Mình k chắc có chính xác k.nhưng bạn có thể đọc và dựa theo cách lm này
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
(Đất nước - trích trường ca Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm)
Có lẽ khi viết hai câu thơ giản dị mà thấm thía nhường này, linh hồn và bản sắc dân tộc Việt Nam, dòng sữa văn hoá dân gian đã khởi nguồn, thấm sâu trong cảm thức thơ Nguyễn Khoa Điềm, ám ảnh tới mức trở thành máu thịt. Ca dao dân ca có từ thủa “ngày xửa ngày xưa ấy” nhưng vẻ đẹp của nó vẫn tồn tại mãi như con thuyền chở nặng hồn dân tộc đã neo đậu nơi bến bờ tâm linh của mỗi người dân Việt. Đó là những vẻ đẹp từ ngàn xưa của đất nước, của lao động, của hồn người... nguyên sơ và tự nhiên như hơi thở... Những nhà thơ lớn của dân tộc bao giờ cũng là người tiếp thu gìn giữ và sáng tạo từ kho tàng thơ ca dân gian ở nhiều phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật, đặc biệt là những biểu tượng nghệ thuật.
Ca dao có nhiều biểu tượng nghệ thuật, như : cái cầu, thuyền và bến, cái áo, dòng sông, cây tre, con bống, con cò, cây đa, bến nước, mái đình ... những biểu tượng này xuất phát từ cuộc sống dân dã của người bình dân Việt Nam. Từ những câu ca dao dân ca viết về những hình ảnh ấy, ta hiểu được đời sống tình cảm phong phú mãnh liệt nhưng duyên dáng, tế nhị của người dân lao động. Các tác giả văn học viết đã hút nhuỵ văn hoá dân gian để làm giàu có cho trữ lượng thơ ca của mình. Hình tượng trong thơ ca xưa khi được tái sinh trong các thi phẩm về sau vừa mang dấu ấn truyền thống vừa có những nét mới mẻ, độc đáo, đặc sắc. Hình tượng “Con cò” trong ca dao dân ca đã trở thành thân thuộc gần gũi với người Việt đến khi cánh cò bay đi bay về trong những thế giới nghệ thuật thơ, nó đã mang những hình sắc linh động cho tứ thơ, lời thơ. Tú Xương ở nửa cuối thế kỉ XIX đã mượn hình ảnh “thân cò” để kí thác tấm lòng thương yêu, ân tình sâu nặng đối với người vợ của mình. Sang thế kỉ XX thi sĩ Chế Lan Viên đã viết bài thơ Con cò như một khúc hát ru cho em nhỏ bằng lời người mẹ thương con.
Ca dao dân ca - “đó là tiếng tơ đàn muôn điệu của tâm hồn quần chúng”. (Vũ Ngọc Phan), vì vậy, điệu hồn dân tộc đã đọng lại, thấm sâu vào những bài ca dao và kết tinh thành ý nghĩa biểu tượng. Diện mạo dân tộc Việt Nam “Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa - Sống hiên ngang mà nhân ái chan hoà” (Huy Cận), in dấu bản sắc vào những hình ảnh mang tính tượng trưng, ước lệ như con bống, con cò ... biểu hiện cho nhân sinh quan, thế giới quan của người dân lao động. Trong ca dao dân ca Việt Nam có rất nhiều bài nói đến con cò. Theo Vũ Ngọc Phan : “Những câu ca dao hay của ta và có lẽ cũng rất cổ của ta, hầu hết đều mở đầu bằng” con cò... “con cò bay lả bay la, con cò bay bổng bay cao, con cò lặn lội, con cò trắng bạch như vôi, con cò vàng, con cò kì, con cò quăm ... vv”. Con cò đã làm bạn với người nông dân bao đời : con cò lội ruộng, con cò đứng trên bờ rỉa lông rỉa cánh, con cò bay trên đồng lúa bát ngát ... Bạn thân nhất gắn bó với cuộc sống con người, trong lao động và sản xuất là con trâu. Nhưng con trâu phải sống cuộc đời vất vả, cực nhọc, lầm lụi, nặng nề, nên thường được người nông dân liên hệ với thân phận cơ khổ của mình. Còn cánh cò trắng muốt, tinh khiết đẹp một vẻ thanh cao, trong sạch, vẫy vùng trên trời cao cùng mây gió như là hình ảnh về một cuộc sống thảnh thơi êm đềm mà vẫn chăm chỉ cần mẫn như người dân lao động xưa hằng mong ước. Nội dung những bài ca dao viết về con cò rất phong phú, gắn với đời sống và cảm thức nhân sinh trong xã hội phong kiến nước ta. Nhạc điệu bài ca khêu gợi nhiều xúc cảm trữ tình, khắc khoải, da diết hoặc du dương mềm mại ... Trong những bài hát ru em, bài lý giao duyên, cũng như hát trống quân, nam nữ đối đáp, trước khi đưa ra những lời tình tứ mặn nồng thì thường giáo đầu bằng những câu có hình ảnh cánh cò bay bổng như muốn nâng hồn người cất cánh :
Một đàn cò trắng bay tung
Bên nam bên nữ ta cùng hát lên ...
Hình ảnh đàn cò trắng tương trưng cho sự đoàn tụ, sum họp. Những người thưong nhau mà phải chịu cảnh xa xôi cách trở khi thấy đàn cò bay lượn có bầu có bạn trên cánh đồng, lại hát lên những lời nhớ nhung thắm thiết :
Một đàn cò trắng bay quanh
Cho loan nhớ phượng cho mình nhớ ta
Mình nhớ ta như cà nhớ muối
Ta nhớ mình như Cuội nhớ Trăng
Trí tưởng tượng của người nông dân thật lãng mạn. Nỗi nhớ của “mình” với “ta” như “loan nhớ phượng” như “Cuội nhớ Trăng”, nhưng cũng hết sức đời thường : được ví “Mình nhớ ta như cà nhớ muối”. Đó cũng chính là hai nét tâm hồn người lao động.
Hình ảnh con cò cùng với những con chim đồng loại với nó như con vạc con bồ nông ... là những loại chim phải kiếm ăn ngày đêm trên cánh đồng khiến người nông dân chạnh nghĩ, chạnh thương cho những cuộc tình duyên trắc trở mà ngay cả những người cùng máu mủ cũng không đồng cảm bằng những người trong cảnh ngộ:
Cái cò, cái vạc, cái nông
Cùng ăn một đồng, nói chuyện giăng ca
Muối kia đổ ruột con gà
Mẹ mình chẳng xót bằng ta xót mình
Ngoài giọng điệu trữ tình, những bài ca dao có hình ảnh con cò còn mang giọng điệu châm biếm đã kích cái xấu. Bài ca dao “con cò quăm” phê phán người chồng rượu chè, gia trưởng. Bài ca dao sau lại nhằm vạch trần bộ mặt tham lam độc ác của những kẻ giàu có, thất đức, bóc lột người dân nghèo :
Cái cò, cái vạc, cái nông
Ba con cùng béo vặt lông cái nào
Vặt lông cái vạc cho tao !
Hành, răm, mắm, muối bỏ vào mà thuôn.
Hình ảnh con cò trong ca dao có thể đi kèm với những nội dung khác nhau, nhưng thông thường người nông dân vẫn cảm thấy thân phận mình, số kiếp mình gần gụi, tương đồng với con cò. Cũng như thân cò lớn lên giữa bao la hệ lụy mà vẫn giữ được cốt cách trong sạch, thanh cao, phải vật lộn mưu sinh trong nắng nôi giông bão của đời mà không tìm được chốn cho mình nương náu chở che:
Trời mưa quả dưa vẹo vọ
Con ốc nằm co
Con tôm đánh đáo
Con cò kiếm ăn ...
Cảnh mưa gió làm cho mọi vật đều bất an, bị động : con ốc co mình vào vỏ, con tôm nhảy bật lên, quả dưa như không giữ được hình trạng bình thường... Nhưng chỉ có con cò vẫn miệt mài lặn lội trong nương dâu bãi bể, trong cuộc mưu sinh, trong nỗi quanh quẽ âm thầm ... Đó cũng là hình ảnh người nông dân Việt Nam cần cù, chịu thương chịu khó, “ăn gió nằm mưa”, gặp giông tố không sờn để có thể tồn tại, nâng cao đời sống và đấu tranh cho sự sống của mình.
Có thể nói, trong ca dao dân ca, hình ảnh con cò gắn với tư duy hình tượng của người nông dân Việt Nam về cuộc sống của mình, nói lên những đức tính truyền thống lao động tốt đẹp và cả những thói tật xấu, gửi gắm ước mơ và tình cảm, đồng thời cũng dùng hình ảnh con cò để khêu gợi hồn thơ.
Hình ảnh con cò đã mang chở một mảnh hồn quê hương một mảnh hồn làng. Đó là hình ảnh thi vị nhất, nên thơ và truyền cảm nhất, đã nằm sâu trong tâm thức người Việt về một cái đẹp thanh bình, yên ả. Những bài ca dao nói về con cò cũng ẩn chứa tình đời, tình người, niềm vui và nỗi buồn nhân thế. Hình ảnh con cò trong lớp sương mờ kí ức còn trong veo những giọt nước mắt thương về bà, về mẹ, về chị, về quê hương xứ sở, về căn cốt bản địa của mỗi người ... Có ai đã từng được nghe hát ru lại có thể quên được bài ca dao bao đời nay vẫn giữ cái nguyên uỷ sâu xa về tình nghĩa cội nguồn. Thứ tiếng nói ruột thịt tủy xương của những đứa con hành hương tìm về quê Cha đất Tổ :
Cái cò đi đón cơn mưa
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về
Cò về thăm quán cùng quê
Thăm cha, thăm mẹ, cò về thăm anh ...
Và có ai không thương xót ngậm ngùi cho thân phận người nông dân thủơ xưa, sống lầm lụi, cần mẫn, chăm chỉ mà phải chịu cảnh ngộ oan khiên. Nhưng trong cảnh hiểm nghèo con cò vẫn giữ tiết tháo trong sạch, đó cũng là thái độ trung thực và minh bạch của người nông dân, là lẽ sống cao cả, giàu đức hy sinh của người phụ nữ:
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông vớt tôi nào
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.