- 6 Tháng bảy 2015
- 6,549
- 13,985
- 1,304
- Quảng Nam
- Vi vu tứ phương


Đề bài: Người xưa có câu: “Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều”. Anh (chị) hãy nói rõ ý kiến của mình về quan niệm trên.
Nhắc đến đại thi hào Nguyễn Du là nhắc đến thi phẩm xuất sắc vượt thời gian “Truyện Kiều”. Dưới ngòi bút của danh nhân văn hóa được cả thế giới công nhận này đã thành công khắc họa hình tượng của người con gái, người phụ nữ với nhân cách cùng phẩm cách cao quý Thúy Vân, Thúy Kiều khi nàng vượt qua bao chông chênh, trắc trở, tư tưởng bảo thủ của xã hội phong kiến xưa. Điển hình như quan niệm phiến diện của đại đa số nhà Nho ngày xưa:
Trong truyện Phan Trần, Phan Sinh vì quá yêu Trần Kiều Liên mà ốm tương tư rồi cuối cùng tự vận. Thời xa xưa, các bậc tiền bối thường răn dạy: “nam nhi chí tại tứ phương”, “đầu đội trời, chân đạp đất”,… nên cách sống của Phan Trần bị phủ nhận, bị người đời chỉ trỏ, dèm pha. Với các cụ, nam nhân thì tam thê tứ thiếp là chuyện thường tình nam nhân, bỏ qua việc chuyên tình cùng người bên gối, chỉ cần lo nghiệp lớn, mưu cầu đường công danh. Và với Truyện Kiều cũng xót xa như thế, người con gái tự mình quyết định tình yêu, cùng người thương hẹn hò đêm khuya; tự mình quyết định cầu em gái kết duyên cùng chàng, bản thân bán mình vào thanh lâu chuộc cha; tự mình quyết định hết nên duyên với Thúc Sinh rồi lại đến Từ Hải, thoát khỏi chốn thanh lâu. Còn đâu luân thường đạo lý khi lễ giáo thời bấy giờ quy định người phụ nữ phải lấy chữ trinh làm đầu, quy định nam nữ thụ thụ bất thân, quy định người phụ nữ “tam tòng tứ đức”? Thời thế xô đẩy khiến Kiều một lần rồi lại một lần làm trái với lễ giáo phong kiến. Bởi vậy mà người người đều cho rằng Kiều là cô gái hư, là cô gái lăng loàn, coi thường chuẩn mực đạo đức xã hội. Vào thời bấy giờ, có mấy người nhận ra Kiều là cô gái đáng thương và đáng trân trọng như Từ Hải, như Nguyễn Du?
Kiều gặp Kim Trọng như diều gặp gió muốn tự do bay lượn, chủ động “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”, gặp gỡ người thương, thổ lộ nỗi lòng. Nàng mạnh dạn vượt qua rào cản đạo đức vô hình của thời đại, vượt qua giáo lý cổ hủ của xã hội nhưng trong tình yêu Kim – Kiều, Kiều tỏ ra đoan trang, đúng mực, thủ vững lễ nghi, phong phạm của một người thiếu nữ chốn khuê các. Hơn thế, cũng trong đêm ấy, Kiều cùng Trọng đã cùng đính ước, nguyện thề. Họ trao nhau lọn tóc mây dưới vầng trăng lung linh. Tự mình đêm khuya hẹn hò, tự mình làm chủ thề nguyện rồi nàng Kiều cũng tự mình chặt đứt tình ti, cầu Thúy Vân kết duyên cùng Trọng còn bản thân thì vào thanh lâu, chính thức trở thành gái lầu xanh. Là vì nàng không yêu chàng Kim nên mới đẩy chàng cho Thúy Vân? Không đâu, vì Kiều quá yêu chàng Kim, thẹn với tình yêu mà chàng dành cho nàng, lại không thể không từ bởi đạo con chữ hiếu làm đầu, nàng mới phải ngậm ngùi đau xót, cậy nhờ em gái thay nàng kết đoạn nhân duyên này.
Vì lời tố bậy của thằng bán tơ mà gia đình Kiều bị bọn đầu trâu mặt ngựa – cướp ngày xông vào đập phá, cướp bóc, vơ vét sạch sành sanh từ đồ tế nhuyễn đến của riêng tây của gia đình Kiều. Còn cha cùng em trai Kiều bị trói, bị đánh đập dã man, bị đẩy vào chốn lao tù. Gia đình tan nát, nhà chỉ còn những người phụ nữ bơ vơ, ngơ ngác nhìn nhau. Trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng ấy, Kiều đứng ra làm tròn vai trò của con gái trưởng trong gia đình. Nàng hạ quyết tâm bán mình chuộc cha, chuộc em, cậy nhờ em gái Thúy Vân thay nàng nối tình cùng chàng Kim và bước chân vào chốn thanh lâu. Từ đây bắt đầu cho mười lăm năm lưu lạc, bơ vơ khắp nơi.
Mười lăm năm chìm nổi, bấp bênh giữa dòng đời, Kiều hết bị lừa lần này đến lần khác. Nàng bị Mã Giám Sinh cùng Tú Bà đưa vào làm gái lầu xanh. Tại đây, nàng muốn tự sát nhưng không thành rồi lại bị Sở Khanh lừa tình, cay đắng chấp nhận cuộc sống đầy tủi nhục. Thúc Sinh xuất hiện như chiếc phao giữa đại dương bạt ngàn, Thúc Sinh cứu Kiều khỏi chốn thanh lâu nhưng bẽ bàng thay, Hoạn Thư – vợ của Thúc Sinh vì biết chuyện của chồng nên bắt nàng làm con ở, bắt nàng phải hầu hạ cả hai vợ chồng trong buổi tiệc rượu. Hơn thế, ngày qua ngày, Kiều bị đánh ghen một cách tàn nhẫn, thừa nhận hết cơn ghen tuông cay nghiệt của người chủ mẫu trong chốn khuê phòng. Kiều bỏ trốn đến nương nhờ cửa Phật nhưng chẳng may sư trụ trì lại vô tình gửi nàng cho Bạc Hạnh – kẻ môi giới, cùng nghề với Tú Bà khiến nàng một lần nữa rơi vào chốn lầu xanh. Tại nơi đất khách quê người này, Kiều gặp Từ Hải – một đấng nam nhi đầu đội trời, chân đạp đất. Từ Hải không những cứu Kiều mà còn giúp nàng báo ân báo oán. Có thể nói gặp được Từ Hải là may mắn nhất của đời Kiều trong quãng thời gian rời nhà cho đến bây giờ. Nhưng ngày vui chẳng mấy chốc lại tàn, vì một chút sơ sẩy, Kiều bị Hồ Tôn Hiến lừa khiến Từ Hải chết trận đứng giữa tiền tuyến còn chính mình thì bị ép hầu rượu suốt đêm rồi đem gả cho gã thổ quan. Ngồi trên kiệu hoa, nàng ngẫm lại cuộc đời chông chênh, bị người nhục nhã, bị người coi như hàng hóa, buôn đi bán lại, nàng đau đớn, nàng mệt mỏi, nàng chết lặng. Mỗi lần vươn lên, mỗi lần nỗ lực thoát khỏi chốn lầu xanh dơ bẩn lại là mỗi lần bị nhấn chìm vào bùn lầy sâu hơn. Và rồi nàng trầm mình xuống sông Tiền Đường để kết thúc cuộc sống gian truân này. Nhưng may sao, nàng được vãi Giác Duyên cứu vớt và gặp lại chàng Kim. Mười lăm năm lưu lạc chìm nổi bấp bênh, Kiều đoàn tụ cùng gia đình, gặp lại mối tình đầu năm nào. Nhưng giờ đây, nàng đã không còn là nàng của năm đó nữa, nàng đã “Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ” như một cách tôn trọng người mà nàng từng yêu.
Có mấy ai trải qua bể tình, bể oan, bể khổ như Kiều lại có thể đứng vững trở lại? Có mấy ai qua bao nhiêu năm tháng bị người nhục nhã, khinh bạc, tra tấn lại có thể thủ vững trái tim son sắt năm nào? Có ai sinh ra là lựa chọn được cha mẹ, có ai sinh ra là lựa chọn được nhân sinh của chính mình? Trong xã hội rập khuôn, giáo điều của xã hội phong kiến, Kiều lại bị phủ nhận, bị chỉ trích nặng nề, bị chà đạp khi nàng chỉ đơn giản là muốn vươn lên, chỉ đơn giản là muốn kiếm tìm một bến thuyền hạnh phúc mà thôi. Kiều không sai khi đưa ra lựa chọn về tình yêu, khi tự vẫn kết liễu cuộc đời. Kiều chỉ sai vì dễ tin người, vì không đủ tri thức đánh giá thời thế nên mới bị vận mệnh trêu đùa thê thảm đến vậy. Thúy Kiều là con người đáng thương và đáng trân trọng chứ không hề đáng ghét, đáng khinh như quan niệm “Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều”. Cuộc đời chìm nổi của Kiều là một bài học nhân sinh đáng quý dành cho mỗi người. Sống trên đời không ai có thể lựa chọn cho mình cha mẹ nhưng lại có thể lựa chọn cho mình nhân sinh. Nếu nàng đủ khôn khéo có thể gõ trống kêu oan lên cấp quận, lên tận Hình Bộ, lên tận triều đình thì có lẽ sẽ có một Từ Hải khác cứu gia đình nàng từ mười lăm năm trước. Nếu nàng đủ khôn khéo thì có thể tránh thoát được bàn tay của Hoạn Thư, có thể nhận ra được con người thật của Bạc Hạnh, có thể giúp được Từ Hải thoát khỏi âm mưu của Hồ Tôn Hiến.
Những bài học nhân sinh, bài học làm người khi đối diện với những nghịch cảnh trong Truyện Kiều để lại cho tất cả chúng ta những giá trị lớn lao và sâu sắc mà chúng ta cần phải có một thái độ khách quan và đúng đắn để đánh giá nó. Qua biết bao nhiêu năm tháng, khi có ngày càng nhiều câu chuyện, vần thơ lên rồi xuống thì Truyện Kiều vẫn luôn là kiệt tác rực rỡ trong làng văn học Việt Nam, là niềm tự hào trong dòng chảy văn học dân tộc mà mỗi người dân Việt Nam đều vinh dự mỗi khi nhắc đến nó.
BÀI LÀM
Nhắc đến đại thi hào Nguyễn Du là nhắc đến thi phẩm xuất sắc vượt thời gian “Truyện Kiều”. Dưới ngòi bút của danh nhân văn hóa được cả thế giới công nhận này đã thành công khắc họa hình tượng của người con gái, người phụ nữ với nhân cách cùng phẩm cách cao quý Thúy Vân, Thúy Kiều khi nàng vượt qua bao chông chênh, trắc trở, tư tưởng bảo thủ của xã hội phong kiến xưa. Điển hình như quan niệm phiến diện của đại đa số nhà Nho ngày xưa:
“Đàn ông chớ kể Phan Trần
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều”
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều”
Trong truyện Phan Trần, Phan Sinh vì quá yêu Trần Kiều Liên mà ốm tương tư rồi cuối cùng tự vận. Thời xa xưa, các bậc tiền bối thường răn dạy: “nam nhi chí tại tứ phương”, “đầu đội trời, chân đạp đất”,… nên cách sống của Phan Trần bị phủ nhận, bị người đời chỉ trỏ, dèm pha. Với các cụ, nam nhân thì tam thê tứ thiếp là chuyện thường tình nam nhân, bỏ qua việc chuyên tình cùng người bên gối, chỉ cần lo nghiệp lớn, mưu cầu đường công danh. Và với Truyện Kiều cũng xót xa như thế, người con gái tự mình quyết định tình yêu, cùng người thương hẹn hò đêm khuya; tự mình quyết định cầu em gái kết duyên cùng chàng, bản thân bán mình vào thanh lâu chuộc cha; tự mình quyết định hết nên duyên với Thúc Sinh rồi lại đến Từ Hải, thoát khỏi chốn thanh lâu. Còn đâu luân thường đạo lý khi lễ giáo thời bấy giờ quy định người phụ nữ phải lấy chữ trinh làm đầu, quy định nam nữ thụ thụ bất thân, quy định người phụ nữ “tam tòng tứ đức”? Thời thế xô đẩy khiến Kiều một lần rồi lại một lần làm trái với lễ giáo phong kiến. Bởi vậy mà người người đều cho rằng Kiều là cô gái hư, là cô gái lăng loàn, coi thường chuẩn mực đạo đức xã hội. Vào thời bấy giờ, có mấy người nhận ra Kiều là cô gái đáng thương và đáng trân trọng như Từ Hải, như Nguyễn Du?
Kiều gặp Kim Trọng như diều gặp gió muốn tự do bay lượn, chủ động “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”, gặp gỡ người thương, thổ lộ nỗi lòng. Nàng mạnh dạn vượt qua rào cản đạo đức vô hình của thời đại, vượt qua giáo lý cổ hủ của xã hội nhưng trong tình yêu Kim – Kiều, Kiều tỏ ra đoan trang, đúng mực, thủ vững lễ nghi, phong phạm của một người thiếu nữ chốn khuê các. Hơn thế, cũng trong đêm ấy, Kiều cùng Trọng đã cùng đính ước, nguyện thề. Họ trao nhau lọn tóc mây dưới vầng trăng lung linh. Tự mình đêm khuya hẹn hò, tự mình làm chủ thề nguyện rồi nàng Kiều cũng tự mình chặt đứt tình ti, cầu Thúy Vân kết duyên cùng Trọng còn bản thân thì vào thanh lâu, chính thức trở thành gái lầu xanh. Là vì nàng không yêu chàng Kim nên mới đẩy chàng cho Thúy Vân? Không đâu, vì Kiều quá yêu chàng Kim, thẹn với tình yêu mà chàng dành cho nàng, lại không thể không từ bởi đạo con chữ hiếu làm đầu, nàng mới phải ngậm ngùi đau xót, cậy nhờ em gái thay nàng kết đoạn nhân duyên này.
“Ơn cha nặng lắm ai ơi
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang”
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang”
Vì lời tố bậy của thằng bán tơ mà gia đình Kiều bị bọn đầu trâu mặt ngựa – cướp ngày xông vào đập phá, cướp bóc, vơ vét sạch sành sanh từ đồ tế nhuyễn đến của riêng tây của gia đình Kiều. Còn cha cùng em trai Kiều bị trói, bị đánh đập dã man, bị đẩy vào chốn lao tù. Gia đình tan nát, nhà chỉ còn những người phụ nữ bơ vơ, ngơ ngác nhìn nhau. Trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng ấy, Kiều đứng ra làm tròn vai trò của con gái trưởng trong gia đình. Nàng hạ quyết tâm bán mình chuộc cha, chuộc em, cậy nhờ em gái Thúy Vân thay nàng nối tình cùng chàng Kim và bước chân vào chốn thanh lâu. Từ đây bắt đầu cho mười lăm năm lưu lạc, bơ vơ khắp nơi.
Mười lăm năm chìm nổi, bấp bênh giữa dòng đời, Kiều hết bị lừa lần này đến lần khác. Nàng bị Mã Giám Sinh cùng Tú Bà đưa vào làm gái lầu xanh. Tại đây, nàng muốn tự sát nhưng không thành rồi lại bị Sở Khanh lừa tình, cay đắng chấp nhận cuộc sống đầy tủi nhục. Thúc Sinh xuất hiện như chiếc phao giữa đại dương bạt ngàn, Thúc Sinh cứu Kiều khỏi chốn thanh lâu nhưng bẽ bàng thay, Hoạn Thư – vợ của Thúc Sinh vì biết chuyện của chồng nên bắt nàng làm con ở, bắt nàng phải hầu hạ cả hai vợ chồng trong buổi tiệc rượu. Hơn thế, ngày qua ngày, Kiều bị đánh ghen một cách tàn nhẫn, thừa nhận hết cơn ghen tuông cay nghiệt của người chủ mẫu trong chốn khuê phòng. Kiều bỏ trốn đến nương nhờ cửa Phật nhưng chẳng may sư trụ trì lại vô tình gửi nàng cho Bạc Hạnh – kẻ môi giới, cùng nghề với Tú Bà khiến nàng một lần nữa rơi vào chốn lầu xanh. Tại nơi đất khách quê người này, Kiều gặp Từ Hải – một đấng nam nhi đầu đội trời, chân đạp đất. Từ Hải không những cứu Kiều mà còn giúp nàng báo ân báo oán. Có thể nói gặp được Từ Hải là may mắn nhất của đời Kiều trong quãng thời gian rời nhà cho đến bây giờ. Nhưng ngày vui chẳng mấy chốc lại tàn, vì một chút sơ sẩy, Kiều bị Hồ Tôn Hiến lừa khiến Từ Hải chết trận đứng giữa tiền tuyến còn chính mình thì bị ép hầu rượu suốt đêm rồi đem gả cho gã thổ quan. Ngồi trên kiệu hoa, nàng ngẫm lại cuộc đời chông chênh, bị người nhục nhã, bị người coi như hàng hóa, buôn đi bán lại, nàng đau đớn, nàng mệt mỏi, nàng chết lặng. Mỗi lần vươn lên, mỗi lần nỗ lực thoát khỏi chốn lầu xanh dơ bẩn lại là mỗi lần bị nhấn chìm vào bùn lầy sâu hơn. Và rồi nàng trầm mình xuống sông Tiền Đường để kết thúc cuộc sống gian truân này. Nhưng may sao, nàng được vãi Giác Duyên cứu vớt và gặp lại chàng Kim. Mười lăm năm lưu lạc chìm nổi bấp bênh, Kiều đoàn tụ cùng gia đình, gặp lại mối tình đầu năm nào. Nhưng giờ đây, nàng đã không còn là nàng của năm đó nữa, nàng đã “Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ” như một cách tôn trọng người mà nàng từng yêu.
Có mấy ai trải qua bể tình, bể oan, bể khổ như Kiều lại có thể đứng vững trở lại? Có mấy ai qua bao nhiêu năm tháng bị người nhục nhã, khinh bạc, tra tấn lại có thể thủ vững trái tim son sắt năm nào? Có ai sinh ra là lựa chọn được cha mẹ, có ai sinh ra là lựa chọn được nhân sinh của chính mình? Trong xã hội rập khuôn, giáo điều của xã hội phong kiến, Kiều lại bị phủ nhận, bị chỉ trích nặng nề, bị chà đạp khi nàng chỉ đơn giản là muốn vươn lên, chỉ đơn giản là muốn kiếm tìm một bến thuyền hạnh phúc mà thôi. Kiều không sai khi đưa ra lựa chọn về tình yêu, khi tự vẫn kết liễu cuộc đời. Kiều chỉ sai vì dễ tin người, vì không đủ tri thức đánh giá thời thế nên mới bị vận mệnh trêu đùa thê thảm đến vậy. Thúy Kiều là con người đáng thương và đáng trân trọng chứ không hề đáng ghét, đáng khinh như quan niệm “Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều”. Cuộc đời chìm nổi của Kiều là một bài học nhân sinh đáng quý dành cho mỗi người. Sống trên đời không ai có thể lựa chọn cho mình cha mẹ nhưng lại có thể lựa chọn cho mình nhân sinh. Nếu nàng đủ khôn khéo có thể gõ trống kêu oan lên cấp quận, lên tận Hình Bộ, lên tận triều đình thì có lẽ sẽ có một Từ Hải khác cứu gia đình nàng từ mười lăm năm trước. Nếu nàng đủ khôn khéo thì có thể tránh thoát được bàn tay của Hoạn Thư, có thể nhận ra được con người thật của Bạc Hạnh, có thể giúp được Từ Hải thoát khỏi âm mưu của Hồ Tôn Hiến.
Những bài học nhân sinh, bài học làm người khi đối diện với những nghịch cảnh trong Truyện Kiều để lại cho tất cả chúng ta những giá trị lớn lao và sâu sắc mà chúng ta cần phải có một thái độ khách quan và đúng đắn để đánh giá nó. Qua biết bao nhiêu năm tháng, khi có ngày càng nhiều câu chuyện, vần thơ lên rồi xuống thì Truyện Kiều vẫn luôn là kiệt tác rực rỡ trong làng văn học Việt Nam, là niềm tự hào trong dòng chảy văn học dân tộc mà mỗi người dân Việt Nam đều vinh dự mỗi khi nhắc đến nó.
Tác giả: @baochau1112