh vợ con bị giặc tra tấn dã man. Tnú không kìm được “Hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa”. Anh đã nhảy xổ vào giữa bọn lính.
-Có tinh thần chiến đấu dũng cảm ngoan cường:
o Ngay từ khi còn làm liên lạc cho anh Quyết, Tnú đã tỏ ra là đứa bé ngoan cường bất khuất. Bọn giặc bắt được Tnú, chúng đánh anh rất dã man và hỏi cộng sản đâu, Tnú đã chỉ vào bụng mà nói: “Cộng sản ở đây”. Khi Tnú xông ra cứu vợ con, bọn địch bắt anh, chúng dùng “giẻ tẩm nhựa xà nu quấn lên mười đầu ngón tay” rồi đốt. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu, lửa cháy rất nhanh, mười đầu ngón tay trở thành mười ngọn đuốc nhưng Tnú vẫn không kêu một tiếng.
Cũng trong tác phẩm “Rừng xà nu”, cô bé Dít đã làm liên lạc. Bị giặc bắt, lúc đầu cô bé còn sợ, chúng bắn đến viên đạn thứ mười để uy hiếp, Dít không còn sợ mà chùi nước mắt, im bặt nhìn bọn giặc bình thản, lạnh lùng.
o Nguyệt, Lãm trong “Mảnh trăng cuối rừng” cũng vậy. Đi trên đoạn đường đầy khó khăn, giặc bắn và thả bomb bi liên tục, Nguyệt vẫn bình tĩnh, nhanh chóng giúp Lãm đưa xe vượt qua đoạn đường, khi bị thương Nguyệt vẫn không thấy sợ “Nguyệt nhìn vết thương cười, khuôn mặt hơi tái nhưng vẫn tươi tỉnh và xinh đẹp”.
Từ khi bước lên xe ngồi trong cabin cạnh Lãm suốt đoạn đường nguy hiểm đến ngầm Đá xanh, Nguyệt vẫn với dáng ngồi “chống khuỷu tay lên thành cửa nhỉn ra ngoài” thật bình thản. Cái bình thản của người giàu kinh nghiệm luôn đối diện với gian nguy nên luôn tỉnh táo, tự tin phán đoán đúng tình thế.
Khi xe rẽ sang con đường xế về phía ngầm, Nguyệt phải xuống “xi nhan” giúp Lãm kéo xe lên khỏi những hố sâu nhão nhoét do con đường đầy những hố bom cũ và mới.
Lúc xe qua ngầm Đá xanh, do “hôm trước mưa lũ, nước dâng cao trên mặt đá đến hơn một thước” nên đã tràn vào ống xã hơi ùng ục, “chiếc xe lắc điên đảo” ngoi lên, hụp xuống đến quá nửa ngầm thì không đi được nữa. Trước tình hình đó, Nguyệt đã linh hoạt “đứng bám trên cánh cửa” hướng dẫn cho Lam “đi đúng giữa hai hàng cọc tiêu”. Đúng lúc ấy, có dấu hiệu máy bay giặc đến. Rất nhanh “cô vội nhảy ùm xuống nước” bảo Lãm tắt đèn để tránh phát hiện của máy bay, rồi giữa đêm lạnh “cô để nguyên quần áo, nhanh nhẹn lội phăng sang bên kia bờ giúp Lãm cột dây tời kéo xe qua ngầm”. Nhưng không kịp nữa, địch đã thả bom tọa độ. Dũng cảm hết sức, từ chỗ ẩn nấp, Nguyệt lao ra cùng Lãm và quyết định cho xe chạy đi giữa lúc “máy bay địch quay tròn trên đầu như xay lúa, rất thấp, thả pháo sáng, bắn đạn hai mươi ly đỏ lừ nghe rát cả mặt”. Một loạt bom rất gần, sức hơi bom xô Nguyệt ngã chúi và làm cô bị thương. Mặc! Giọng nói Nguyệt cứ rành rọt như người đếm, như không hề có bom rơi đạn nổ “… ngoặc sang trái… Trước mặt có hố bom đấy… Chuẩn bị sắp lên một cái dốc có “cua”…”. Cứ thế, Nguyệt biến thành cọc tiêu sống dò đường giúp Lãm đưa xe vượt qua khỏi vùng lửa đạn. Cảm phục hơn, cô vẫn cười tươi, vẫn đùa “từ giờ đến sáng, em có thể đi lên đến tận trời được” khi vết thương “máu chảy loang đỏ cả cánh tay”.
Tuyệt vời dũng cảm, tuyệt vời gan dạ anh hùng! Vẻ đẹp đó được thể hiện một cách hết sức tự nhiên và được đẩy lên đến tuyệt đỉnh trong tình huống căng thẳng nhất của chiến tranh.
- Có tình cảm đẹp đẽ trong trắng:
o Dù chiến tranh xảy ra ác liệt, dù thời gian trôi qua, Nguyệt vẫn giữ trong tim mình hình ảnh Lãm, một chàng trai dám trốn gia đình để đi bộ đội. Tình yêu của Nguyệt dành cho Lãm trong sáng, thi vị, đầy lãng mạn. Cô gái Trường Sơn đã sống và chiến đấu như thế nào thì cũng yêu như thế đó. Phải là người rất tin yêu cuộc đời, tin yêu mình thì mới có thể sống trọn vẹn với một tình yêu lãng mạn nhường ấy. Ở đây, niềm tin sỡ dĩ có sức mạnh mãnh liệt một phần cũng chính nhờ ở quan điểm về cuộc sống, về tình yêu đúng đắn của Nguyệt. Yêu đời, yêu người gắn liền với tình yêu lí tưởng, Tố quốc, cái riêng hào quyện vào cái chung. Tình yêu lứa đôi không chỉ là hạnh phúc của riêng cá nhân. Hạnh phúc, tình yêu sẽ đẹp và trọn vẹn hơn khi ta biết thủy chung, biết sống vì mọi người, biết dũng cảm quên mình vì người khác.
Dù lỡ cơ hội gặp nhau, nhưng nhờ hành động dũng cảm, sự hy sinh quên mình mà Nguyệt đã kịp gieo vào lòng lãm một hạt giống tình yêu để từ đó cây tình yêu sẽ nảy mầm, đơm hoa kết trái. Như vậy, rõ ràng nhờ sức mạnh của niềm tin và cuộc sống và tình yêu mà họ đã thực sự gặp nhau trong nét đẹp nhân cách, tâm hồn. Thế mới biết, chiến tranh trong mắt tuổi trẻ Việt nam đâu chỉ là chết chóc, đau thương mà còn là nơi “con người khám phá ra nhau, phát hiện ra vẻ đẹp tâm hồn của nhau, để yêu nhau”.
Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu lại nhắc đến hai lần hình ảnh “sợi chỉ xanh óng ánh” ở phần đầu và phần kết truyện. “Trong tâm hồn người con gái nhỏ bé, tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy, bao nhiêu bom đạn dội xuống cũng không hề đứt, không thể nào tàn phá nỗi”. “Sợi chỉ xanh óng ánh” ấy là hình ảnh biểu tượng khẳng định lại một lần nữa: Chính tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống sẽ là sức mạnh để chiến thắng bom đạn khốc liệt của quân thù.
o Tnú, mặc dù rất gan dạ, bình thản trước kẻ thù, nhưng khi xa làng thì nỗi nhớ day dứt, nỗi nhớ như vết nứa cắt vào lòng anh, đó là tiếng chày giã gạo, tiếng chày chuyên cần của mẹ, của mai, của những cô gái Strá giã gạo. Trở về làng sau ba năm đi bộ đội, Tnú rất hồi hộp và xúc động khi đi qua những chỗ ngoặt nơi anh và Mai gặp lại nhau sau ngày anh vượt ngục trở về.
Rồi tình yêu của Tnú đối với vợ con đã khiến Tnú bất chấp mọi nguy hiểm cho bả thân mình, anh đã “nhảy xổ vào giữa bọn lính” để cứu vợ con dù biết rằng mình sẽ bị địch bắt.
III. Kết luận:
Qua hai tác phẩm “Rừng xà nu” và “Mảnh trăng cuối rừng”, hai nhà văn Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Minh Châu đã khắc họa hình ảnh con người Việt Nam anh hùng thật kiên cường, dũng cảm, bất khuất trước kẻ thù nhưng cũng hết sức giản dị trong đời thường.
Đó là những con người có lòng yêu nước nồng nàn, có lòng căm thù giặc sâu sắc, có tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất, có tình cảm phong phú và trong sáng. Họ đã đem lại vẻ đẹp cho đất nước cũng nhu đem lại niềm tự hào cho dân tộc. Họ đã kế thừa một cách xứng đáng truyền thống bốn ngàn năm lịch sử chống ngoại xâm của đất nước, dân tộc. Hình ảnh anh hùng của họ mãi mãi là tấm gương sáng cho thế hệ hôm nay và mai sau no
 
N

ngoisaotim

Bài PT hình tượng cây xà nu hay lắm conu à! Chỉ có điều... nếu với cô mình mà viết mở bài như thế thì nhất định sẽ bị phê là... "thiếu ý"! Cô còn đòi hỏi cả năm sinh, năm mất của Nguyễn Trung Thành, tiểu sử tóm tắt (sơ sơ thui, nhưng cũng đủ mệt rùi :( ), còn cả hoàn cảnh sáng tác của "Rừng xà nu" (còn cả in trong tạp chí văn nghệ gì gì đó nữa...), chưa kể chủ đề... <= oải lắm rùi.
 
F

faustvn01

ngoisaotim said:
Bài PT hình tượng cây xà nu hay lắm conu à! Chỉ có điều... nếu với cô mình mà viết mở bài như thế thì nhất định sẽ bị phê là... "thiếu ý"! Cô còn đòi hỏi cả năm sinh, năm mất của Nguyễn Trung Thành, tiểu sử tóm tắt (sơ sơ thui, nhưng cũng đủ mệt rùi :( ), còn cả hoàn cảnh sáng tác của "Rừng xà nu" (còn cả in trong tạp chí văn nghệ gì gì đó nữa...), chưa kể chủ đề... <= oải lắm rùi.

Hãy cố gắng hiểu cho các thầy cô em ạ. Tất nhiên, một mở bài ấn tượng luôn là đích hướng tới của chúng ta nhưng nếu em đọc phần đáp án và thang điểm của các đề thi tốt nghiệp hay đại học thì em sẽ hiểu vì sao cô giáo yêu cầu phải đưa những thông tin chung về tác giả và tác phẩm. Khi chấm bài, các thầy cô sẽ căn cứ trên hệ thống ý mà bài viết thể hiện được để cho điểm (chấm ý). Mà phần thông tin về tác giả tác phẩm luôn luôn là phần chiếm từ 0.25 đến 0.5 điểm (trong cơ cấu chung của phần mở bài), mà phần kiến thức này chỉ yêu cầu ghi nhớ và tái hiện chứ không yêu cầu chúng ta phải phân tích, bình luận, đánh giá.

Tất nhiên, cũng chia sẻ với em rằng nếu mở bài nào cũng cứ nêu "đủ ý" thì sẽ không tránh khỏi sự trùng lặp, nhàm chán, công thức, khô cứng. Em có thể tìm những cách để khéo léo "cài" các thông tin về tác giả, tác phẩm vào phần mở bài hoặc cũng có thể chuyển nó xuống phần đầu của thân bài, miễn là phải nêu bật được ý để các thầy cô khi chấm bài có "cớ" mà cho điểm. Phải không bạn!

To Conu: Đây là một việc rất hữu ích đó. Nhưng anh băn khoăn không biết các bài viết này của Conu St (sáng tác - tự viết) hay st (sưu tầm). Ghi rõ nguồn em nhá. :)
 
C

conu

thanks anh, như lúc đầu nói, đây là những bài văn tham khảo, ko phải là bài văn của em, nó được sưu tầm từ nhiều nguồn: ôn thi, tuổi trẻ...
@ ngoisaotim: Viết như cô giáo bạn yêu cầu có phần đúng và có phần ko đúng. Tất nhiên mở bài cũng phải có đầy đủ thông tin, nhưng quá thì lại thừa, dẫn đến lối mở bài "quê". Mình cần đan cài khéo léo vào mở bài kiến thức về tác giả, hoàn cảnh sáng tác, vẫn hay mà đủ ý, chứ ko phải như bản liệt kê thông tin với cả năm sinh năm mất rồi cả tỉnh nhà văn đó sinh ra... Đề văn yêu cầu phân tích tác phẩm thì phải biết xoáy vào tác phẩm chứ ko thể nói tuốt tuồn tuột những thứ liên quan như thế được, phải biết chọn lọc và đưa đẩy để làm rõ hơn cho tác phẩm được phân tích.
 
S

sweetnightmare

Chưa đọc kỹ lắm nhưng lướt qua thì thấy bài 1 hay hay, lạ so với những bài trước đây mình đã đọc qua.
Tx :)
 
Top Bottom