ai thích HARRY POTTER KO??????????????

M

marukokeropi

Chương 1
Chúa tể hắc ám đang lên
Hai người đàn ông hiện ra từ cõi không, cách nhau vài thước, trên một con đường nhỏ hẹp dưới ánh trăng. Cả hai cùng đứng im phắc trong một giây, đũa phép người này chĩa vào ngực người kia; nhưng khi nhận ra nhau họ thu đũa cất vào áo choàng, bắt đầu đi về cùng một hướng.
“Tin tức sao?” Người cao hơn trong hai người hỏi.
“Tuyệt,” Severus Snape trả lời.
Con đường nằm giữa một bụi dâu gai còi cọc mọc hoang bên trái và một hàng giậu cao được cắt tỉa chu đáo ở bên phải. Vạt áo choàng dài của hai người đàn ông bay lất phất quanh cổ chân khi họ bước đi.
“Tưởng đâu tôi trễ rồi chứ,” Yaxley nói, bộ mặt thô đần của hắn lúc ẩn lúc hiện khi những cành cây cao bên trên che khuất ánh trăng. “Hơi rắc rối hơn dự kiến. Nhưng tôi hy vọng ngài sẽ hài lòng. Anh coi bộ chắc mẻm tin tức anh thu được là xịn?”
Snape gật đầu, nhưng không nói gì thêm. Họ quẹo phải, tiến vào một con đường rộng dành cho xe chạy dẫn ra khỏi con đường mòn. Hàng giậu cao uốn cong theo họ, và kéo dài đến tận hai cánh cổng kiểu cọ bằng sắt đồ sộ chắn đường hai người đàn ông. Không người nào dừng bước: cả hai im lặng giơ tay trái lên kiểu như chào và đi xuyên qua cổng, như thể mớ kim loại đen đó là khói.
Những hàng giậu thủy tùng hãm bớt tiếng bước chân của hai người đàn ông. Đâu đó bên trái họ có tiếng xào xạc: Yaxley lại rút cây đũa phép ra chĩa lên phía trên đầu người đồng hành, nhưng âm thanh ấy hóa ra xuất phát từ một con công trắng tinh đang oai phong đường bệ bước đi trên hàng giậu.
“Lúc nào cũng bày đặt, cái lão Lucius ấy! Lại còn công nữa...” Yaxley nhét cây đũa phép vào trong áo choàng kèm theo một cái khịt mũi.
Một dinh thự sang trọng hiện ra trong bóng tối cuối con đường thẳng tắp dành cho xe chạy, ánh sáng lóe ra từ những ô vuông lấp lánh như kim cương của những khuôn cửa sổ tầng trệt. Một cái hồ đang phun nước ở đâu đó trong khu vườn âm u phía bên kia hàng giậu. Sỏi nghiến rào rạo dưới chân họ khi Snape và Yaxley bước về phía cửa chính, cửa mở ra khi họ đi tới gần, mặc dù không thấy ai mở cửa.
Hành lang rộng, được chiếu sáng mờ mờ, và được trang trí lộng lẫy, với một tấm thảm diễm lệ trải gần kín mặt sàn đá. Những đôi mắt của đám chân dung mặt tai tái treo trên tường dõi theo Snape và Yaxley khi hai người đi ngang qua. Hai người đàn ông dừng bước bên một cánh cửa bằng gỗ nặng ịch dẫn vào căn phòng kế tiếp, ngần ngừ trong tích tắc, rồi Snape vặn nắm đấm cửa.
Phòng khách đầy những người ngồi im bên một cái bàn dài chạm trổ kiểu cọ. Những bàn ghế vốn thường bày biện trong phòng đã bị dồn bừa vào sát tường. Ánh sáng tỏa ra từ ngọn lửa đang cháy phừng phừng trong một lò sưởi bằng cẩm thạch to đẹp đội một tấm gương viền vàng. Snape và Yaxley chần chừ một chút ở ngưỡng cửa. Khi mắt đã quen với bóng tối, họ đi về phía một hình ảnh kỳ quái nhất trong toàn cảnh: một nhân dạng rõ ràng là bất tỉnh đang chổng ngược lơ lửng bên trên cái bàn, chầm chậm xoay vòng như thể bị treo bằng một sợi dây thừng vô hình, và được phản chiếu trong tấm gương lẫn trên mặt bàn láng bóng bên dưới. Không ai trong số người ngồi phía dưới cái cảnh quái đản ấy nhìn lên ngoại trừ một thanh niên trắng nhợt ngồi gần như ngay bên dưới hình nhân treo ngược. Cậu ta dường như không thể cưỡng được cứ một hai phút lại liếc nhìn lên phía trên đầu mình.
“Yaxley. Snape,” một giọng nói cao, rõ, phát ra từ đầu bàn. “Chúng bây suýt trễ.”
Người vừa nói ngồi ngay phía trước lò sưởi, cho nên thoạt đầu những người mới đến khó mà nhìn thấy gì khác hơn bóng dáng kẻ đó. Tuy nhiên, khi họ đến gần hơn thì gương mặt kẻ đó lộ rõ dần vẻ u ám, trọc lóc, như đầu rắn, với một cái khe tét ra làm lỗ mũi và hai con mắt đỏ chóe có đồng tử vạch thẳng đứng. Kẻ đó xanh xao đến nỗi dường như phát ra một quầng sáng ngà ngà.
“Severus, lại đây,” Voldemort nói, chỉ vào một cái ghế ngay sát bên phải hắn “Yaxley... ngồi cạnh Dolohov.”
Hai người đàn ông ngồi vào chỗ được chỉ định. Hầu như mọi con mắt quanh cái bàn đều hướng về Snape, và Voldemort nói với Snape trước nhất.
“Sao?”
“Thưa Chúa tể, Hội Phượng Hoàng có ý định chuyển Harry Potter từ chỗ đang ở đến một nơi an toàn vào thứ bảy tới, lúc trời tối.”
Sự hào hứng nổi lên thấy rõ quanh cái bàn: một số căng người lên cứng đơ, một số bồn chồn cựa quậy, tất cả đều chăm chú nhìn Snape và Voldemort.
“Thứ bảy... lúc trời tối,” Voldemort lặp lại. Hai con mắt đỏ của hắn nhìn chằm chặp vào đôi mắt đen của Snape với sự chiếu tướng mà một vài kẻ quan sát bên ngoài phải ngoảnh đi, dường như sợ chính mình sẽ bị cháy lây bởi cái nhìn rực lửa dữ dội đó. Tuy nhiên, Snape bình tĩnh nhìn thẳng vào mặt Voldemort; một lúc sau, cái miệng không môi của Voldemort cong lên từa tựa như một nụ cười.
“Tốt. Tốt lắm. Và thông tin này xuất phát...”
“... từ nguồn mà chúng ta đã bàn,” Snape nói.
“Thưa Chúa tể.”
Yaxley đã chồm tới trước để nhìn lên Voldemort và Snape ở đầu cái bàn dài. Mọi gương mặt đều hướng về hắn.
“Thưa Chúa tể, tôi lại nghe khác.”
Yaxley chờ đợi, nhưng Voldemort không nói gì, nên hắn tiếp tục, “Thần Sáng Dawlish để lộ là Potter sẽ không được chuyển đi đâu cho tới ngày ba mươi mốt, vào cái đêm trước khi thằng đó đủ mười bảy tuổi.”
Snape mỉm cười.
“Nguồn của tôi cho tôi biết là có những kế hoạch nghi binh; đây ắt là thế rồi. Chắc chắn là Dawlish đã bị ếm bùa Lú lẫn. Đây không phải là lần đầu tiên; ai cũng biết hắn dễ mắc lừa.”
“Tôi cam đoan với ngài, thưa Chúa tể, Dawlish tỏ ra khá chắc chắn,” Yaxley nói.
“Nếu hắn bị ếm bùa Lú lẫn thì đương nhiên hắn phải chắc mẻm rồi.” Snape nói. “Tôi cam đoan với anh, Yaxley, Sở Thần Sáng sẽ không đóng vai trò gì nữa trong việc bảo vệ Harry Potter. Hội Phượng Hoàng cho rằng chúng ta đã thâm nhập vào Bộ Pháp thuật rồi.”
“Vậy là Hội Phượng Hoàng cũng đúng được một cái, há?” Một gã mập chè bè ngồi gần Yaxley nói; hắn phát ra tiếng cười khụt khịt được vài ba người ngồi dài theo cái bàn hưởng ứng.
Voldemort không cười. Cái nhìn chằm chằm của hắn đảo lên hướng về cái thân xác đang xoay chầm chậm phía trên đầu mọi người, dường như hắn đang chìm đắm trong suy nghĩ.
“Thưa Chúa tể,” Yaxley tiếp tục, “Dawlish tin là toàn bộ lực lượng Thần Sáng sẽ được huy động để hộ tống thằng nhỏ...”
Voldemort giơ lên một bàn tay trắng nhợt to tướng, và Yaxley nín ngay tức thì, ấm ức nhìn Voldemort quay lại nói với Snape.
“Sau đó chúng sẽ giấu thằng đó ở đâu?”
“Ở nhà của một trong những Hội viên,” Snape nói. “Theo nguồn tin, nơi đó được Hội Phượng Hoàng và Bộ Pháp thuật bố trí mọi sự bảo vệ mà họ có thể làm được. Tôi nghĩ một khi nó đã ở đó rồi thì chúng ta rất ít có cơ hội tóm được nó, trừ khi, dĩ nhiên thôi, thưa Chúa tể, là Bộ Pháp thuật sập trước thứ bảy tới, điều đó giúp cho chúng ta cơ hội phát hiện và giải trừ một số bùa ểm đủ để phá hủy những bùa phép còn lại.”
“Sao, Yaxley?” Voldemort hỏi vọng xuống cuối bàn, ánh lửa lóe lên một cách quái gở trong đôi mắt đỏ của hắn. “Bộ Pháp thuật sẽ sập trước thứ bảy tới chứ?”
Một lần nữa, tất cả những cái đầu đều xoay. Yaxley gồng vai.
“Thưa Chúa tể, về việc đó tôi có tin lành. Tôi đã... vô cùng vất vả, và sau nỗ lực lớn lao... đã thành công trong việc ếm lời nguyền Độc đoán lên Pius Thicknesse.”
Nhiều người ngồi quanh Yaxley có vẻ sửng sốt; người ngồi cạnh hắn, Dolohov, một gã có gương mặt dài ngoằng méo mó, vỗ tay lên lưng hắn.
“Đó là một khởi đầu,” Voldemort nói. “Nhưng Thicknesse chỉ là một người. Scrimgeour phải được người phe ta vây bọc trước khi ta hành động. Một nỗ lực tấn công mạng sống Bộ trưởng mà thất bại sẽ đẩy ta lùi lại rất xa.”
“Vâng... Thưa Chúa tể, đúng như vậy... nhưng ngài biết, với chức Giám đốc sở Thi hành Luật Pháp thuật, Thicknesse có tiếp xúc thường xuyên không chỉ với bản thân ông Bộ trưởng, mà còn với Giám đốc các Sở khác trong Bộ. Tôi cho là, việc giờ đây chúng ta có trong tay một viên chức cao cấp như thế sẽ khiến cho chúng ta dễ dàng khuất phục những viên chức khác, và rồi tất cả bọn họ có thể cùng nhau hạ bệ Scrimgeour.”
“Với điều kiện ông bạn Thicknesse của chúng ta không bị vạch mặt trước khi hắn cải tạo đám còn lại” Voldemort nói. “Dù sao thì vẫn không có vẻ gì là Bộ Pháp thuật sẽ về tay ta trước thứ bảy tới. Nếu chúng ta không rớ được thằng bé ở nơi nó đến, thì ta ắt phải hành động khi nó đang di chuyển.”
“Thưa Chúa tể, ở điểm đó chúng ta có lợi thế,” Yaxley nói, hắn dường như quyết chí phải được chấp thuận phần nào. “Chúng ta giờ đây đã cài đặt nhiều người trong Sở Giao thông Pháp thuật. Nếu Potter độn thổ hay dùng Mạng Floo, chúng ta sẽ biết ngay tức thì.”
“Nó sẽ không sử dụng hai cách đó,” Snape nói. “Hội đang loại ra bất cứ hình thức di chuyển nào do Bộ Pháp thuật kiểm soát hay điều hành, họ không tin mọi thứ có dính dáng tới Bộ.”
“Càng tốt,” Voldemort nói. “Nó sẽ phải di chuyển nơi trống trải. Càng dễ tóm hơn.”
Một lần nữa, Voldemort nhìn lên cái thân người treo đang xoay chầm chậm trong lúc nói tiếp, “Ta sẽ đích thân chăm sóc thằng nhỏ. Đã có quá nhiều sai lầm mỗi khi có chuyện liên quan đến Harry Potter. Một số do chính ta gây ra. Thằng Potter đó sống là nhờ sai sót của ta nhiều hơn là nhờ chiến thắng của nó.”
Đám người ngồi quanh bàn lo lắng ngó Voldemort, mỗi người, qua vẻ mặt, lo sợ mình có thể bị trách mắng về việc Harry Potter vẫn tiếp tục sống. Tuy nhiên, Voldemort có vẻ tự nói với chính hắn hơn là với bất cứ ai trong đám người có mặt, và hắn vẫn tiếp tục hướng về cái xác bất tỉnh phía trên mà nói tiếp.
“Ta đã bất cẩn, và vì vậy mà bị thời cơ với may rủi ngáng trở, chúng làm hỏng mọi thứ trừ những kế hoạch được lập hoàn hảo nhất. Nhưng giờ đây ta đã biết khá hơn. Ta đã hiểu những điều mà trước đây ta không hiểu. Ta phải là kẻ giết Harry Potter, ta sẽ đích thân làm.”
Dường như để đáp lại những lời này, một tiếng khóc thét thình lình rống lên, một tiếng khóc sầu khổ và đau đớn khủng khiếp kéo dài. Nhiều người trong đám ngồi quanh bàn ngó xuống sàn, kinh ngạc, bởi vì âm thanh đó dường như phát ra từ phía dưới chân họ.
“Đuôi Trùn,” Voldemort nói, không hề thay đổi giọng nói trầm tư lặng lẽ của hắn, và không hề rời ánh mắt khỏi cái thân người đang xoay phía trên, “ta chưa bảo cho mi biết cách khiến cho tên tù của chúng ta im lặng sao?”
“Dạ, thưa... thưa Chúa tể,” một người đàn ông nhỏ thó ngồi khoảng giữa bàn hổn hển nói. Hắn ngồi lọt thỏm trong ghế, thấp đến nỗi thoáng nhìn qua cái ghế có vẻ như không có người ngồi. Giờ đây hắn lập cập rời khỏi chỗ, lật đật chạy ra khỏi phòng, chẳng để lại gì phía sau ngoại trừ một vệt sáng bạc kỳ lạ.
“Như ta đã nói,” Voldemort tiếp tục, nhìn lại gương mặt căng thẳng của đám tay chân, “Giờ đây ta hiểu biết hơn. Thí dụ, ta sẽ cần phải mượn cây đũa phép của một trong đám chúng bây trước khi đi giết Potter.”
Những gương mặt quanh hắn chỉ bộc lộ nỗi sững sờ; như thể hắn vừa tuyên bố hắn muốn mượn một cánh tay của họ.
“Không ai tình nguyện à?” Voldemort nói. “Để xem... Lucius, ta thấy mi không còn lý do gì để giữ một cây đũa phép nữa.”
Lucius Malfoy ngước lên. Trong ánh lửa, da hắn trông vàng ệch, bóng như sáp, và mắt hắn sâu hóm quầng thâm. Khi hắn nói, giọng hắn khàn khàn.
“Thưa Chúa tể?”
“Cây đũa phép của mi, Lucius. Ta cần cây đũa phép của mi.”
“Tôi...”
Malfoy liếc ngang sang vợ hắn. Bà ta đang trợn mắt nhìn thẳng phía trước, mặt tái nhợt không khác ông chồng, mái tóc vàng óng của bà ta xõa dài xuống lưng, nhưng dưới gầm bàn, những ngón tay thon của bà nắm nhanh lấy cổ tay chồng. Khi bà chạm vào chồng, Malfoy đút tay vào trong áo chùng, rút ra một cây đũa phép, và chuyền nó cho Voldemort, hắn bèn giơ nó lên trước hai con mắt đỏ ngầu, xem xét kỹ càng.
“Làm bằng gì?”
“Cây đu, thưa Chúa tể,” Malfoy thì thào.
“Và lõi?”
“Rồng... sợi tim rồng.”
“Tốt,” Voldemort nói. Hắn rút cây đũa phép của hắn ra và so đo chiều dài. Lucius Malfoy làm một cử chỉ vô ý; trong một thoáng không đầy giây, dường như lão trông chờ nhận được cây đũa phép của Voldemort để đổi lại cây đũa phép của lão. Với đôi mắt gian ác mở to, Voldemort không để sót cử chỉ đó.
“Cho mi cây đũa phép của ta hả, Lucius? Cây đũa phép của ta à?”
Vài kẻ trong đám ngồi quanh cười khẩy.
“Ta đã cho mi tự do, Lucius, chẳng lẽ chưa đủ cho mi sao? Nhưng ta nhận thấy mi và gia đình mi có vẻ kém vui hơn sau... Sự hiện diện của ta trong nhà mi có điều chi khiến mi không hài lòng hả, Lucius?”
“Không... không có gì cả, thưa Chúa tể!”
“Những lời dối trá như thế Lucius...”
Giọng nói nhẹ nhàng dường như rít lên ngay cả sau khi cái miệng đã thôi cử động. Một hay hai kẻ trong đám phù thủy khó kìm được một cơn rùng mình khi tiếng rít trở nên to hơn; rồi tiếng một cái gì đó nặng nề đang trườn ngang qua sàn phòng bên dưới cái bàn.
Con rắn khổng lồ từ từ trườn lên ghế của Voldemort. Nó ngóc lên, có vẻ như ngóc lên hoài, cho đến khi nó nằm vắt ngang qua vai Voldemort: cổ của nó bự bằng bắp vế của một người đàn ông; mắt của nó, với đồng tử là một vạch thẳng đứng, không hề chớp. Voldemort lơ đãng vỗ về con vật đó bằng những ngón tay dài trong khi vẫn ngó Lucius Malfoy.
“Tại sao gia đình Malfoy trông không được vui với số phận của họ nhỉ? Chẳng phải sự trở về của ta, sự hồi phục quyền lực của ta là chính cái điều họ đã tỏ ra khao khát trong bao nhiêu năm qua sao?”
“Dĩ nhiên chứ, thưa Chúa tể,” Lucius Malfoy nói. Bàn tay lão run rẩy khi lau mồ hôi rịn ra trên mép. “Chúng tôi hằng khao khát... chúng tôi vẫn khao khát.”
Ngồi bên trái Malfoy, vợ lão ngắc ngứ gật đầu sượng trân, đôi mắt của bà ta lảng tránh cả Voldemort lẫn con rắn. Bên phải Malfoy là con trai lão, Draco, từ nãy giờ vẫn ngó chằm chằm cái thân xác ù lì lơ lửng trên đầu nó, bây giờ mới liếc qua Voldemort thật nhanh, và hãi hùng khi ánh mắt gặp nhau, nó bèn ngó ngay qua chỗ khác.
“Thưa Chúa tể,” một người đàn bà u ám ngồi khoảng giữa cái bàn với giọng nói dồn nén cảm xúc, “chúng em rất vinh dự được đón ngài tại đây, trong gia đình chúng em. Không thể có niềm vui sướng nào lớn hơn được.”
Mụ ta ngồi bên cạnh chị mình, với mái tóc đen và đôi mắt tùm hụp, trông chẳng giống bà chị chút nào, kể cả dung nhan lẫn phong thái và cách cư xử; trong khi Narcissa ngồi thẳng và dửng dưng, thì Bellatrix chồm về phía Voldemort, vì chỉ lời nói thì không thể đủ diễn tả lòng khao khát được thân tình.
“Không có niềm vui sướng nào lớn hơn,” Voldemort lặp lại, đầu hơi ngoẹo sang bên một chút khi hắn chú ý nhìn Bellatrix. “Điều này do mi thốt ra, Bellatrix à, có nhiều nghĩa đấy.”
Gương mặt Bellatrix tràn trề niềm hân hoan; mắt mụ sưng mọng lên vì những giọt lệ vui mừng.
“Chúa Tể của em biết là em chỉ nói sự thật thôi mà!”
“Không có niềm vui sướng nào lớn hơn... ngay cả khi so sánh với cái sự kiện hạnh phúc, ta nghe nói, vừa xảy ra trong gia đình mi tuần này sao?”
Bellatrix trố mắt nhìn Voldemort, môi mụ hé ra, rõ ràng là bối rối.
“Thưa Chúa tể, em không biết ngài muốn nói việc gì ạ?”
“Ta đang nói về cháu gái của mi, Bellatrix à. Và của cả tụi mi nữa, Lucius và Narcissa. Nó vừa cưới gã người sói Remus Lupin. Bọn mi ắt tự hào lắm.”
Một trận cười giễu cợt bùng lên khắp chung quanh cái bàn. Nhiều kẻ chồm tới trước để chườn ra bộ mặt hể hả; một số kẻ đánh trống lên mặt bàn bằng những nắm tay. Con rắn khổng lồ, không ưa sự khuấy động, ngoác rộng miệng ra huýt lên giận dữ, nhưng bọn Tử Thần Thực Tử không nghe tiếng rắn huýt, vì chúng quá hí hửng trước sự ê càng bẽ mặt của Bellatrix và gia đình Malfoy. Gương mặt Bellatrix mới đó còn ửng hồng vì niềm hạnh phúc, giờ đã chuyển màu đỏ bầm giập xấu xí.
“Thưa Chúa tể, nó không còn là cháu gái của chúng em nữa,” Bellatrix gào lên để dập tắt tiếng cười đùa. “Chúng em – Narcissa và em – chưa bao giờ để mắt tới con chị từ khi con đó cưới chồng Máu bùn. Còn con ranh kia, lẫn con quái vật nào đó nó cưới, chẳng dính dáng gì tới hai chị em chúng em cả.”
“Mi nói sao, Draco?” Voldemort hỏi, và mặc dù giọng hắn nhỏ nhẹ, vẫn truyền rành rọt qua những tiếng cười cợt chê bai. “Mi sẽ chăm chút mấy con sói con chứ?”
Trò vui nhộn càng được bơm lên cao; Draco Malfoy nhìn cha khiếp đảm, cha nó cúi gằm nhìn xuống đùi mình, rồi nó bắt được ánh mắt của má nó. Bà ta lắc đầu, khẽ khàng đến mức gần như không nhận thấy được, rồi tiếp tục ngây nhìn bức tường đối diện.
“Đủ,” Voldemort nói, vỗ về con rắn quạu đeo. “Đủ.”
Và tiếng cười nhạo tắt ngay tức thì.
“Nhiều gia tộc lâu đời nhất của chúng ta về sau trở nên suy đồi,” Voldemort nói trong khi Bellatrix chăm chú nhìn hắn, nín cả thở và đầy vẻ cầu xin. “Bọn mi cần phải thanh lọc gia tộc của mình để giữ nó được lành mạnh, hay không cần hả? Hãy cắt bỏ những phần đe dọa đến sự lành mạnh của phần gia tộc còn lại.”
“Vâng, thưa Chúa tể,” Bellatrix thì thào, và mắt mụ lại đẫm lệ tri ân. “Ngay khi có cơ hội đầu tiên!”
“Mi sẽ có cơ hội đó,” Voldemort nói. “Và trong gia đình mi, cũng như trên toàn thế giới... chúng ta sẽ cắt bỏ những ung nhọt làm nhiễm độc chúng ta cho đến khi chỉ còn lại những người mang huyết thống thuần túy mà thôi...”
Voldemort giơ cây đũa phép của Lucius Malfoy lên, chĩa thẳng vào cái hình nhân đang xoay lờ đờ lơ lửng bên trên cái bàn, khẽ nhấp một cái. Hình nhân tỉnh lại thốt lên một tiếng rên và bắt đầu vùng vẫy cố thoát những dây trói vô hình.
“Mi có nhận ra khách mời của chúng ta không, Severus?” Voldemort hỏi.
Snape nhướn mắt nhìn gương mặt bị quay ngược xuống. Tất cả bọn Tử Thần Thực Tử lúc này đều đang nhìn kẻ bị trói ngược như thể chúng nhận được lệnh cho phép lộ ra sự tò mò. Khi người đàn bà xoay mặt về phía ánh lửa, bà kêu lên bằng giọng ngắc ngứ kinh hoàng, “Severus! Cứu tôi!”
“À, có,” Snape nói khi kẻ bị trói lại chầm chậm xoay đi.
“Và mi, Draco?” Voldemort hỏi, vừa vuốt ve cái mõm rắn bằng bàn tay không cầm đũa phép. Draco ngắc ngứ lắc đầu. Giờ đây, khi người đàn bà đã tỉnh, Draco dường như không thể nào ngó bà ta nữa.
“Nhưng ắt là mi không theo học những lớp của mụ ta,” Voldemort nói. “Ta nói cho những ai trong chúng bây chưa biết, chúng ta họp ở đây đêm nay vì Charity Burbage, kẻ mới đây còn dạy ở trường Đào tạo Phù thủy và Pháp sư Hogwarts.”
Có tiếng xì xào nhận ra lan trong đám người ngồi quanh bàn. Một mụ ngang bè bè gù lưng răng nhọn hoắt cất tiếng nói như gà mái cục tác.
“Đúng... Giáo sư Burbage đã dạy con em các pháp sư và phù thủy đủ thứ về bọn Muggle... rằng chúng nó chẳng khác chúng ta cho lắm...”
Một tên trong bọn Tử Thần Thực Tử đạp phành phạch lên sàn. Charity Burbage lại xoay vòng đối diện với Snape.
“Severus... làm ơn... làm ơn...”
“Im,” Voldemort nói, hắn nhấp cây đũa phép của Malfoy một cái nữa, và Charity nín khe như bị bịt miệng. “Chưa vừa ý với việc làm băng hoại và ô nhiễm đầu óc trẻ con phù thủy, giáo sư Burbage tuần rồi đã viết một bài rất xúc động bênh vực bọn Máu bùn trên tờ Nhật báo Tiên Tri. Mụ nói, các phù thủy cần phải chấp nhận bọn ăn cắp tri thức và pháp thuật của họ. Sự thoái hóa của phù thủy thuần chủng, theo lời giáo sư Burbage, là điều đáng mong nhất... Hẳn mụ sẽ cho tất cả chúng ta lấy Muggle... hoặc, chắc ăn hơn, lấy người sói...”
Lần này không ai cười cả. Chẳng thể lầm được cơn thịnh nộ và sự khinh miệt trong giọng nói của Voldemort. Lần thứ ba, Charity Burbage lại xoay vòng đối mặt với Snape. Nước mắt đang trào từ mắt xuống tóc bà. Snape nhìn lại bà, hoàn toàn dửng dưng, trong khi bà lại chầm chậm xoay mặt đi.
“Avada Kedavra”
Ánh sáng xanh biếc lóe lên chiếu rọi khắp mọi góc phòng. Bà Charity rớt xuống mặt bàn bên dưới, gây nên một tiếng va chạm vang rền, khiến cái bàn rung lên kêu ken két. Nhiều Tử Thần Thực Tử nhảy bật ra khỏi ghế đang ngồi. Draco té từ trên ghế xuống sàn.
“Ăn tối, Nagini,” Voldemort nói dịu dàng, và con rắn khổng lồ đu đưa rồi tuột từ vai hắn xuống mặt bàn gỗ bóng láng.
DÂY LÀ CHƯƠNG !
 
M

marukokeropi

chương 2 nè
“Cái đồ...?”
Nó nhìn quanh, đầu cầu thang căn nhà số bốn, đường Privet Drive, trống trải. Có thể tách trà là sáng kiến của Dudley cho một cái bẫy ngố láu lỉnh. Giữ bàn tay chảy máu giơ cao, Harry dùng tay kia gom những mảnh vụn của cái tách lại và quăng chúng vào một cái sọt rác đã đầy nhóc khuất sau cánh cửa phòng ngủ. Rồi nó nặng nề bước qua buồng tắm, xả nước rửa ngón tay.
Thiệt là ngu ngốc, nhảm nhí, dễ khùng quá sức tưởng tượng khi mà chỉ còn bốn ngày nữa là nó có thể làm phép thuật... nhưng nó phải tự thừa nhận là vết cắt sâu nham nhở này không khéo sẽ đánh quỵ nó. Nó chưa bao giờ học cách chữa những vết thương, và bây giờ nó phải nghĩ tới chuyện đó – đặc biệt cho những kế hoạch trước mắt – điều này dường như là một thiếu sót nghiêm trọng của nền giáo dục pháp thuật. Ghi nhẩm trong đầu là sẽ hỏi Hermione cách làm, nó dùng một nùi bự giấy vệ sinh để chùi nước trà được bao nhiêu hay bấy nhiêu trước khi trở lại phòng ngủ và đóng sầm cánh cửa lại sau lưng.
Harry đã bỏ cả buổi sáng để lần đầu tiên soạn ra toàn bộ cái rương đi học của nó kể từ khi nó bắt đầu bỏ đồ đạc vô đó sáu năm về trước. Cứ mỗi lần bắt đầu một niên học mới từ đó tới nay, nó chỉ soạn sơ sơ ba phần tư bên trên của những thứ trong rương để thay thế hoặc cập nhật chúng, chừa lại một lớp những đồ lụn vụn nói chung ở dưới đáy rương – nào là viết lông ngỗng cũ, mắt bọ khô, vớ lẻ nó không mang vừa chân nữa. Mấy phút trước đó, Harry đã thọc tay vô mớ bùng nhùng này, lãnh một vết cắt đau điếng ở ngón thứ tư bàn tay phải, và khi rút tay ra thì thấy máu me tùm lum.
Bây giờ nó tiếp tục một cách cẩn thận hơn một tí. Lại quỳ xuống bên cạnh cái rương, nó mò quanh đáy, và sau khi lôi ra được một phù hiệu cũ vẫn còn lập lòe yếu ớt giữa Ủng hộ CEDRIC DIGGORY với POTTER THÚI HOẮC, một Ống kính mách lẻo te tua rạn nứt, và một cái mặt dây chuyền vàng bên trong có giấu một mẩu thư ngắn ký tên là R.A.B., nó rốt cuộc khám phá ra cái cạnh bén ngót đã gây họa cho nó. Nó nhận ra vật đó tức thì. Đó là một mảnh vỡ dài cỡ ba phân của cái gương đã được ểm bùa mà Sirius, người cha đỡ đầu quá cố, đã cho nó. Harry đặt mảnh gương vỡ qua một bên và cẩn thận dò khắp rương để kiếm phần còn lại, nhưng chẳng còn lại chút mảnh vụn nào của món quà cuối cùng của người cha đỡ đầu, ngoại trừ thủy tinh nát như bột bám dính vào lớp cuối cùng những đồ linh tinh lụn vụn tựa như kim tuyến lấp lánh.
Harry ngồi dậy và xem xét cái mảnh gương có cạnh bén ngót đã làm nó đứt tay. Nó chẳng thấy gì khác ngoài con mắt xanh biếc sáng quắc của chính nó nhìn ngược lại nó. Thế là nó đặt mảnh gương vỡ lên trên tờ Nhật báo Tiên Tri sáng hôm đó; tờ báo vẫn còn nằm trên giường, chưa được đọc, và bằng cách sục vào mớ rác còn lại trong rương, nó cố gắng dằn xuống cơn trào dâng đột ngột của những ký ức đắng cay, những vết chém của tiếc thương và mong mỏi mà việc tìm ra mảnh gương vỡ đã khơi gợi lên.
Mất thêm một giờ nữa nó mới hoàn toàn soạn ra được hết đồ đạc trong rương, quăng đi những đồ vô dụng, và sắp xếp những thứ được giữ lại thành những đống tùy theo những vật đó từ nay nó còn cần tới hay không cần tới nữa. Đồng phục đi học và đồng phục thi đấu Quidditch, vạc, giấy da, viết lông ngỗng, và hầu hết sách giáo khoa được chất đống ở một góc để được bỏ lại. Nó tự hỏi dì dượng nó sẽ làm gì với đống đó; có lẽ sẽ đem thiêu rụi giữa đêm khuya, như thể đó là tang chứng của một tội ác rùng rợn. Quần áo Muggle của nó, tấm Áo khoác Tàng hình, bộ đồ chế tạo độc dược, một số sách, tập ảnh bác Hagrid đã có lần đưa cho nó, một xấp thư, và cây đũa phép được dời chỗ sang một cái ba lô cũ. Trong túi trước là tấm Bản đồ Đạo tặc và cái mặt dây chuyền bên trong có bức thư ký tên R.A.B. Cái mặt dây chuyền được dành cho vị trí vinh dự đó không phải vì giá trị của nó – nó hoàn toàn vô tích sự hiểu theo mọi nghĩa thông thường – mà vì cái giá đã phải trả để có được nó.
Việc dọn dẹp để lại một đống báo khá to ngồi ì trên bàn bên cạnh con cú Hedwig trắng như tuyết: mỗi tờ cho một ngày mà Harry đã trải qua ở Privet Drive trong mùa hè này.
Nó đứng lên, duỗi tay chân, và đi tới cái bàn viết. Hedwig chẳng buồn nhúc nhích khi Harry bắt đầu giở đống báo ra, liệng từng tờ một vô đống rác. Con cú vẫn ngủ hay giả bộ ngủ; nó giận Harry về việc giới hạn thời gian nó được phép ngao du ở ngoài lồng trong lúc này.
Khi giở gần tới đáy đống báo, Harry chậm tay lại, tìm một số đặc biệt mà nó biết là được gởi đến ngay sau khi nó trở về Privet Drive để nghỉ hè; nó nhớ là trên trang đầu số báo đó có một tin nhỏ về việc từ chức của bà Charity Burbage, giáo viên môn Muggle Học ở trường Hogwarts. Cuối cùng nó tìm được tờ báo đó. Lật ra trang mười, nó ngồi lún xuống cái ghế bên bàn viết và đọc lại bài báo mà nó tìm nãy giờ.
NHỚ MÃI ALBUS DUMBLEDORE
ELPHIAS DOGE
Tôi gặp Albus Dumbledore năm mười một tuổi, vào ngày đầu tiên của chúng tôi ở trường Hogwarts. Chúng tôi thu hút lẫn nhau chắc chắn là vì cả hai cùng cảm thấy mình lạc lõng. Tôi mới mắc bệnh mụn rồng ít lâu trước khi đến trường Hogwarts, và tuy bệnh không còn lây nữa, nhưng bộ mặt còn dấu thẹo các nốt đậu cùng sắc mặt xanh xao của tôi làm nhiều người ngại đến gần tôi. Về phần Albus, anh đến trường Hogwarts dưới cái ách của tai tiếng ngoài ý muốn. Mới một năm trước đó, cha anh, Percival, đã bị kết tội vì một cuộc tấn công dã man ba thanh niên Muggle, vụ này khá nổi tiếng.
Albus không bao giờ tìm cách chối bỏ việc cha mình (về sau chết trong nhà tù Azkaban) đã phạm tội ác này; ngược lại, khi tôi thu hết can đảm hỏi anh, anh khẳng định với tôi là anh biết cha mình có tội. Trừ lần ấy ra, còn thì Dumbledore từ chối nói về chuyện buồn đó, mặc dù nhiều kẻ cố gắng kích cho anh nói. Thực vậy, một số kẻ sẵn sàng ca ngợi hành động của cha anh và cho là Albus cũng là kẻ ghét-Muggle. Những kẻ ấy quá sức sai lầm: vì bất cứ ai từng biết Albus sẽ chứng thực rằng anh không hề để lộ chút xíu khuynh hướng chống-Muggle nào. Quả thực, sự cương quyết ủng hộ Muggle quyền của anh đã khiến cho anh có nhiều kẻ thù trong những năm sau đó.
Tuy nhiên, chỉ trong vòng vài tháng, tên tuổi của chính Albus đã bắt đầu che khuất tai tiếng của người cha. Đến cuối năm thứ nhất thì không còn ai nhìn anh như là con trai của một kẻ ghét-Muggle nữa, mà chỉ coi anh gần như là học sinh xuất sắc nhất từ xưa tới nay của trường. Những ai trong chúng tôi được vinh dự là bạn của anh đều thu được nhiều điều bổ ích từ tấm gương của anh, ấy là chưa kể còn được anh giúp đỡ và khuyến khích – những nghĩa cử đó anh luôn sẵn sàng làm. Về sau này, anh thú nhận với tôi là ngay từ hồi còn đi học anh đã tìm thấy niềm khoái lạc lớn nhất của mình trong việc dạy dỗ.
Anh không chỉ đoạt được mọi giải thưởng đáng kể ở trường, mà chẳng mấy chốc anh đã có trao đổi thư từ thường xuyên với những tên tuổi nổi nhất trong giới pháp thuật đương thời, kể cả Nicolas Flamel, nhà giả kim lừng lẫy nhất; Bathilda Bagshot, sử gia lừng danh; và Adalbert Waffling, nhà lập thuyết pháp thuật. Nhiều bài viết của anh đã tìm được cách xuất hiện trên những ấn phẩm uyên bác như Thuật Biến Hình Ngày Nay, Những Thách Thức trong Ếm Bùa và Độc Dược Gia Thực Hành. Sự nghiệp tương lai của Dumbledore tỏ ra rất có triển vọng rực rỡ, và vấn đề duy nhất còn lại là khi nào anh sẽ trở thành Bộ trưởng Bộ Pháp thuật. Mặc dù trong những năm về sau người ta thường dự đoán là anh sắp đảm nhiệm công việc đó, thế nhưng anh không hề nuôi tham vọng nắm quyền Bộ trưởng.
Ba năm sau khi chúng tôi nhập học ở Hogwarts, em trai của Albus là Aberforth cũng đến trường. Họ không giống nhau cho lắm: Aberforth chẳng hề đam mê sách vở, và chẳng giống anh Albus, chú em khoái giải quyết những vụ cãi cọ bằng đấu tay đôi hơn là tranh luận cho ra lẽ. Dù vậy, hoàn toàn sai lầm nếu (như một số người) cho rằng, hai anh em này không làm bạn với nhau được. Hai người hòa thuận, cũng thoải mái như bất kỳ hai đứa con trai nào sống cùng nhau. Để công bằng với Aberforth, phải thừa nhận rằng sống trong cái bóng của Albus thì nói chung không thể là một trải nghiệm dễ chịu cho lắm. Làm bạn với anh mà cứ bị án bóng hoài đã là một hiểm họa thường trực, thì làm đứa em bị án bóng lại càng không sung sướng gì.
Khi Albus và tôi tốt nghiệp trường Hogwarts, chúng tôi có ý định cùng nhau làm một chuyến du hành thế giới có tính truyền thống vào thời đó, thăm thú và xem xét các phù thủy nước ngoài, trước khi theo đuổi sự nghiệp riêng của mỗi người. Thế nhưng, bi kịch đã chen vào. Đúng cái đêm trước ngày khởi hành chuyến viễn du của chúng tôi, bà Kendra mẹ của Albus qua đời, để lại cho Albus gánh nặng gia đình mà anh là trụ cột duy nhất. Tôi hoãn ngày khởi hành một thời gian để đến bày tỏ lòng tôn kính phân ưu tại tang lễ bà Kendra, rồi ra đi thực hiện cuộc lữ hành giờ đây chỉ còn lại một mình. Còn lại một người em trai và một người em gái để chăm sóc, trong khi gia sản chẳng còn sót lại mấy đồng vàng, vì vậy cũng chẳng còn chuyện Albus đi cùng tôi nữa.
Đó là giai đoạn trong đời mà chúng tôi ít liên lạc với nhau nhất. Tôi viết thư cho Albus, miêu tả một cách vô ý tứ những điều kỳ thú của chuyến đi, từ chuyện chạy thoát trong gang tấc con sư-dương-xà ở Hy Lạp, cho đến những thí nghiệm của các nhà giả kim Ai Cập. Thư của anh cho tôi biết rất ít về cuộc sống qua ngày của anh, cuộc sống mà tôi đoán là nhạt nhẽo đến phát cuồng đối với một phù thủy xuất sắc như anh. Say sưa với những trải nghiệm của chính mình, tôi thật kinh hoàng khi nghe tin, vào cuối cuộc du hành gần cả năm của tôi, một bi kịch nữa lại giáng xuống gia đình Dumbledore: em gái của anh, Ariana, đã chết.
Mặc dù Ariana đã ốm yếu suốt một thời gian dài, tai họa này, xảy ra quá nhanh sau khi người mẹ vừa mới mất, đã ảnh hưởng sâu sắc đến cả hai người anh của cô. Tất cả những ai thân cận nhất với Albus – và tôi tự cho mình là nằm trong số người may mắn đó – đều đồng ý rằng cái chết của Ariana và mặc cảm của Albus về trách nhiệm cá nhân trong cái chết đó (mặc dù, dĩ nhiên, anh vô tội), đã để lại vết chàm trong suốt cuộc đời còn lại của anh.
Tôi trở về quê nhà và nhận ra một chàng trai trẻ đã phải trải nỗi đau khổ của một người già dặn hơn rất nhiều. Albus trở nên nghiêm nghị hơn xưa, và rất ít khi vui vẻ. Bồi thêm vào nỗi tang thương của anh, cái chết của Ariana còn dẫn tới, không phải sự gần gũi được nối lại giữa Albus và Aberforth, mà là sự bất hòa. (Theo thời gian điều này cũng mất đi – những năm về sau, hai anh em đã thiết lập lại, nếu không phải là một quan hệ gần gũi, thì chắc chắn cũng là một tình thân ái.) Tuy nhiên, từ dạo ấy về sau, anh hiếm khi nào nói về cha mẹ mình hay về Ariana, và bạn bè anh cũng biết là không nên nói tới họ.
Những cây bút lông ngỗng khác sẽ miêu tả nhiều chiến thắng của những năm sau đó. Những đóng góp không kể xiết của Dumbledore vào kho tàng kiến thức pháp thuật (trong đó có khám phá của anh về mười hai công dụng của máu rồng) đem lại lợi ích cho nhiều thế hệ sau này, cũng như sự khôn ngoan mà anh đã thể hiện trong nhiều phán quyết khi làm Tổng Tướng quân của Liên minh pháp thuật. Dù vậy, người ta nói rằng chưa từng có trận đấu pháp thuật tay đôi nào so được với trận đấu giữa Dumbledore và Grindelwald năm 1945. Những ai từng chứng kiến trận đó đã mô tả nỗi khủng khiếp và kinh hoàng mà họ cảm thấy khi xem hai pháp sư xuất chúng ấy lâm trận. Chiến thắng của Dumbledore, và hệ quả của chiến thắng đó đối với thế giới pháp thuật, được coi là bước ngoặt trong lịch sử pháp thuật, quan trọng ngang với sự đề xuất Quy chế Quốc tế về Bí mật hay sự sụp đổ của Kẻ-chớ-gọi-tên-ra.
Albus Dumbledore không hề tự hào hay huênh hoang; anh có thể tìm ra điều gì đó đáng quý ở bất cứ ai, cho dù kẻ đó tầm thường hay tồi tệ thấy rõ, và tôi tin là những mất mát thời trẻ đã đem lại cho anh khả năng cảm thông cùng lòng nhân đạo lớn lao. Tôi sẽ không thể tả hết nỗi nhớ tình bằng hữu với anh, nhưng mất mát của tôi chẳng đáng kể gì so với mất mát của thế giới pháp thuật. Chắc chắn anh là hiệu trưởng được yêu kính nhất và là tấm gương sáng nhất trong tất cả hiệu trưởng xưa nay ở trường Hogwarts. Anh đã chết như anh đã sống: luôn cống hiến cho cái thiện cao cả hơn, và cho đến tận giờ phút cuối cùng của mình, anh vẫn sẵn lòng đưa tay giúp một thằng bé con mắc bệnh mụn rồng như thuở tôi mới gặp anh.
Harry đã đọc xong nhưng vẫn tiếp tục nhìn đăm đăm bức ảnh đăng kèm theo bài cáo phó. Cụ Dumbledore vẫn nở nụ cười ân cần quen thuộc, nhưng khi nhướn mắt qua gọng kiếng hình nửa mặt trăng, cụ vẫn khiến cho Harry có cảm giác, dù là trên tờ giấy báo, là cụ đang nhìn thấu suốt Harry, kẻ mang trong mình nỗi buồn trộn lẫn với cảm giác hổ thẹn.
Nó cứ tưởng nó biết cụ Dumbledore rõ lắm, nhưng từ lúc đọc xong bài cáo phó này, nó đã phải bất đắc dĩ nhìn nhận rằng nó hầu như chẳng biết gì về cụ cả. Trước giờ Harry chưa từng tưởng tượng ra tuổi thơ hay tuổi trẻ của cụ Dumbledore; cứ như thể cụ vào đời đã là người như nó vẫn biết: già nua, tóc bạc, tôn nghiêm. Cái ý nghĩ về một Dumbledore tuổi mới lớn sao thấy kỳ kỳ, giống như tưởng tượng một Hermione ngốc nghếch hay một Quái tôm Đuôi nổ dễ thương vậy.
Nó chưa bao giờ nghĩ tới việc hỏi cụ Dumbledore về quá khứ của cụ. Chắc chắn hỏi như vậy thì kỳ và thậm chí vô lễ, nhưng nói cho cùng thì ai cũng biết cụ Dumbledore từng tham dự trận đấu tay đôi huyền thoại với Grindelwald, và Harry đã không nghĩ đến việc hỏi cụ Dumbledore trận đó như thế nào, cũng không hề hỏi về bất cứ thành tích nào trong những thành tích nổi tiếng khác của cụ. Không, hai thầy trò lúc nào cũng chỉ trò chuyện về Harry, về quá khứ của Harry, tương lai của Harry, kế hoạch của Harry... và giờ đây, bất chấp cái thực tế là tương lai của nó quá hiểm nghèo và bất định, dường như nó đã bỏ lỡ mất rồi những cơ hội không bao giờ có được nữa để hỏi cụ Dumbledore nhiều hơn về chính cụ, mặc dù câu hỏi thân tình duy nhất nó từng hỏi thầy hiệu trưởng của mình lại chính là câu hỏi mà nó ngờ rằng cụ Dumbledore đã không thành thật trả lời.
“Thầy nhìn thấy cái gì khi nhìn vào tấm gương?”
“Thầy ư? Thầy thấy chính mình đang cầm một đôi vớ len dày.”
Sau nhiều phút suy nghĩ, Harry xé bài cáo phó ra khỏi tờ báo Tiên Tri, gấp lại cẩn thận, và nhét vào bên trong quyển đầu tiên của bộ Pháp Thuật Phòng Thủ Thực Tiễn và Ứng Dụng Chống Lại Nghệ Thuật Hắc Ám. Rồi nó quăng mớ báo còn lại lên đống rác và quay lại nhìn căn phòng. Đã ngăn nắp sạch sẽ hơn nhiều. Cái duy nhất còn ở trật chỗ là tờ Nhật báo Tiên Tri số ra hôm nay, vẫn còn nằm trên giường, và bên trên nó là mảnh gương vỡ.
Harry băng ngang căn phòng, đẩy mảnh gương vỡ ra khỏi tờ báo Tiên Tri số hôm nay, và mở tờ báo ra. Hồi sáng sớm này khi nhận cuộn báo từ con cú phát báo, Harry chỉ liếc qua cái tít trang nhứt rồi liệng tờ báo qua một bên sau khi nhận thấy báo chẳng đá động gì đến Voldemort. Harry tin chắc là Bộ Pháp thuật đang dựa vào tờ Tiên Tri để bưng bít tin tức về Voldemort. Thành ra, chỉ bây giờ nó mới thấy cái mà nó đã bỏ sót.
Chạy ngang nửa dưới của trang nhứt là một cái tít nhỏ hơn đặt bên trên một bức ảnh của cụ Dumbledore đang sải bước, có vẻ bực bội.
DUMBLEDORE – RỐT CUỘC SỰ THẬT Ư?
Câu chuyện chấn động về một thiên tài hoàn hảo được nhiều người coi là pháp sư vĩ đại nhất thuộc thế hệ của ông sẽ phát hành vào tuần tới. Bóc trần chân dung nổi tiếng của trí tuệ râu bạc thanh thoát, Rita Skeeter để lộ ra tuổi thơ xáo trộn, tuổi trẻ hoang đàn, những hận thù suốt kiếp, và những bí mật tội lỗi mà Dumbledore đã mang theo xuống mồ, TẠI SAO người được trao cho chức Bộ trưởng Bộ Pháp thuật lại bằng lòng giữ chức hiệu trưởng quèn? CÁI GÌ mới là mục đích thực sự của tổ chức bí mật được gọi là Hội Phượng Hoàng? Cuộc đời của Dumbledore đã kết thúc NHƯ THẾ NÀO?
Câu trả lời cho những câu hỏi này và nhiều câu hỏi khác nữa được nghiên cứu trong một quyển tiểu sử mới hứa hẹn xì-căn-đan, Chuyện Đời và Chuyện Xạo của Albus Dumbledore, tác giả Rita Skeeter, bài phỏng vấn dành riêng cho bổn báo của Berry Braithwaite, trang 13, bên trong.
Harry xé banh tờ báo và tìm thấy trang 13. Đầu bài báo là bức ảnh của một gương mặt quen thuộc khác: một người đàn bà đeo kính làm điệu, mái tóc vàng uốn cong chải chuốt, răng nhe ra trong cái thứ rõ ràng được coi là nụ cười thắng cuộc, đang ngọ nguậy ngón tay chỉ vào nó. Ráng hết sức lờ đi cái chân dung phát ói này, Harry đọc tiếp.
Về bản thân, Rita Skeeter nồng nàn và dịu dàng hơn nhiều những gì ta hình dung khi đọc những chân dung hung hăng nổi tiếng chị viết. Đón tôi trong hành lang ngôi nhà ấm cúng của chị, Rita dẫn tôi đi thẳng vào nhà bếp để mời trà, bánh ngọt, và khỏi cần nói, một nồi sôi sùng sục chuyện đồn đại mới nhất.
“Ừ, đương nhiên, Dumbledore là giấc mơ của một tiểu sử gia,” Skeeter nói. “Một cuộc đời dài trọn vẹn. Tôi chắc chắn là cuốn sách của tôi sẽ là cuốn đầu tiên của rất, rất nhiều cuốn nữa.”
Skeeter hẳn nhiên đã vọt nhanh khỏi vạch xuất phát. Quyển sách chín-trăm-trang được hoàn tất chỉ trong bốn tuần lễ sau cái chết bí ẩn của Dumbledore hồi tháng sáu. Tôi hỏi chị xoay trở cách nào để lập được kỳ tích siêu nhanh này.
“À, khi nào bạn hành nghề báo chí lâu như tôi, thì viết cho kịp hạn chót nộp bài là bản năng thứ hai. Tôi biết là thế giới pháp thuật đang kêu gào đòi hỏi một câu chuyện đầy đủ và tôi muốn là người đầu tiên đáp ứng nhu cầu này.”
Tôi nhắc đến những nhận xét được công bố rộng rãi gần đây của Elphias Doge, Cố vấn đặc biệt của Liên minh Pháp thuật và là người bạn lâu đời của Dumbledore, rằng “quyển sách của Skeeter chứa ít sự thật hơn cả một tấm thẻ nhái sô-cô-la.”
Skeeter ngửa đầu ra sau cười ha hả.
“Dodgy đáng yêu thật! Tôi nhớ từng phỏng vấn ổng cách đây vài năm về ngư nhân quyền, trời đất ơi. Hoàn toàn lẩm cẩm, hình như nghĩ chúng ta đang ngồi dưới đáy hồ Windermere hay sao ấy, cứ bảo tôi phải coi chừng lũ cá hồi.”
Thế nhưng lời cáo buộc của Elphias Doge về sự thiếu chính xác đã được nhiều nơi hưởng ứng. Liệu Skeeter có thực sự cảm thấy bốn tuần lễ ngắn ngủi là đủ để có được một bức tranh toàn diện về cuộc đời dài và phi thường của Dumbledore không?
“Ôi, cưng ơi,” Skeeter cười toe, âu yếm cốc đầu tôi bằng mấy đốt ngón tay, “cưng cũng biết như tôi đấy, là có thể moi được bao nhiêu thông tin bằng một bao to sụ toàn đồng Galleon, bằng từ chối nhận tiếng ‘không’, và bằng một cây viết Trích-Dẫn-Nhanh! Với lại người ta đang sắp hàng để buôn chuyện về Dumbledore kìa. Cưng biết mà, đâu phải ai cũng nghĩ ổng tuyệt vời đâu – ổng đã làm mếch lòng khối người quan trọng đấy. Nhưng lão già Doge láu cá có thể tụt khỏi con bằng mã cao vót của lão đi thôi, bởi vì tôi vừa tiếp cận được một nguồn tin mà hầu hết ký giả sẵn sàng đổi cây đũa phép của mình để có được; nguồn tin là một người trước đây chưa từng phát biểu với công chúng, đồng thời là người thân cận với Dumbledore trong suốt thời kỳ hỗn loạn rối rắm của tuổi trẻ ông ta.”
Việc quảng cáo trước cuốn tiểu sử của Skeeter chắc chắn khiến ta nghĩ sắp tới sẽ có những cơn chấn động nơi những người vẫn tin rằng Dumbledore đã sống một cuộc đời không có chỗ chê. Những ngạc nhiên lớn nhất mà Skeeter vạch ra là gì, tôi hỏi.
“Ấy, thôi đi nhé, Betty, tôi sẽ chẳng phát không tất cả những gì sáng giá nhất trước khi có người mua cuốn sách của tôi đâu nhá!” Skeeter cười lớn. “Nhưng tôi có thể hứa là bất cứ ai vẫn còn nghĩ Dumbledore trắng bóc như râu ổng rồi sẽ lâm vào cuộc tỉnh ngộ dã man! Chỉ cần đơn cử, không một ai từng nghe về cơn thịnh nộ của ổng đối với Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đó lại có thể nằm mơ rằng chính ổng từng học đòi Nghệ thuật Hắc ám hồi còn trai trẻ! Và mặc dù là một pháp sư đã dành những năm cuối đời để kêu gọi lòng khoan dung, nhưng hồi còn trẻ trung ổng lại không có đầu óc khoáng đạt như thế! Vâng, Albus Dumbledore đã có một quá khứ đục ngầu, chưa kể đến một gia đình rất mập mờ, mà ổng đã bỏ công khó nhọc ra bưng bít.”
Tôi hỏi có phải Skeeter nói đến người em trai của Dumbledore, Aberforth, người đã bị Liên minh Pháp thuật buộc tội lạm dụng pháp thuật và việc đó đã gây ra một xì-căn-đan nho nhỏ cách đây mười lăm năm.
“Ối, Aberforth chỉ là cái chóp của đống cứt ấy mà thôi.” Skeeter cười. “Không, không, tôi đang nói về cái điều còn tồi bại hơn cả một ông em có cái thú làm trò vớ vẩn với mấy con dê, tồi bại hơn cả một người cha chuyên xẻ-thịt-Muggle – Đằng nào thì Dumbledore cũng không thể giữ kín được hai chuyện đó, cả hai người đó đều đã bị Liên minh Pháp thuật kết án. Không, chính người mẹ và người em gái mới khiến tôi tò mò, và chỉ cần đào bới chút xíu là phát hiện ra cả một ổ kinh tởm hết sức – nhưng, như tôi đã nói, cưng phải chờ đọc từ chương chín đến chương mười hai để biết chi tiết đầy đủ. Tất cả những gì tôi có thể nói lúc này là chẳng có gì để thắc mắc tại sao Dumbledore không bao giờ kể ổng đã gãy mũi như thế nào.”
Cho dù có những việc xấu xa của gia đình, nhưng liệu Skeeter có phủ nhận tài ba lỗi lạc đã làm nên nhiều khám phá pháp thuật của Dumbledore?
“Ổng có đầu óc.” Skeeter thừa nhận. “Mặc dù giờ đây nhiều người nghi vấn là liệu ông ta có nên hưởng trọn công lao về tất cả những khám phá được coi là của ông ta không. Như tôi tiết lộ trong chương mười sáu, Ivor Dillonsby tuyên bố, khi Dumbledore ‘mượn’ bài luận văn của ông, ông đã khám phá ra tám công dụng của máu rồng rồi.”
Nhưng, tôi mạo muội có ý kiến, rằng không thể phủ nhận tầm quan trọng của một số thành tích của Dumbledore. Một vụ rất nổi tiếng là ông đánh bại Grindelwald thì sao?
“A, đây rồi, tôi mừng là cưng nhắc đến Grindelwald,” Skeeter nói với một nụ cười thiệt là trêu ngươi. “Tôi e rằng những người nào vẫn còn mờ mắt về chiến thắng ngoạn mục của Dumbledore sẽ phải gồng mình mà đối phó với một quả bom dư luận – mà có lẽ là một quả bom phân. Một vụ bầy hầy thật sự. Tôi chỉ có thể nói là, đừng có chắc mẻm là đã có thực một trận đấu tay đôi ngoạn mục như trong truyền thuyết. Sau khi đọc cuốn sách, người ta có thể buộc lòng phải kết luận rằng Grindelwald chỉ đơn giản được chiêu hồn bằng một chiếc khăn tay trắng từ đầu cây đũa phép của ổng và hành động một cách lặng lẽ.”
Skeeter từ chối đưa ra thêm điều gì về vật chiêu hồn này, vì vậy chúng tôi xoay qua mối quan hệ chắc chắn sẽ hấp dẫn độc giả của chị hơn bất cứ điều gì khác.
“À, phải.” Skeeter nói, nhanh nhẩu gật đầu, “Tôi dành trọn một chương cho toàn bộ quan hệ Potter-Dumbledore. Lâu nay quan hệ đó được coi là không lành mạnh, thậm chí xúi quẩy. Một lần nữa, độc giả báo của cưng sẽ phải mua cuốn sách của tôi để biết toàn bộ câu chuyện, nhưng rõ ràng là Dumbledore có mối quan tâm không bình thường đối với Potter ngay từ ban sơ. Liệu đó có thật sự vì quyền lợi cao nhất của thằng bé không – Chà, chúng ta sẽ biết. Chuyện Potter trải qua một thời mới lớn lộn xộn bậc nhất chắc chắn là một bí mật mà ai cũng biết.”
Tôi hỏi Skeeter có còn liên lạc với Harry Potter, người mà chị đã từng có một cuộc phỏng vấn nổi tiếng hồi năm ngoái: một bài báo đột phá trong đó Potter nói riêng về việc cậu tin chắc chắn Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đó đã trở lại.
“À, có chứ, chúng tôi ngày càng gắn bó thân thiết hơn,” Skeeter nói. “Potter đáng thương có rất ít bạn bè thực sự, và chúng tôi đã gặp nhau vào một trong những thời điểm thử thách nhất trong đời cậu bé – Cuộc thi đấu Tam pháp thuật. Tôi có lẽ là người đang sống duy nhất có thể nói mình biết Harry Potter chánh hiệu.”
Điều này đưa ngay chúng tôi đến những chuyện đồn đãi vẫn còn lan truyền về giờ phút cuối cùng của Dumbledore. Liệu Skeeter có tin là Potter có mặt ở đó khi Dumbledore chết không?
“Chà, tôi không muốn nói quá nhiều – tất cả đều có trong cuốn sách – nhưng những nhân chứng bên trong lâu đài Hogwarts đã nhìn thấy Potter chạy ra khỏi hiện trường chỉ mấy phút sau khi Dumbledore gục ngã, (cũng có thể ông ta nhảy xuống, hay bị đẩy xuống). Về sau Potter làm chứng chống lại Severus Snape, một người mà cậu bé nổi tiếng là có ác cảm. Liệu mọi việc có đúng như ai cũng tưởng không? Điều đó để cho cộng đồng pháp thuật quyết định, một khi họ đọc cuốn sách của tôi.“
Tôi ra về mang theo sự lưu ý hấp dẫn đó. Không nghi ngờ gì, Rita Skeeter đã viết ra một cuốn sách bán chạy ăn liền. Trong lúc ấy, đám đông ngưỡng mộ Dumbledore có thể sẽ phải run rẩy trước những điều chẳng bao lâu nữa sẽ lộ ra về người anh hùng của họ.
Harry đã đọc hết dòng cuối của bài báo, nhưng mắt vẫn ngây ra ngó chằm chằm trang báo không dứt được. Sự ghê tởm và phẫn nộ trào lên trong người nó như muốn ói, nó vo tròn tờ báo và quăng mạnh vô tường bằng tất cả sức lực, cục báo nhập vô đám rác chất đống quanh cái thùng rác đã đầy tràn.
Nó bắt đầu sải bước quanh căn phòng một cách mù quáng, mở tung những ngăn kéo đã trống rỗng và cầm lên những cuốn sách để rồi lại đặt trở vào chỗ cũ, hầu như không ý thức mình đang làm gì, khi cứ lộn xộn từng câu chữ trong bài phỏng vấn Rita vang vọng trong đầu nó: “... trọn một chương cho toàn bộ quan hệ Potter-Dumbledore... lâu nay quan hệ đó được coi là không lành mạnh, thậm chí xúi quẩy... chính ổng từng học đòi Nghệ thuật Hắc ám thời trai trẻ... tôi đã tiếp cận được một nguồn mà hầu hết các ký giả sẽ đánh đổi cây đũa phép để có được...”
“Láo!” Harry gào lên, và qua khung cửa sổ nó thấy ông hàng xóm nhà kế bên, vừa ngừng lại để khởi động cái máy cắt cỏ của ông ta, ngó lên lo lắng.
Harry ngồi phịch xuống giường. Mảnh gương vỡ nhảy múa ra xa nó; nó lượm lên và xoay mảnh gương vỡ trong mấy ngón tay, nghĩ mãi, nghĩ mãi về cụ Dumbledore cùng những điều dối trá mà Rita đang dùng để phỉ báng cụ...
Một ánh sáng xanh lơ nhá lên. Harry sững sờ, ngón tay bị đứt của nó lại cứa vào cạnh bén của mảnh gương vỡ một lần nữa. Nó đã tưởng tượng, ắt là nó đã tưởng tượng ra thôi. Nó liếc ra sau, nhưng bức tường chỉ toàn một màu đào chín bệnh hoạn mà dì Petunia ưng chọn. Chẳng có gì ở đó màu xanh lơ để cho mảnh gương phản chiếu. Nó săm soi nhìn vào mảnh gương một lần nữa, và chẳng thấy gì ngoài con mắt sáng xanh biếc của chính nó ngó lại nó.
Nó đã tưởng tượng, chứ không có cách giải thích nào khác; đã tưởng tượng ra điều đó, bởi vì nó đang nghĩ đến thầy hiệu trưởng đã mất. Nếu có điều gì đó chắc chắn, thì điều đó là đôi mắt sáng xanh lơ của cụ Albus Dumbledore sẽ không bao giờ nhìn thấu lòng nó nữa
 
M

marukokeropi

đây là chương 3Mười sáu năm trời bị gọi như vậy khiến cho Harry chẳng còn thắc mắc gì khi dượng nó gọi, mà dù gì đi nữa, nó cũng không thèm đáp ngay. Nó vẫn còn để tâm vào mảnh gương hẹp mà thoáng trong một giây nó đã tưởng nhìn thấy mắt cụ Dumbledore trong đó. Chỉ đến khi dượng nó rống “THẰNG RANH!” Harry mới thủng thẳng ra khỏi giường, đi về phía cửa phòng ngủ, ngừng một tí để bỏ mảnh gương vỡ vào cái ba lô đã đầy nhóc những thứ mà nó sẽ vác theo bên mình.
“Mày từ tốn quá hén!” Dượng Vernon Dursley gầm lên khi Harry xuất hiện trên đầu cầu thang, “Xuống đây ngay! Tao muốn nói đôi lời!”
Harry thong thả bước xuống cầu thang, hai tay thọc sâu trong túi quần. Khi nó vô tới phòng khách thì thấy cả ba người trong gia đình Dursley đều đã có mặt. Họ đều ăn mặc thích hợp để đi đường; dượng Vernon mặc một cái áo khoác cũ cài bằng dây kéo suốt, dì Petunia mặc áo khoác màu cá hồi gọn ghẽ, còn Dursley, thằng anh bà con của Harry, vạm vỡ to xác tóc vàng hoe, thì khoác áo da.
“Dạ?” Harry hỏi.
“Ngồi xuống!” Dượng Vernon bảo. Harry nhướn mày lên. “Mời!” Dượng Vernon bổ sung, mặt hơi cau lại như thể cái từ đó cứa vào cổ họng ông.
Harry ngồi xuống. Nó nghĩ là nó biết chuyện gì sắp xảy ra. Dượng nó bắt đầu đi qua đi lại. Dì Petunia và Dudley dõi theo cử động của ông với vẻ mặt căng thẳng. Cuối cùng, bộ mặt to bè tím đỏ của dượng rúm lại vì tập trung tư tưởng cao độ. Dượng Vernon đứng lại trước mặt Harry và phát biểu.
“Tao đã thay đổi ý kiến,” dượng nói.
“Thiệt là ngạc nhiên,” Harry đáp.
“Mày đừng giở cái giọng...” Dì Petunia lên tiếng, giọng the thé, nhưng dượng Vernon phất tay dẹp dì xuống.
“Việc này nhiều mắc mứu lắm,” dượng Vernon nói, quắc đôi mắt heo ti hí nhìn Harry. “Tao đã quyết định là tao không thèm tin một lời nào hết. Chúng tao cứ ở tại chỗ. Chúng tao sẽ không đi đâu hết.”
Harry ngước nhìn dượng nó và cảm thấy vừa muốn phát khùng vừa muốn bật cười. Dượng Vernon Dursley cứ mỗi hai mươi bốn giờ lại đổi ý một lần trong suốt bốn tuần lễ qua, hết chất đồ lên xe rồi lại dỡ đồ xuống theo nhịp thay đổi cảm xúc. Harry khoái nhất là lúc dượng Vernon, vì không dè Dudley đã bỏ vô va-li của nó mấy quả tạ sau lần mở gói đóng gói trước đó, nên đã cố nhấc cái va-li bỏ trở vô cốp để hành lý của chiếc xe hơi, và té chúi nhủi, phát ra những tiếng rống đau đớn kèm theo vô số lời chửi bới.
“Theo mày,” dượng Vernon nói, bây giờ dượng lại tiếp tục đi qua đi lại trong phòng khách, “thì chúng tao – Petunia, Dudley và ta – đang bị đe dọa tính mạng. Bởi... bởi...”
“Một số kẻ trong ‘bọn tôi’, đúng.” Harry nói.
“Này, tao không tin chuyện đó,” dượng Vernon lặp lại, và lại dừng bước trước mặt Harry. “Tao đã thao thức nửa đêm suy nghĩ lại toàn bộ chuyện này, và tao tin đó là một âm mưu chiếm đoạt căn nhà.”
“Nhà?” Harry lặp lại. “Nhà nào?”
“Nhà này! Giá nhà đang tăng vọt lên trong vùng này! Mày muốn lừa chúng tao ra khỏi nhà rồi mày sẽ trổ vài mánh khóe lừa gạt xong giấy tờ sẽ đứng tên mày và trước khi chúng tao kịp biết thì...”
“Dượng mất trí rồi hả?” Harry hỏi. “Âm mưu chiếm căn nhà này? Không lẽ dượng ngu thiệt chứ không phải trông có vẻ ngu?”
“Mày dám hỗn...!” Dì Petunia thét lên, nhưng một lần nữa dượng Vernon lại phất tay trấn dì xuống. Xúc phạm nho nhỏ về ngoại diện cá nhân dượng có vẻ chẳng ăn thua gì so với hiểm họa mà dượng vừa phát hiện.
“Nếu dượng quên rồi thì con nhắc,” Harry nói, “con đã có nhà rồi, cha đỡ đầu đã để lại cho con một căn. Vậy thì con chiếm căn nhà này để làm gì? Để giữ tất cả những kỷ niệm hạnh phúc à?”
Im lặng. Harry nghĩ bằng những lời lẽ này nó đã hơi thuyết phục được dượng nó.
“Mày cho rằng,” dượng Vernon nói, lại tiếp tục đi qua đi lại, “cái tay Chúa tể Gì đó...”
“... Voldemort,” Harry sốt ruột tiếp lời. “Và chúng ta đã nói đi nói lại về chuyện này hàng trăm lần rồi. Đây không phải là chuyện cho rằng, đó là sự thật. Thầy Dumbledore đã nói với dượng hồi năm ngoái, chú Kingsley và ông Weasley cũng...”
Dượng Vernon Dursley gồng vai lên giận dữ, và Harry đoán là dượng đang cố gắng gạt đi những hồi tưởng về cuộc viếng thăm không báo trước của hai pháp sư người lớn hẳn hòi chỉ vài ngày sau khi Harry về đây nghỉ hè. Việc Kingsley Shacklebolt và Arthur Weasley xuất hiện ở ngưỡng cửa nhà Dursley đã trở thành một cơn chấn động khó chịu nhất đối với gia đình Dursley. Nhưng Harry phải thừa nhận rằng, do ông Weasley từng làm tanh bành hết một nửa phòng khách nhà Dursley, nên không thể trông mong sự tái xuất hiện của ông sẽ khiến dượng Vernon hân hoan chào mừng.
“Chú Kingsley và ông Weasley đều đã giải thích tất cả rồi,” Harry tiếp tục nói rấn tới không chút áy náy. “Một khi con tròn mười bảy tuổi, bùa bảo hộ cho con được bình yên sẽ hết hiệu lực, và khi đó cả con lẫn gia đình dì dượng đều bị nguy hiểm. Hội chắc chắn rằng Voldermort sẽ nhắm vào gia đình dượng, hoặc là tra tấn dì dượng để truy ra chỗ con ở, hoặc là hắn cho rằng bắt giữ gia đình dượng làm con tin sẽ khiến con phải đến mà cứu dì dượng.”
Ánh mắt dượng Vernon và ánh mắt Harry gặp nhau. Harry chắc rằng trong tích tắc đó cả hai đều thắc mắc cùng một việc. Sau đó dượng Vernon tiếp tục bước và Harry tiếp tục nói.
“Gia đình dượng phải dọn đến nơi ẩn náu an toàn và Hội muốn giúp đỡ. Người ta đang dành cho gia đình dượng sự bảo vệ tốt nhất, nghiêm nhặt nhất đó.”
Dượng Vernon không nói gì nhưng vẫn tiếp tục bước tới bước lui. Bên ngoài mặt trời đã xuống thấp tới mấy hàng giậu thủy lạp. Cái máy cắt cỏ của nhà bên cạnh lại chết máy.
“Tao tưởng có một Bộ Pháp thuật chứ?” Dượng Vernon đột ngột hỏi
“Có chứ.” Harry nói, ngạc nhiên.
“Vậy thì, tại sao họ không bảo vệ chúng ta? Theo tao thấy thì, những nạn nhân vô tội chúng tao, chẳng có lỗi gì ngoài việc nuôi dưỡng chứa chấp một kẻ bị truy nã thì đáng được chính quyền bảo vệ lắm chứ.”
Harry bật cười; nó không thể nhịn được. Trông mong hy vọng vào chính quyền, thậm chí chính quyền trong một thế giới mà dượng miệt thị và không tin tưởng, thì thiệt đúng là tính đặc thù của dượng Vernon.
“Dượng đã nghe những gì chú Kingsley và ông Weasley nói.” Harry đáp. “Họ cho là Bộ Pháp thuật đã bị địch thâm nhập rồi.”
Dượng sải dài bước chân về phía lò sưởi rồi quay trở lại, thở mạnh đến nỗi bộ ria đen vĩ đại đùn bộ mặt vẫn còn tím đỏ vì sự tập trung tư tưởng nổi lên những nếp u nần.
“Thôi được,” dượng nói. Lại dừng bước trước mặt Harry một phen nữa. “Được rồi, cứ coi như vì lí lẽ của mày mà tao chấp nhận sự bảo vệ này đi. Nhưng tao vẫn không hiểu tại sao chúng ta lại không được tay Kingsley đó bảo vệ.”
Harry cố gắng không đảo tròn con mắt, nhưng thật là khó. Vấn đề này cũng đã được giải thích cả nửa tá lần rồi.
“Như con đã nói với dượng rồi,” Harry nói qua kẽ răng nghiến lại, “ông Kingsley đang bảo vệ thủ tướng Mug... Ý con nói ông thủ tướng của dượng ấy.”
“Đúng vậy... Tay đó khá nhất!” Dượng Vernon nói, chỉ vào màn hình tivi vừa tắt. Gia đình Dursley đã nhìn ra Kingsley trong chương trình thời sự, đi bên cạnh ông thủ tướng Muggle khi ông này đến thăm một bệnh viện. Sự kiện này, cùng với việc Kingsley sành điệu về ăn mặc như một Muggle, chưa kể đến nét gì đó rất dễ làm vững dạ trong giọng nói trầm trầm từ tốn của ông đã khiến cho gia đình Dursley khoái Kingsley một cách mà họ chưa bao giờ có đối với bất kỳ phù thủy nào khác, mặc dù đúng là họ chưa bao giờ thấy Kingsley khi ông đeo bông tai.
“Đành thôi, chú ấy có công tác rồi.” Harry nói. “Nhưng Hestia Jones và Dedalus Diggle làm công việc bảo vệ còn hơn cả giỏi nữa...”
“Giá mà ta được coi lý lịch họ...” Dượng Vernon bắt đầu, nhưng Harry đã mất hết kiên nhẫn. Nó đứng lên, đi qua mặt dượng nó, bây giờ chính nó chỉ vào cái máy truyền hình.
“Những tai nạn đó không phải là tai nạn – những vụ đụng độ, nổ tung hay trật đường rầy, và những vụ khác nữa xảy ra từ lần chúng ta xem tin tức trước. Người ta đang mất tích, đang chết và Voldermort – hắn ở đằng sau những vụ đó. Con đã nói đi nói lại với dượng rồi, hắn giết Muggle để giải trí. Ngay cả sương mù... cũng là do bọn giám ngục gây ra, và nếu dượng không thể nhớ bọn chúng như thế nào, thì hãy hỏi con trai của dượng!”
Hai tay Dudley giật nảy lên bụm lấy miệng. Thấy cha mẹ và Harry đang nhìn mình, Dudley từ từ hạ tay xuống và hỏi: “Chúng... còn nhiều nữa hả?”
“Còn nhiều nữa?” Harry bật cười. “Ý mày nói nhiều hơn hai tên đã tấn công tụi mình à? Dĩ nhiên là còn nhiều nữa, hàng trăm, có thể bây giờ lên tới hàng ngàn, căn cứ vào nỗi sợ hãi và tuyệt vọng mà chúng mớm cho người ta.”
“Được rồi, được rồi,” dượng Vernon quát tháo. “Mày đã nói rõ...”
“Con hy vọng vậy.” Harry nói, “Bởi vì một khi con tròn mười bảy tuổi, tất cả bọn chúng – bọn Tử Thần Thực Tử, bọn giám ngục, có thể cả bọn âm binh – tức là những xác chết bị bọn pháp sư Hắc ám phù phép sai khiển – sẽ có thể tìm dượng và chắc chắn sẽ tấn công dượng. Và nếu dượng nhớ lại lần trước dượng đã thử chạy trốn phù thủy như thế nào, con tin dượng sẽ đồng ý là dượng cần sự giúp đỡ.”
Trong một thoáng im lặng, vọng âm xa xa của tiếng bác Hagrid đạp sập cánh cửa gỗ dường như dội về từ nhiều năm trước. Dì Petunia đang nhìn dượng Vernon; Dudley thì chăm chú ngó Harry. Cuối cùng dượng Vernon thốt ra: “Nhưng còn công việc của tao? Việc học của Dudley sẽ thế nào? Tao không tin một lũ phù thủy rỗi hơi lại thèm bận tâm những điều đó...”
“Dượng vẫn không hiểu sao?” Harry hét lên. “Chúng sẽ tra tấn và giết dượng như chúng đã giết cha mẹ con!”
“Ba.” Dudley la lớn. “Ba... con sẽ đi với mấy người Hội đó.”
“Dudley,” Harry nói, “Lần đầu tiên trong đời mày, mày nói nghe được.”
Harry biết nó thắng trận tranh cãi này rồi. Nếu Dudley đủ khiếp sợ để chấp nhận sự giúp đỡ của Hội, ba má nó sẽ theo nó thôi. Không đời nào có chuyện họ chịu xa cách Duddy-cưng của họ. Harry liếc nhìn cái đồng hồ quả lắc trên bệ lò sưởi.
“Họ sẽ đến đây trong vòng năm phút nữa,” nó nói, và khi không ai trong gia đình Dursley nói gì đáp lại, nó bỏ ra khỏi phòng. Cái cảnh tượng chia tay – có lẽ vĩnh viễn – với dì dượng và thằng anh họ là điều mà nó có thể nhâm nhi một cách khoái tỉ, nhưng sao vẫn có chút bối rối nào đó trong không khí. Nói gì với nhau đây sau mười sáu năm trời ghét nhau chết bỏ?
Trở về phòng mình, Harry thơ thẩn vờn cái ba lô rồi búng mấy hạt đậu cú qua chấn song cái chuồng của con Hedwig. Chúng rớt xuống sàn chuồng phát ra tiếng kêu lịch kịch chán ngắt đến con cú cũng không thèm ngó tới.
“Tụi mình sắp đi rồi, lát nữa thôi.” Harry nói với con cú. “Lúc đó mày sẽ lại tha hồ bay.”
Chuông cửa reo. Harry chần chừ, rồi ra khỏi phòng nó, xuống cầu thang. Để mặc cho Dedalus và Hestia đối phó với gia đình Dursley thì hơi quá.
“Harry Potter!” Một giọng phấn khích ré lên ngay khi Harry mở cửa phòng khách; một phù thủy nhỏ thó đội nón chóp màu hoa cà đang cúi rạp mình chào nó. “Thật vinh hạnh, như xưa nay!”
“Cám ơn anh, Dedalus.” Harry nói, nở một nụ cười nửa miệng ngượng ngập chào Hestia tóc đen. “Anh chị làm việc này thì hay quá... Họ đều có mặt ở đây, dì, dượng, và anh họ tôi...”
“Chào bà con của Harry Potter!” Dedalus vui vẻ nói khi sải dài bước chân đi vào phòng khách. Ông bà Dursley và cậu ấm lại tỏ ra không vui vẻ lắm khi được chào hỏi như vậy; Harry có phần tưởng đâu lại một phen đổi ý nữa. Dudley co lại gần má nó khi nhìn thấy hai vị phù thủy.
“Tôi thấy quý vị đã chuẩn bị hành lý và sẵn sàng rồi. Xuất sắc! Như Harry Potter đã nói với quý vị, kế hoạch là một phương án đơn giản.” Dedalus vừa nói vừa lấy từ áo vét ra một cái đồng hồ bỏ túi to tổ bố và nghiên cứu nó. “Chúng ta sẽ lên đường trước khi Harry ra đi. Do việc xài bùa phép trong nhà quý vị rất nguy hiểm – Harry vẫn chưa đủ tuổi trưởng thành, Bộ Pháp thuật có thể lấy cớ đó mà bắt cậu ấy – nên chúng ta sẽ đi bằng xe hơi, để coi, chừng mười dặm hay cỡ đó trước khi độn thổ tới địa điểm an toàn mà chúng tôi đã chọn cho quý vị. Tôi chắc ông biết cách lái xe chứ?” Anh ta lịch sự hỏi dượng Vernon.
“Biết...? Dĩ nhiên là tôi quá ư biết lái xe!” Dượng Vernon nói như phun phèo phèo.
“Ông giỏi quá, thưa ông, quá ư giỏi. Bản thân tôi thì dứt khoát sẽ bị nghệt ra vì mấy cái nút với mấy cái cục đó,” Dedalus nói. Anh ta rõ ràng là đinh ninh mình đang tán dương dượng Vernon Dursley, trong khi dượng đang mất dần lòng tin vào kế hoạch theo từng lời Dedalus thốt ra.
“Đến lái xe cũng không biết,” dượng lầm bầm trong miệng, bộ ria của dượng dợn sóng phẫn nộ, nhưng may là cả Dedalus và Hestia đều không có vẻ gì nghe ra lời dượng.
“Cậu, Harry,” Dedalus tiếp tục nói, “sẽ ở đây đợi vệ sĩ của cậu. Có chút đỉnh thay đổi trong sắp xếp...”
“Anh nói sao?” Harry hỏi ngay. “Tôi tưởng thầy Mắt Điên sẽ tới và đưa tôi đi bằng cách Độn thổ kèm theo chứ?”
“Không thể làm cách đó.” Hestia nói gọn lỏn. “Mắt Điên sẽ giải thích.”
Cả gia đình Dursley, nãy giờ lắng nghe tất cả những lời đó với vẻ mặt nghệt ra chẳng hiểu gì cả, bỗng nhảy dựng lên vì một tiếng ré to chói tai, “Nhanh lên!”
Harry ngó quanh phòng trước khi nhận ra giọng nói đó phát ra từ cái đồng hồ bỏ túi của Dedalus.
“Đúng vậy, chúng ta đang hành động theo một thời gian biểu rất khít khao.” Dedalus nói, gật đầu với cái đồng hồ rồi nhét nó trở vô trong áo vét. “Harry à, chúng ta đang cố gắng canh giờ sao cho lúc cậu rời căn nhà cũng là lúc gia đình cậu độn thổ; như vậy bùa phép chỉ mất linh khi tất cả đều tới được nơi an toàn.”
Anh ta quay qua gia đình Dursley, “Sao, chúng ta đã khăn gói sẵn sàng ra đi chứ?”
Không ai trả lời anh tiếng nào. Dượng Vernon vẫn đang kinh hoàng trố mắt ngó cái cục cộm lên ở túi áo vét của Dedalus.
“Có lẽ chúng ta nên chờ trong hành lang, anh Dedalus à.” Hestia thì thầm. Hiển nhiên cô cảm thấy không được tế nhị cho lắm nếu hai vệ sĩ có mặt trong phòng vào lúc Harry và gia đình Dursley chia tay trong trìu mến, và không chừng cả nước mắt nữa.
“Không cần đâu.” Harry lúng búng nói, nhưng dượng Vernon đã khiến cho mọi bày tỏ dài dòng trở nên không cần thiết bằng cách nói to.
“Thôi, vậy là chia tay hén, mậy!”
Dượng đung đưa cánh tay lên toan bắt tay Harry, nhưng sau rốt dường như không thể chịu đựng nổi việc đó, dượng chỉ nắm bàn tay lại và bắt đầu đung đưa tới lui cánh tay giống như một cái máy nhịp.
“Sẵn sàng chưa, Duddy?” Dì Petunia hỏi, lui cui kiểm tra móc khóa cái túi xách của dì để tránh nhìn Harry.
Dudley không trả lời mẹ mà cứ đứng ỳ ra, miệng hé mở, khiến Harry liên tưởng một chút đến người khổng lồ Grawp.
“Vậy đi thôi,” dượng Vernon nói.
Dượng hầu như đã đi tới cửa phòng khách thì Dudley bỗng bệu bạo nói: “Con chả hiểu.”
“Con không hiểu cái gì hở cưng?” Dì Petunia ngước lên nhìn cậu quý tử.
Dudley giơ bàn tay tựa như khúc dồi tổ chảng chỉ vào Harry.
“Sao nó không đi với mình?”
Dượng Vernon và dì Petunia sững sờ đứng ngó chằm chằm Dudley như thể nó vừa bày tỏ nguyện vọng trở thành diễn viên múa ba lê.
“Cái gì?” Dượng Vernon la lớn.
“Tại sao nó không đi cùng?” Dudley hỏi.
“À thì nó... không muốn,” dượng Vernon nói, quay lại trừng mắt ngó Harry và nói thêm, “Mày đâu có muốn, phải không mậy?”
“Không một chút nào hết.”
“Thấy chưa!” Dượng Vernon nói với Dudley, “Bây giờ chúng ta đi thôi.”
Dượng dõng dạc đi ra khỏi phòng. Mọi người nghe tiếng cánh cửa trước mở ra, nhưng Dudley không nhúc nhích và dì Petunia cũng dừng lại sau mấy bước lừng khừng.
“Gì nữa hả?” Dượng Vernon tái xuất hiện ở ngưỡng cửa, quát lên.
Dường như Dudley đang đấu tranh dữ dội với những khái niệm quá khó phát biểu thành lời. Sau nhiều đợt đấu tranh nội tâm có vẻ đau đớn, nó nói, “Nhưng nó sẽ đi đâu?”
Dì Petunia và dượng Vernon nhìn nhau. Rõ ràng là Dudley đang làm họ hoảng sợ. Hestia Jones bèn phá vỡ sự im lặng.
“Nhưng... chắc chắn ông biết cháu trai của mình sẽ đi đâu chứ?” Cô hỏi mà có vẻ lúng túng.
“Đương nhiên là chúng tôi biết,” dượng Vernon nói. “Nó sẽ đi theo ai đó trong lũ tụi bay, đúng không? Đúng đó, Dudley à, chúng ta hãy lên xe, con nghe ông kia nói rồi đó, chúng ta phải nhanh lên.”
Một lần nữa, dượng Vernon lại dõng dạc đi gần tới cửa trước, nhưng Dudley vẫn không đi theo.
“Theo ai đó trong lũ tụi ta á?”
Hestia trông như nổi khùng. Harry đã từng gặp thái độ này trước đây. Nhiều phù thủy và pháp sư dường như kinh ngạc khi những họ hàng gần gũi nhất của nó chả tỏ ra quan tâm chút nào đến Harry Potter lừng danh.
“Tốt thôi.” Harry trấn an Hestia. “Thiệt tình, không hề gì.”
“Không hề gì à?” Hestia lặp lại, giọng của cô cao lên một cách đáng lo ngại.
“Chẳng lẽ những người này không nhận thức được những gì cậu đã trải qua sao? Hiểm họa mà cậu đang đối đầu? Vị trí có một không hai mà cậu đang nắm giữ ở trung tâm phong trào chống Voldemort?”
“Ơ... không, họ không biết.” Harry nói. “Thật ra, họ coi tôi là đồ hao cơm tốn chỗ mà thôi, nhưng tôi quen...”
“Tao đâu có coi mày là đồ hao cơm tốn chỗ.”
Nếu Harry không tận mắt thấy môi của Dudley cử động thì nó đã không thể nào tin nổi. Vì vậy nó trố mắt nhìn Dudley một hồi lâu mới chấp nhận cái điều ắt là thằng anh họ của nó là người vừa phát ngôn; nhờ một chứng cớ, Dudley đỏ cả mặt. Chính Harry cũng lúng túng và ngạc nhiên.
“Ờ... vậy... cám ơn nghe, Dudley”
Một lần nữa, Dudley dường như vật lộn với những ý tưởng khó khăn quá sức diễn tả trước khi lúng búng nói:
“Mày cứu mạng tao.”
“Không hẳn vậy.” Harry nói, “Hồn mày mới là cái mà bọn giám ngục muốn hớp...”
Nó tò mò nhìn thằng anh họ. Hai đứa nó thực tế đã không hề có tiếp xúc nào trong suốt mùa hè này hay mùa hè trước, vì thời gian Harry trở về ngôi nhà ở đường Privet Drive quá ngắn và nó cứ ở lỳ trong phòng riêng. Nhưng bây giờ Harry chợt hiểu ra có lẽ cái tách trà mà nó giẫm phải hồi sáng này không phải là cái bẫy ngố bẫy nghếch gì cả. Mặc dù hơi bị xúc động, nó vẫn cảm thấy nhẹ người khi Dudley tỏ ra đã cạn kiệt khả năng bày tỏ tình cảm của mình. Sau khi há miệng ra thêm một hay hai lần nữa, Dudley rút vào nỗi câm lặng đỏ tía mặt mày.
Dì Petunia bỗng òa khóc. Hestia Jones nhìn dì hài lòng nhưng cái nhìn đó chuyển ngay thành ánh mắt giận dữ khi dì Petunia lao tới ôm chầm Dudley chứ không phải Harry.
“Dễ... dễ thương quá, Dudders...” Dì khóc thổn thức trên tấm ngực mập ú của con trai. “Một chàng trai dễ thương hết sức... biết nói cám ơn...”
“Nhưng nó đã nói cám ơn gì đâu!” Hestia tức giận nói. “Nó chỉ mới nói nó không coi Harry như đồ hao cơm tốn chỗ!”
“Đành vậy nhưng với Dudley thì điều đó tương đương với ‘tao thương mày’.” Harry nói, bị xâu xé giữa nỗi bực mình và cơn tức cười khi dì Petunia tiếp tục ấp iu Dudley như thể nó vừa mới cứu được Harry ra khỏi một tòa nhà đang cháy.
“Chúng ta có đi hay không hả?” Dượng Vernon gầm lên, tái xuất hiện một lần nữa ở cửa phòng khách. “Tôi cứ tưởng thời gian biểu của chúng ta khít khao lắm chớ!”
“Đúng... đúng, khít khao lắm.” Dedalus Diggle nói. Nãy giờ anh ta coi cái cảnh chia tay này với vẻ mặt ngơ ngác, và bây giờ anh có vẻ tỉnh táo ra. “Chúng tôi thật tình phải đi ngay, Harry à...”
Anh bước nhẹ nhàng về phía Harry, vặn vẹo bàn tay Harry bằng cả hai tay của anh ta.
“... Chúc may mắn. Tôi hy vọng chúng ta còn gặp lại nhau. Niềm hy vọng của thế giới pháp thuật đang đặt trên đôi vai của cậu.”
“Ôi,” Harry nói, “Được. Cám ơn anh.”
“Tạm biệt, Harry.” Hestia nói, cũng siết chặt bàn tay Harry. “Chúng tôi luôn nghĩ đến cậu.”
“Tôi hy vọng mọi việc sẽ tốt đẹp.” Harry nói, mắt liếc về phía dì Petunia và Dudley.
“Ôi, tôi chắc chắn rồi sẽ thân thiết cả thôi mà,” Diggle nói nhỏ, vẫy vẫy cái nón khi anh ta ra khỏi phòng. Hestia bước theo anh.
Dudley nhẹ nhàng tự giải thoát mình ra khỏi vòng tay của mẹ và đi về phía Harry. Harry phải dằn xuống một cơn khoái hù dọa Dudley bằng pháp thuật. Dudley đưa ra bàn tay to tướng hồng hồng của nó.
“Khỉ thiệt, Dudley à,” Harry nói át tiếng nức nở vừa tái trỗi dậy của dì Petunia. “Bọn giám ngục thổi một nhân cách khác vô người mày rồi hả?”
“Hổng biết.” Dudley ú ớ. “Hẹn gặp lại, Harry.”
“Ừ...” Harry nói, cầm bàn tay của Dudley và lắc. “Có thể. Bảo trọng nghe, D. bự.”
Dudley gần như mỉm cười, rồi ì ạch đi ra khỏi phòng. Harry nghe tiếng bước chân nặng nề của Dudley trên đường trải sỏi dành cho xe hơi, và rồi cánh cửa xe đóng lại.
Dì Petunia, nãy giờ úp mặt trong chiếc khăn tay, nghe tiếng cửa xe đóng bèn ngước nhìn quanh. Dì không có vẻ trông mong còn lại một mình với Harry. Vội vàng nhét chiếc khăn tay ướt đẫm vào trong túi áo, dì nói, “Thôi... tạm biệt,” và bước về phía cánh cửa mà không hề nhìn tới Harry.
“Tạm biệt,” Harry nói.
Dì dừng bước và ngoái nhìn lại. Trong một thoáng Harry có cái cảm giác hết sức kỳ cục là dì muốn nói với nó điều gì đó: ánh mắt của dì rưng rưng, thảng thốt, kỳ cục và dì dường như chênh vênh bên bờ sắp thốt ra lời; nhưng rồi, chỉ khẽ gật đầu, dì vội vã rời khỏi căn phòng đi theo chồng con.
 
M

marukokeropi

Và cuối cùng là chương 4 :D :Drớt xuống: nó cố gắng ngồi thu lại thật thấp, rồi chĩa vào tên chính giữa trong ba cái bóng đang tiến tới gần và hét: “Chặn lại!”
Thần chú trúng ngay ngực tên Tử Thần Thực Tử chính giữa. Gã bỗng bị căng tay chân giữa trời một cách lố lăng như thể tông phải một thanh chắn vô hình: một tên đồng bọn suýt tông phải gã.
Thế rồi cái thùng xe bắt đầu rớt xuống một cách nghiêm trọng, và bọn Tử Thần Thực Tử phóng ra một lời nguyền sát Harry đến nỗi nó phải thụp xuống thấp hơn vành thùng xe, đập miệng vào cạnh của cái ghế làm văng ra một cái răng...
“Bác tới ngay, Harry, bác tới ngay!”
Một bàn tay khổng lồ túm lấy lưng áo Harry, nhấc nó ra khỏi cái thùng xe đang lao thẳng xuống. Harry kéo được cái ba lô theo trong lúc tự mình trèo lên yên xe gắn máy, để rồi nhận ra đang ngồi đâu lưng lại bác Hagrid. Khi hai bác cháu vọt lên trên, bỏ lại hai tên Tử Thần Thực Tử, Harry nhổ máu ra khỏi miệng, chĩa cây đũa phép về phía cái thùng xe đang rơi, và hét: “Phá hủy!”
Lúc cái thùng xe nổ tung, Harry thấy đau cho Hedwig đến thắt ruột khủng khiếp; tên Tử Thần Thực Tử gần nhất bị nổ văng khỏi chổi té mất tăm; tên cùng đi với hắn rớt lại và biến mất.
“Harry, bác xin lỗi, bác xin lỗi nghe,” bác Hagrid rên rỉ. “Lẽ ra bác không nên tự sửa... con mất chổi rồi...”
“Không quan trọng, bác cứ bay tiếp!” Harry hét ngược lại, vì hai Tử Thần Thực Tử nữa hiện ra từ bóng tối, đang kéo tới gần.
Những bùa chú lời nguyền lại một lần nữa phóng qua lại trong khoảng không giữa hai phe, bác Hagrid lạng lách và bay theo hình chữ z: Harry biết bác Hagrid không dám dùng đến nút lửa rồng một phen nữa khi mà Harry ngồi trong thế chông chênh như vậy. Harry phóng ra hết bùa Choáng này đến bùa Choáng khác vào bọn đang đuổi theo, chỉ đủ cầm chân chúng. Nó lại phóng thêm một thần chú Chặn đường nữa: tên Tử Thần Thực Tử đuổi theo sát nhất lạng người tránh được, cái mũ trùm đầu của hắn tuột ra, và nhờ ánh sáng đỏ của bùa Choáng nó tung ra tiếp theo đó mà Harry nhìn thấy gương mặt trơ kỳ quái của Stanley Shunpike... Stan...
“Giải giới!” Harry hét.
“Nó đó, nó đó, nó là đứa thật đó!”
Harry nghe tiếng la của tên Tử Thần Thực Tử còn lớn hơn cả tiếng máy xe nổ như sấm rền: ngay sau đó, cả hai tên đuổi theo đều rớt lại sau và biến mất.
“Harry, chuyện gì xảy ra vậy?” Bác Hagrid hét. “Chúng bỏ đi đâu rồi?”
“Con không biết!”
Nhưng Harry sợ: tên Tử Thần Thực Tử đội mũ trùm đã hét “nó là đứa thật đó!” Làm sao hắn biết? Nó nhìn đăm đăm vào bóng tối dường như trống trơn và cảm nhận được mối đe dọa. Chúng ở đâu?
Nó lồm cồm xoay quanh chỗ ngồi để quay ra phía trước và níu lấy lưng áo khoác của bác Hagrid.
“Bác Hagrid, bác xịt lửa rồng một lần nữa đi, chúng ta hãy đi khỏi đây ngay.”
“Vậy thì, bám chặt nghe Harry”
Một lần nữa tiếng gầm rú đinh tai nhức óc vang lên và lửa trắng xanh phụt ra từ ống bô: Harry cảm thấy bản thân mình bị trật ra sau trượt khỏi cái yên chỉ còn có chút xíu chỗ cho nó ngồi. Bác Hagrid bật ngửa ra sau đè lên nó, suýt vuột cả tay lái...
“Bác nghĩ mình đã bỏ rơi chúng rồi Harry à, bác nghĩ mình đã thoát rồi.”
Nhưng Harry không tin tưởng lắm; nỗi sợ bao trùm khi nó nhìn trái ngó phải canh chừng những kẻ truy đuổi mà nó chắc chắn là sẽ đến... Tại sao chúng rớt lại? Một tên trong bọn chúng vẫn còn cây đũa phép cơ mà... Nó đó... nó là đứa thật đó... Chúng nói điều đó ngay sau khi nó cố Giải giới Stan...
“Chúng ta gần đến nơi rồi, Harry à, chúng ta gần thành công rồi!” Bác Hagrid hét toáng lên.
Harry cảm thấy chiếc xe gắn máy hạ thấp xuống một tí mặc dù ánh đèn dưới mặt đất trông vẫn còn xa xăm như những vì sao.
Bỗng cái thẹo trên trán nó nóng bỏng như lửa: mỗi bên chiếc xe gắn máy xuất hiện một tên Tử Thần Thực Tử, hai Lời nguyền Giết chóc bắn từ phía sau sướt qua nó trong đường tơ kẽ tóc...
Và rồi Harry thấy hắn. Voldemort đang bay như khói nương theo gió, không cỡi chổi cũng không cỡi vong mã, gương mặt như rắn của hắn sáng lập lòe trong bóng tối, những ngón tay trắng hếu của hắn lại giơ cao cây đũa phép...
Bác Hagrid thốt ra một tiếng rú kinh hãi và bẻ lái xe lao xuống theo chiều thẳng đứng. Bám lấy hy vọng sống sót, Harry phóng lung tung những bùa Choáng vào bóng đêm đang quay mòng mòng. Nó thấy một thân thể bay ngang qua và biết là nó đã phóng trúng một tên trong bọn chúng, nhưng rồi nó nghe một tiếng nổ kinh thiên và nhìn thấy những tia lửa nháng lên từ động cơ của chiếc xe. Chiếc xe quay xoắn tít trong không trung, hoàn toàn không điều khiển được nữa...
Những tia sáng xanh lè lại phóng trớt qua hai bác cháu. Harry không còn biết đâu là trên đâu là dưới nữa: cái thẹo của nó vẫn đang cháy bỏng, nó chờ chết trong chớp mắt. Một cái bóng đội mũ trùm kín mặt cỡi chổi bay chỉ cách nó vài bước, nó thấy hắn giơ cánh tay lên...
“KHÔNG!”
Bác Hagrid gào lên giận dữ và tự mình phóng ra khỏi chiếc xe lao vào tên Tử Thần Thực Tử, Harry kinh hoàng ngó cả bác Hagrid lẫn tên Tử Thần Thực Tử cùng rớt xuống mất tiêu, trọng lượng gộp lại của cả hai quá sức chịu đựng của cây chổi...
Ráng dùng hai đầu gối kẹp chặt chiếc xe gắn máy đang lao thẳng xuống, Harry nghe Voldemort gào lên: “Của ta!”
Thế là hết: Nó không thể nghe hay thấy Voldemort ở đâu nữa; nó thoáng thấy một tên Tử Thần Thực Tử khác sà xuống tránh chỗ và nó nghe “Avada...”
Cơn nhói đau từ cái thẹo khiến Harry nhắm mắt lại, cây đũa phép của nó tự phản ứng. Nó có cảm giác cây đũa phép kéo bàn tay nó quay vòng như một thỏi nam châm vĩ đại, qua đôi mắt hé mở nó thấy một ngọn lửa vàng chóe bắn ra, một tiếng rắc rồi một tiếng thét giận dữ. Tên Tử Thần Thực Tử còn lại rống lên, Voldemort gào, “Không!” Và không biết bằng cách nào đó, Harry phát hiện ra mũi mình chỉ cách nút bấm lửa rồng có vài phân. Nó dùng bàn tay không cầm đũa phép thụi vô cái nút và chiếc xe gắn máy xịt thêm lửa vào không khí trong khi nhào thẳng xuống mặt đất.
“Bác Hagrid!” Harry gọi, bám vào chiếc xe gắn máy để tự cứu mình, “Bác Hagrid! Triệu lại đây bác Hagrid!”
Chiếc xe gắn máy lao nhanh hơn, bị hút về phía mặt đất. Mặt Harry nằm ngang tay lái, nên nó chẳng thể thấy gì ngoại trừ những ánh đèn xa xăm đang càng lúc càng gần: nó sắp rớt xuống đất và nó không thể làm gì để đừng rớt. Đằng sau nó lại vang lên một tiếng gào nữa:
“Cây đũa phép của mi, Selwyn, đưa ta đũa phép của mi!”
Harry cảm nhận được Voldemort trước khi nhìn thấy hắn. Quay ngang, nó ngó chòng chọc vào hai con mắt đỏ và chắc mẻm đó là thứ cái cuối cùng nó nhìn thấy trên đời: Voldemort đang chuẩn bị ếm nó một lần nữa...
Và bỗng nhiên Voldemort biến mất. Harry ngó xuống, thấy bác Hagrid nằm dạng tay chân trên mặt đất bên dưới. Nó ghị chặt tay lái để tránh đụng phải bác, mò mẫm tìm cái thắng, nhưng với một cú đâm sầm rung đất điếc tai, nó nhào mạnh xuống một cái ao sình.
:D :D :D :D :D :D
 
L

lehoanganh007

hix thầy mắt điên chết rùi , tui đang đọc đén phần ấy
tui đoán thầy Dumbơdo ^^ vẫn chưa chết chắc thầy ấy ẩn mình thôi
 
N

nejitenten

Trời, truyện phần 7 cũng ra lâu rồi mà. Ko thì bạn down về ở trên mạng đó. Hình như là chỉ 3MB thôi.
 
Top Bottom