Ai ở Bình Định thì vô đây !!!!!!!!!!

  • Thread starter ngojsaoleloj8814974
  • Ngày gửi
  • Replies 10
  • Views 4,787

N

ngojsaoleloj8814974

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

mọi người cùng nhau thảo luận nhen !!!!!!!!!
Các bn hãy đăng thông tin cá nhân của m` vào đây !!!!!!!!!
kèm theo ảnh cá nhân thì càng tốt !!!!!!!
Mọi người ở tỉnh khác ku`ng mời dô đây thăm chơi nhan!
Người Bình Định tụi mình rất hiếu khách mu`k!!??:)>-:)>-:)>-
Đây là một số hình ảnh tượng trưng cho Bình Định nè!!!!
Tượng đài Quang Trung
75183337-189543_duoituongTaySSon.jpg

tuongdaiQuangTrungQuyNhon-BinhDinh.jpg

Vị trí địa lý
0baoso1552009.jpg

Tháp bánh ít ở Bình Định nè!!!!!!
Download

Bình Định về đêm
PP0.6614524_1_1.jpg

Biển Quy Nhơn nè đẹp ko?????????
DSC_0159m.jpg
 
T

tjeujusjeuway

mem Bình Định! xin giới thiệu chút về Bình Định

Vài nét về quê hương Bình Định (phần thứ nhất)

Bình Định là một tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố cảng Quy Nhơn nằm cách thủ đô Hà Nội 1.065 km về phía bắc và cách Thành phố Hồ Chí Minh 649 km về phía nam.

Vị trí địa lý

Bình Định là tỉnh duyên hải miền Trung của Việt Nam. Lãnh thổ của tỉnh trải dài 110 km theo hướng Bắc - Nam, có chiều ngang với độ hẹp trung bình là 55 km (chỗ hẹp nhất 50 km, chỗ rộng nhất 60 km). Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi với đường ranh giới chung 63 km (điểm cực Bắc có tọa độ: 14°42'10 Bắc, 108°55'4 Đông). Phía Nam giáp tỉnh Phú Yên với đường ranh giới chung 59 km (điểm cực Nam có tọa độ: 13°30'10 Bắc, 108o54'00 Đông). Phía Tây giáp tỉnh Gia Lai có đường ranh giới chung 130 km (điểm cực Tây có tọa độ: 14°27' Bắc, 108°27' Đông). Phía Đông giáp biển Đông với bờ biển dài 134 km, điểm cực Đông là xã Nhơn Châu (Cù Lao Xanh) thuộc thành phố Qui Nhơn (có tọa độ: 13°36'33 Bắc, 109°21' Đông). Bình Định được xem là một trong những cửa ngõ ra biển của các tỉnh Tây Nguyên và vùng nam Lào.

Địa hình

Địa hình của tỉnh tương đối phức tạp, thấp dần từ tây sang đông. Phía tây của tỉnh là vùng núi rìa phía đông của dãy Trường Sơn Nam, kế tiếp là vùng trung du và tiếp theo là vùng ven biển. Các dạng địa hình phổ biến là các dãy núi cao, đồi thấp xen lẫn thung lũng hẹp độ cao trên dưới 100 mét, hướng vuông góc với dãy Trường Sơn, các đồng bằng lòng chảo, các đồng bằng duyên hải bị chia nhỏ do các nhánh núi đâm ra biển. Ngoài cùng là cồn vát ven biển có độ dốc không đối xứng giữa 2 hướng sườn đông và tây. Các dạng địa hình chủ yếu của tỉnh là:

* Vùng núi: Nằm về phía tây bắc và phía tây của tỉnh. Đại bộ phận sườn dốc hơn 20°. Có diện tích khoảng 249.866 ha, phân bố ở các huyện An Lão (63.367 ha), Vĩnh Thạnh (78.249 ha), Vân Canh (75.932 ha), Tây Sơn và Hoài Ân (31.000 ha). Địa hình khu vực này phân cắt mạnh, sông suối có độ dốc lớn, là nơi phát nguồn của các sông trong tỉnh. Chiếm 70% diện tích toàn tỉnh thường có độ cao trung bình 500-1.000 m, trong đó có 11 đỉnh cao trên 1.000 m, đỉnh cao nhất là 1.202 m ở xã An Toàn (huyện An Lão). Còn lại có 13 đỉnh cao 700-1000m. Các dãy núi chạy theo hướng Bắc - Nam, có sườn dốc đứng. Nhiều khu vực núi ăn ra sát biển tạo thành các mỏm núi đá dọc theo bờ, vách núi dốc đứng và dưới chân là các dải cát hẹp. Đặc tính này đã làm cho địa hình ven biển trở thành một hệ thống các dãy núi thấp xen lẫn với các cồn cát và đầm phá.

* Vùng đồi: tiếp giáp giữa miền núi phía tây và đồng bằng phía đông, có diện tích khoảng 159.276 ha (chiếm khoảng 10% diện tích), có độ cao dưới 100 m, độ dốc tương đối lớn từ 10° đến 15°. Phân bố ở các huyện Hoài Nhơn (15.089 ha), An Lão (5.058 ha) và Vân Canh (7.924 ha).

* Vùng đồng bằng: Tỉnh Bình Định không có dạng đồng bằng châu thổ mà phần lớn là các đồng bằng nhỏ được tạo thành do các yếu tố địa hình và khí hậu, các đồng bằng này thường nằm trên lưu vực của các con sông hoặc ven biển và được ngăn cách với biển bởi các đầm phá, các đồi cát hay các dãy núi. Độ cao trung bình của dạng địa hình đồng bằng lòng chảo này khoảng 25-50 m và chiếm diện tích khoảng 1.000 km². Đồng bằng lớn nhất của tỉnh là đồng bằng thuộc hạ lưu sông Kôn, còn lại là các đồng bằng nhỏ thường phân bố dọc theo các nhánh sông hay dọc theo các chân núi và ven biển.

* Vùng ven biển: Bao gồm các cồn cát, đụn cát tạo thành một dãy hẹp chạy dọc ven biển với chiều rộng trung bình khoảng 2 km, hình dạng và quy mô biến đổi theo thời gian. Trong tỉnh có các dãi cát lớn là: dãi cát từ Hà Ra đến Tân Phụng, dãi cát từ Tân Phụng đến vĩnh Lợi, dãi cát từ Đề Gi đến Tân Thắng, dãi cát từ Trung Lương đến Lý Hưng. Ven biển còn có nhiều đầm như đầm Trà Ổ, đầm Nước Ngọt, đầm Mỹ Khánh, đầm Thị Nại; các vịnh như vịnh Làng Mai, vịnh Quy Nhơn, vịnh Vũng Mới...; các cửa biển như Cửa Tam Quan, cửa An Dũ, cửa Hà Ra, cửa Đề Gi và cửa Quy Nhơn. Các cửa trên là cửa trao đổi nước giữa sông và biển. Hiện tại ngoại trừ cửa Quy Nhơn và cửa Tam Quan khá ổn định, còn các cửa An Dũ, Hà Ra, Đề Gi luôn có sự bồi lấp và biến động.

Hải đảo

Ven bờ biển tỉnh Bình Định gồm có 32 đảo lớn nhỏ được chia thành 10 cụm đảo hoặc đảo một mình.

* Tại khu vực biển thuộc thành phố Quy Nhơn gồm cụm đảo Cù Lao Xanh là cụm đảo lớn gồm 3 đảo nhỏ; cụm Đảo Hòn Đất gồm các đảo nhỏ như Hòn Ngang, Hòn Đất, Hòn Rớ; cụm Đảo Hòn Khô còn gọi là cù lao Hòn Khô gồm 2 đảo nhỏ; cụm Đảo Nghiêm Kinh Chiểu gồm 10 đảo nhỏ (lớn nhất là Hòn Sẹo); cụm Đảo Hòn Cân gồm 5 đảo nhỏ; Đảo đơn Hòn Ông Cơ.
* Tại khu vực biển thuộc huyện Phù Mỹ gồm cụm Đảo Hòn Trâu hay Hòn Trâu Nằm gồm 4 đảo nhỏ; Đảo Hòn Khô còn gọi là Hòn Rùa. Ven biển xã Mỹ Thọ có 3 đảo nhỏ gồm: Đảo Hòn Đụn còn gọi là Hòn Nước hay Đảo Đồn, Đảo Hòn Tranh còn gọi là Đảo Quy, Đảo Hòn Nhàn.

Trong các đảo nói trên thì chỉ đảo Cù Lao Xanh là có dân cư sinh sống, các đảo còn lại là những đảo nhỏ một số đảo còn không có thực vật sinh sống chỉ toàn đá và cát. Dọc bờ biển của tỉnh, ngoài các đèn hiệu hướng dẫn tàu thuyền ra vào cảng Quy Nhơn, thì Bình Định còn có 2 ngọn hải đăng: một ngọn được xây dựng trên mạng bắc của núi Gò Dưa thuộc thôn Tân Phụng xã Mỹ Thọ huyện Phù Mỹ, ngọn này có tên gọi là Hải Đăng Vũng Mới hay Hải Đăng Hòn Nước; ngọn thứ hai được xây dựng trên đảo Cù Lao Xanh thuộc xã Nhơn Châu thành phố Quy Nhơn.

Sông ngòi

Các sông trong tỉnh đều bắt nguồn từ những vùng núi cao của sườn phía đông dãy Trường Sơn. Các sông ngòi không lớn, độ dốc cao, ngắn, hàm lượng phù sa thấp, tổng trữ lượng nước 5,2 tỷ m³, tiềm năng thuỷ điện 182,4 triệu KW. Ở thượng lưu có nhiều dãy núi bám sát bờ sông nên độ dốc rất lớn, lũ lên xuống rất nhanh, thời gian truyền lũ ngắn. Ở đoạn đồng bằng lòng sông rộng và nông có nhiều luồng lạch, mùa kiệt nguồn nước rất nghèo nàn; nhưng khi lũ lớn nước tràn ngập mênh mông vùng hạ lưu gây ngập úng dài ngày vì các cửa sông nhỏ và các công trình che chắn nên thoát lũ kém. Trong tỉnh có bốn con sông lớn là Côn, Lại Giang, La Tinh và Hà Thanh cùng các sông nhỏ như Châu Trúc hay Tam Quan. Ngoài các sông đáng kể nói trên còn lại là hệ thống các suối nhỏ chằng chịt thường chỉ có nước chảy về mùa lũ và mạng lưới các sông suối ở miền núi tạo điều kiện cho phát triển thuỷ lợi và thuỷ điện. Độ che phủ của rừng đến nay chỉ còn khoảng trên 40% nên hàng năm các sông này gây lũ lụt, sa bồi, thuỷ phá nghiêm trọng. Ngược lại, mùa khô nước các sông cạn kiệt, thiếu nước tưới.

Hồ đầm

Toàn tỉnh Bình Định có nhiều hồ nhân tạo được xây dựng để phục vụ mục đích tưới tiêu trong mùa khô. Trong đó có thể kể tên một số hồ lớn tại các huyện trong tỉnh như: hồ Hưng Long (An Lão); hồ Vạn Hội, Mỹ Đức và Thạch Khê (Hoài Ân); hồ Mỹ Bình (Hoài Nhơn); hồ Hội Sơn và Mỹ Thuận (Phù Cát); hồ Diêm Tiêu, Hóc Nhạn và Phú Hà (Phù Mỹ); hồ Định Bình, Thuận Ninh (Tây Sơn); hồ Núi Một (Vân Canh-An Nhơn); hồ Vĩnh Sơn, hồ Định Bình (Vĩnh Thạnh). Ngoài ra Bình Định còn có một đầm nước ngọt khá rộng là đầm Trà Ổ (Phù Mỹ) và hai đầm nước lợ là Đề Gi (Phù Mỹ-Phù Cát)và Thị Nại (Tuy Phước-Quy Nhơn). Hệ thống hồ đầm này tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thủy hải sản. Đặc biệt đầm Thị Nại là đầm lớn rất thuận lợi cho việc phát triển cảng biển tầm cở quốc gia và góp phần phát triển khu kinh tế Nhơn Hội, đầm còn được biết đến với cây cầu vượt biển dài nhất Việt Nam hiện nay.

Khí hậu

Khí hậu Bình Định có tính chất nhiệt đới ẩm, gió mùa. Do sự phức tạp của địa hình nên gió mùa khi vào đất liền đã thay đổi hướng và cường độ khá nhiều.

* Nhiệt độ không khí trung bình năm: ở khu vực miền núi biến đổi 20,1-26,1°C, cao nhất là 31,7°C và thấp nhất là 16,5°C. Tại vùng duyên hải, nhiệt độ không khí trung bình năm là 27,0°C, cao nhất 39,9°C và thấp nhất 15,8°C.
* Độ ẩm tuyệt đối trung bình tháng trong năm: tại khu vực miền núi là 22,5-27,9% và độ ẩm tương đối 79-92%; tại vùng duyên hải độ ẩm tuyệt đối trung bình là 27,9% và độ ẩm tương đối trung bình là 79%.
* Chế độ mưa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 12. Riêng đối với khu vực miền núi có thêm một mùa mưa phụ tháng 5-8 do ảnh hưởng của mùa mưa Tây Nguyên. Mùa khô kéo dài tháng 1-8. Đối với các huyện miền núi tổng lượng mưa trung bình năm 2.000-2.400 mm. Đối với vùng duyên hải tổng lượng mưa trung bình năm là 1.751 mm. Tổng lượng mưa trung bình có xu thế giảm dần từ miền núi xuống duyên hải và có xu thế giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam.
* Về bão: Bình Định nằm ở miền Trung Trung bộ Việt Nam, đây là miền thường có bão đổ bộ vào đất liền. Hàng năm trong đoạn bờ biển từ Quảng Nam - Đà Nẵng đến Khánh Hòa trung bình có 1,04 cơn bão đổ bộ vào. Tần suất xuất hiện bão lớn nhất tháng 9-11.
 
T

tjeujusjeuway

mem Bình Định! xin giới thiệu chút về Bình Định(tt)

Lịch sử

* Bình Định xưa là đất thuộc Việt Thường Thị và nền văn hóa Sa Huỳnh, sau đó người Chăm đã tới chiếm lĩnh vùng đất này. Đến đời nhà Tần xứ này là huyện Lâm Ấp thuộc Tượng Quận, đời nhà Hán là huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam, năm Vĩnh Hoà 2 (137) người trong quận làm chức Công Tào tên là Khu Liên đã giết viên huyện lệnh chiếm đất và tự phong là Lâm Ấp vương.
* Đời nhà Tùy (605) dẹp Lâm Ấp đặt tên là Xung Châu, sau đó lại lấy tên cũ là Lâm Ấp.
* Đời nhà Đường, năm 627 đổi tên là Lâm Châu.
* Năm 803, nhà Đường bỏ đất này và nước Chiêm Thành của người Chăm ra đời, đất này được đổi là Đồ Bàn, Thị Nại.
* Đời nhà Lê năm Hồng Đức 2 (1471) vua Lê Thánh Tông đánh phá Chiêm Thành tới núi Thạch Bi chiếm đất này và chia thành 3 huyện: Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn của phủ Hoài Nhơn thuộc thừa tuyên Quảng Nam.
* Năm 1602 chúa Nguyễn Hoàng cho đổi phủ Hoài Nhơn thành Phủ Quy Nhơn thuộc dinh Quảng Nam.
* Năm 1651, chúa Nguyễn Phúc Tần, đã đổi tên phủ Quy Nhơn thành phủ Quy Ninh.
* Năm 1742, chúa Nguyễn Phúc Khoát cho lấy lại tên cũ là Quy Nhơn.
* Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát đặt các đạo làm dinh, nhưng cấp phủ vẫn giữ nguyên. Phủ Quy Nhơn vẫn thuộc về dinh Quảng Nam, đặt các chức tuần phủ và khám lý để cai trị. Phủ lỵ dời ra phía Bắc thành Đồ Bàn, đóng tại thôn Châu Thành (nay là xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn).
* Năm 1725, ở phủ Quy Nhơn đặt các chức quan trông coi: Chánh hộ, Khám lý, Đề đốc, Đề lãnh, Ký lục, Cai phủ, Thư ký, mỗi chức đặt một người; mỗi huyện đặt cai tri, thư ký, mỗi chức một người và 2 viên lục lại; mỗi tổng có cai tổng.
* Từ 1773 đến 1797, nhà Tây Sơn chiếm cứ đất này, sau khi lấy lại đất này Nguyễn Ánh đổi tên đất này là dinh Bình Định, sai Võ Tánh và Ngô Tùng Châu trấn thủ và đặt quan cai trị gọi là Lưu Thủ, Cai Bộ, Ký Lục.
* Năm 1808 đổi dinh Bình Định thành Trấn Bình Định.
* Năm 1825 đặt tri phủ Quy Nhơn, năm 1831 lại đổi thành phủ Hoài Nhơn.
* Năm 1832 tách huyện Tuy viễn thành hai huyện Tuy Viễn và Tuy Phước, tách huyện Phù Ly thành hai huyện Phù Mỹ và Phù Cát đồng thời Bình Định và Phú Yên thành liên tỉnh Bình Phú, sau đó bỏ liên tỉnh này.
* Năm 1888 đặt huyện Bình Khê. Vào năm 1885 Bình Định là một tỉnh lớn ở Trung Kỳ, nhiều vùng đất của Gia Lai-Kon Tum còn thuộc về Bình Định.
* Năm 1890, thực dân Pháp sát nhập thêm Phú Yên vào tỉnh Bình Định thành tỉnh Bình Phú, tỉnh lỵ là Quy Nhơn. Nhưng đến năm 1899, Phú Yên tách ra khỏi Bình Phú.
* Ngày 4 tháng 7 năm 1905, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh tự trị Pleikou Derr, tỉnh lỵ đặt tại làng Pleikan Derr của dân tộc Gia Lai. Địa bàn tỉnh Pleikou Derr bao gồm các vùng cư trú của đồng bào thiểu số Xơ đăng, Bana, Gialai tách từ tỉnh Bình Định ra.
* Ngày 25 tháng 4 năm 1907 xoá bỏ tỉnh Pleikou Derr. Toàn bộ đất đai của tỉnh này chia làm hai phần: một là Đại lý Kontum cho sát nhập trở lại tỉnh Bình Định và đặt dưới sự cai trị của Công sứ Bình Định; một gọi là Đại lý Cheo Reo, cho sát nhập vào tỉnh Phú Yên và đặt dưới sự cai trị của Công sứ Phú Yên.
* Năm 1913, thực dân Pháp lại sát nhập Phú Yên vào Bình Định thành tỉnh Bình Phú và thành lập tỉnh Kontum làm tỉnh riêng; địa bàn tỉnh Kontum bao gồm Đại lý Kontum tách từ tỉnh Bình Định, Đại lý Cheo Reo tách từ tỉnh Phú Yên và Đại lý Đắc Lắc. Ngày 28 tháng 3 năm 1917 cắt tổng Tân Phong và tổng An Khê thuộc cao nguyên An Khê, tỉnh Bình Định, sát nhập vào tỉnh Kontum.
* Năm 1921, thực dân Pháp cắt tỉnh Phú Yên ra khỏi tỉnh Bình Định và kéo dài cho đến năm 1945. Thời Việt Nam Cộng hòa đổi các huyện thành quận, tỉnh Bình Định có 11 quận, 1 thị xã, trong đó có 4 quận miền núi. Tháng 2 năm 1976 Chính phủ lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã ra nghị định về việc giải thể khu, hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam theo đó hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định hợp nhất thành tỉnh Nghĩa Bình.
* Năm 1989 Bình Định tách ra từ tỉnh Nghĩa Bình để tái lập lại tỉnh và kéo dài như vậy cho đến nay.

Hành chính

Bình Định bao gồm 1 thành phố trực thuộc và 10 huyện:

* Thành phố Qui Nhơn
* Huyện An Lão
* Huyện An Nhơn
* Huyện Hoài Ân
* Huyện Hoài Nhơn
* Huyện Phù Cát
* Huyện Phù Mỹ
* Huyện Tuy Phước
* Huyện Tây Sơn
* Huyện Vân Canh
* Huyện Vĩnh Thạnh

Dân số, dân tộc

Theo số liệu niên giám thống kê năm 2005, toàn tỉnh có 1.562.400 người, trong đó nam là (761.000 người) chiếm 48,7%, nữ là (801.400 người) chiếm: 51,3%. Dân số ở thành thị là (393.000 người) chiếm 25,2%, nông thôn là (1.169.400 người) chiếm 74,8%, mật độ dân số là 259,4 người/km2 và dân số trong độ tuổi lao động chiếm khoảng (793.687 người) chiếm: 50,8% dân số toàn tỉnh. Ngoài dân tộc Kinh, còn có các dân tộc khác nhưng chủ yếu là Chăm, Ba Na và Hrê, bao gồm khoảng 2,5 vạn dân.

Văn hóa

Bình Định là mảnh đất có bề dày lịch sử với nền văn hoá Sa Huỳnh, từng là cố đô của vương quốc Chămpa mà di sản còn lưu giữ là thành Đồ Bàn và các tháp Chàm với nghệ thuật kiến trúc độc đáo. Đây cũng là nơi xuất phát phong trào nông dân khởi nghĩa vào thế kỷ 18 với tên tuổi của anh hùng Nguyễn Huệ; là quê hương của các danh nhân như Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân,Đào Tấn, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Yến Lan... Bình Định còn nổi tiếng bởi truyền thống thượng võ và có nền văn hoá đa dạng phong phú với các loại hình nghệ thuật như bài chòi, hát bội, nhạc võ Tây Sơn, hò bá trạo của cư dân vùng biển... cùng với các lễ hội như: lễ hội Đống Đa, lễ hội cầu ngư, lễ hội của các dân tộc miền núi...

Thành phố Qui Nhơn có trường Đại học Qui Nhơn, Trường Cao Đẳng sư phạm Bình Định, Trường Đại học Quang Trung (tư thục), Trường Cao Đẳng Kỹ thuật, hàng năm đào tạo hàng ngàn sinh viên khoa học kỹ thuật cho tỉnh và khu vực miền trung Tây Nguyên .

Tuồng Bình Định

Bình Định là nơi có nghệ thuật tuồng rất phát triển gắn liền với tên tuổi của Đào Duy Từ (Hiện Nay đền thờ danh nhân Đào Duy Từ ở tại xã Hoài Thanh Tây huyện Hoài Nhơn, cách quốc lộ 1A 2 km), Đào Tấn. Các đoàn hát tuồng trong tỉnh được hình thành ở khắp các huyện. Với sự giao lưu của nghệ thuật tuồng và võ Bình Định đã đưa tuồng Bình Định lên một tầm cao mới khác lạ hơn so với các đoàn tuồng của Huế hay Nguyễn Hữu Dỉnh của Quảng Nam. Tuồng còn gọi là "hát bội" hay hát bộ sở dĩ nó có tên gọi như thế là vì ngoài việc hát thì yếu tố quan trọng góp phần tạo nên một vở tuồng hay và đặc sắc là hành động điệu bộ của các đào kép. Việc kết hợp võ thuật vào các màng nhào lộn, đánh trận ở mỗi đoàn có khác nhau tùy theo trình độ của đào kép. Trước kia khi hát bội còn thịnh hành thì có nhiều đoàn hát nhưng những năm gần đây dưới sự biến động của kinh tế thị trường thì nhiều đoàn dần giải tán. Lúc còn thịnh hành các đoàn hát bội thường được các làng, những gia chủ giàu có hay các lăng, đình ven biển mời về biểu diễn. Sau những đoạn diễn hay người cầm chầu ném tiền thưởng lên sân khấu. Vì thế mới có câu "Ở đời có bốn cái ngu làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu" thường thì sau đêm hát cuối cùng các đoàn hay hát màn "tôn vương" để chúc tụng gia chủ, làng xóm gặp nhiều may mắn và cuối màn "tôn vương" thì thường hát câu: "rày mừng hải yến Hà Thanh-nhân dân an lạc thái bình âu ca" hay "ngũ sắc tường vân khai bắc khuyết-nhất bôi thọ tửu chúc nam sang".

Đặc sản

Ngoài các đặc sản về lâm, thổ, thuỷ, hải sản của duyên hải miền Trung nói chung, Bình Định còn nổi tiếng có: rượu Bàu Đá (An Nhơn), cá chua nước lợ (Phù Mỹ, Đề Gi), bánh tráng nước dừa (Tam Quan. Ngày nay ở huyện Hoài Nhơn còn có thêm đặc sản Cá Ngừ Đại Dương dân địa phương gọi là cá "Bò Gù" ) ...
 
T

tjeujusjeuway

Tháp Chăm ở Bình Định

Tháp Champa huyền ảo

Không chỉ là “đất võ trời văn”, Bình Định còn là xứ sở của những tháp Champa. Những tòa tháp hiện lên sống động dưới góc nhìn của độc giả Hoàng Tuấn.

Hiện nay ở Bình Định có đến 8 cụm tháp và nằm ở các huyện xung quanh kinh thành Đồ Bàn xưa như: Phù Cát, Tuy Phước, An Nhơn, Tây Sơn và TP Quy Nhơn.Theo dòng lịch sử, xưa kia Bình Định từng là kinh đô của người Chăm (từ thế kỷ 11 - 15). Hệ thống kiến trúc tiêu biểu do người Chăm tạo dựng trên vùng đất này, ngoài các tòa thành cổ Thị Nại, Đồ Bàn, An Thành, Uất Trì còn có 14 tháp Chăm (đến nay vẫn còn khá nguyên vẹn) được xây trên đồi cao, tập trung tại 8 địa danh: Bánh Ít, Dương Long, Hưng Thạnh, Cánh Tiên, Phú Lộc, Phú Thiện, Bình Lâm và Hòn Chuông.

Nếu xuất phát từ Quy Nhơn, bạn sẽ gặp Tháp Đôi ngay trong lòng thành phố, bên bờ đầm Thị Nại. Sở dĩ gọi tên như vậy vì có hai tháp đứng cánh nhau, sừng sững giữa trời xanh, như người ta “có cặp, có đôi”. Cách Quy Nhơn khoảng 30 km, thuộc địa phận huyện Tuy Phước, sát ngã ba quốc lộ 19 và quốc lộ 1, bạn đến thăm quần thể tháp Bánh Ít, gồm 4 tháp lớn nhỏ được xây trên một ngọn núi, soi bóng xuống dòng sông Kôn.


Ở tháp Bánh Ít, bạn sẽ thấy được những kiến trúc duyên dáng của tháp, đặc biệt là tháp có hình yên ngựa. Nếu tiếp tục đi ra hướng bắc, du khách sẽ gặp tháp Phú Lốc và tháp Cánh Tiên, hai ngọn tháp này cũng được xây trên những ngọn đồi cao, vì vậy đi ngang quốc lộ 1 bạn đều nhìn thấy. Tháp Cánh Tiên nằm trong khuôn viên thành Đồ Bàn, và theo một số tài liệu nghiên cứu là quà tặng của vua Chế Mân xây tặng cho hoàng hậu công chúa Huyền Trân của Đại Việt.

Nếu bạn đến tham quan tháp vào những buổi chiều, nhìn từ xa, các góc mái của tháp những đôi cánh của các cô tiên nhảy múa trong sắc đỏ hoàng hôn. Tiếp tục đi về phía biển bạn sẽ bắt gặp tháp Bình Lâm (nay thuộc huyện Tuy Phước) và một tháp chưa được khám phá trên núi Bà (Phù Cát, Bình Định). Từ tháp Bánh Ít theo quốc lộ 19 lên Tây Sơn, bạn sẽ được chiêm ngưỡng tháp Thủ Thiện ở bên này và Tháp Dương Long ở bên kia sông Kôn. Và hình như các tháp Champa đều được xây dựng bên những dòng sông.
14.jpg

Tháp Dương Long
7.jpg

Tháp Champa trong nắng.

8.jpg

Tháp đôi
9.jpg

Nét kiến trúc độc đáo
11.jpg

Đối mặt vói thời gian
12.jpg

Bền bỉ với thời gian
10.jpg

Một điệu múa Chăm
6.jpg

Đây còn là nơi chia sẻ niềm hạnh phúc của nhìu đôi vợ chồng trong ngày cưới

Nhạc sĩ Văn Cao trong một lần về thăm tháp Chăm Bình Định đã lưu lại mấy câu thơ bất hủ: Từ trời xanh/ Rơi/ Vài giọt tháp Chăm/ Quanh Quy Nhơn/ Tôi/ Như đứa trẻ yêu huyền thoại. Chính vì tính cách nhỏ giọt của "bản đồ" mà tháp Chăm Bình Định đã cho Văn Cao những suy nghĩ ấy. Vì bao giờ tháp Chăm Bình Định cũng đều được xây trên những ngọn đồi ở vị trí cao nhất, ở những vùng đất mà nó ngự trị.

Tháp Chăm Bình Định là nguồn cảm hứng của nhiều du khách đến thăm bởi sự hùng vĩ và trải qua hàng nghìn năm nó tồn tại một cách ngạo nghễ với thời gian. Nhà thơ Chế Lan Viên, trong một lần đến thăm tháp Chăm Bình Định, suy nghĩ về sự đổi thay dâu bể của lịch sử và số phận của những người Chăm đã có cảm hứng: Đây, những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn. Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi; Những rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độn, Lừng hương đưa, rộn rã tiếng từ quy!

Bình Định ngày nay, Vijaya xưa là vùng định đô của vương quốc Chămpa cổ từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14. Đây là giai đoạn phát triển văn hóa rực rỡ của Chămpa. Trên vùng đất này, văn hoá Chămpa đã để lại di tích khá đậm đặc với nhiều loại hình và số lượng phong phú, tiêu biểu trong số này là hệ thống các tháp Chăm ở Bình Định.

Chính vì những giá trị nổi bật, độc đáo mà UBND Bình Định, Viện Khảo cổ học đang xúc tiến xây dựng hồ sơ, khuyến nghị Chính phủ, đề nghị UNESCO công nhận: "Hệ thống các di tích tháp Chăm Bình Định là di sản văn hoá thế giới". Tuy nhiên, lộ trình đi từ di tích đến di sản còn nhiều việc phải làm đối với mọi người. Nếu thấy rằng hệ thống tháp Chăm Bình Định thực sự là quý báu, thực sự là có giá trị của nước ta, di tích trải qua 1.000 năm, thì vì sao không đề cử tháp Chăm Bình Định là Di sản văn hoá thế giới?
 
T

tjeujusjeuway

Chùa Ông núi ở Phù Cát mình na`k!

Trên đường từ thành phố Quy Nhơn ra Khu kinh tế Nhơn Hội, khi đi ngang qua dãy núi Bà ở huyện Phù Cát, du khách sẽ thấy ở lưng núi thấp thoáng mái chùa đỏ thắm giữa màu xanh biếc của cây rừng. Đó là chùa Ông Núi, còn gọi là Linh Phong thiền tự - một trong những ngôi chùa lâu năm nhất của Bình Định.

Từ đường nhựa đi vào chân núi khoảng vài trăm mét du khách sẽ gặp hàng cột được trang trí công phu mở lối bước lên những bậc đá dẫn đến chùa. Lối đi quanh co theo sườn núi được tạo bởi hàng ngàn bậc đá này có từ hơn ba thế kỷ trước. Đường lên chùa vẫn còn nguyên vẻ tự nhiên, cỏ cây, hoa dại mọc chen giữa đá, đâu đó thoang thoảng mùi hoa dủ dẻ thật dễ chịu. Đi hết khoảng hơn một trăm bậc đá sẽ thấy ngôi chùa nằm ở độ cao khoảng 400m so với mực nước biển hiện ra.

Thật lạ là giữa lưng chừng núi lại có một khoảng đất khá rộng và rất bằng phẳng, đủ để xây một ngôi chùa lớn. Theo sách cũ, năm 1702, thiền sư Tịnh Giác đến núi này tu hành. Vị cao tăng dựng một mái chùa bằng cỏ tranh, sống một mình trên núi, thỉnh thoảng mới xuống thôn xóm chữa bệnh cho dân làng. Thấy ông dùng vỏ cây làm áo quần, dân trong vùng gọi ông là Mộc Y Sơn Ông.

Năm 1733, chúa Nguyễn Phước Trú lệnh cho quan địa phương dựng chùa lại bằng ngói, đổi tên là Linh Phong thiền tự. Ông tổ tuồng Đào Tấn khi đang là Thượng thư bộ Công cũng đã bỏ tiền tu bổ lại chùa và làm thơ ca ngợi cảnh đẹp nơi này. Ở Huế, Đào Tấn cũng lập hòn non bộ trong phủ đệ của mình, trên đó khắc hai chữ Linh Phong (hòn non bộ này hiện còn ở trong khuôn viên chùa Thiên Mụ). Chùa Ông Núi cũng được sách Đại Nam Nhất thống chí khen ngợi: “Chùa lưng dựa vào núi cao, mặt trông ra đầm biển cạn, xung quanh có nước suối lượn quanh, phong cảnh rất đẹp”.

Hiện nay, một ngôi chùa mới được xây lại rất khang trang bởi năm 1965, chùa cổ bị cháy bởi bom đạn. Chỉ còn hang Tổ, nơi thờ cúng người khai phá núi xây chùa và dòng suối nhỏ trong trẻo gợi nhớ hình ảnh ngôi chùa cổ kính ngày xưa. Khuôn viên chùa luôn mát rượi nhờ những tán cây cổ thụ như phượng, mít, bàng. Rất nhiều liễu và hoa được trồng chung quanh hồ nước rộng ngay trước chính điện.

Đứng từ cổng chùa, nhìn ra xa thấy đầm Thị Nại trong xanh điểm những con sóng bạc. Gần chân núi là những thôn xóm mái ngói nâu nổi bật giữa đồng lúa xanh non. Dòng sông Chùa uốn lượn lung linh trong nắng, dọc bờ biển, sóng tung bọt trắng xóa. Bước chân ra khỏi chùa, nhiều du khách sẽ thấy lòng thanh thản và bỗng thấy cõi nhân gian thật hữu tình.

Phía sau chùa còn có nhiều tháp cổ xen giữa đá núi và những tán cây rừng cổ thụ. Đây là nơi an nghỉ của các vị sư. Đi sâu vào trong núi có nhiều hòn đá chồng lên nhau tạo thành những hình thù kỳ dị và cả những hang đá thâm u. Một số hang có thờ Phật nên ấm áp mùi nhang khói. Có những hang rất rộng, chứa được cả đoàn quân thời chiến. Nhiều hang đá giờ đây bị những bụi cây gai um tùm lấp mất cửa không ai dám vào. Hang động núi Bà vẫn còn đó nhiều bí mật với khách hành hương.
imageview.aspx_thumbnailid_352796.jpg

Toàn Cảnh chùa! Đẹp ho^k?
imageview.aspx_thumbnailid_352797.jpg

Tượng Mộc Y Sơn Ông
imageview.aspx_thumbnailid_352799.jpg

Lối lên núi
imageview.aspx_thumbnailid_352798.jpg

Chánh Điện
Vào những ngày lễ , chùa đông như hội! mọi người từ nhìu nơi đều đến để mong cầu được nhìu điều phúc lành!
images15006_chua.JPG

ong-Nui-6-roi.gif

4412843562_89907f9a1f_o.jpg

ongnui.jpg

images80088_a4.JPG

images58892_a2.JPG

Đông như kiến
images58886_a5.JPG

images80084_a2.JPG
 
N

nguoiquaduong019

tiếp tục nhé!!!

hic, Bình Định là 1` miền đất đáng tự hào. là 1 người con của quê hương, mình tiếp lời các bạn nhá!!

Bình Định có nhiều biển như bãi Dài, Nhơn Lý, bãi tắm Hoàng Hậu, khu vực Ghềnh Ráng, Vĩnh Hội, Trung Lương... Mỗi bãi biển tại đây đều có nét đẹp riêng và có những bãi biển thích hợp cho du khách tắm, trong đó hấp dẫn nhất phải kể đến bãi Hoàng Hậu, khu vực Ghềnh Ráng, bãi tắm tại khu du lịch Quy Hòa...
1 góc của bãi tắm Hoàng Hậu ( bãi Trứng)


3L0.10552434_1_1.jpg

3L0.10552442_1_1.jpg

LT0.10552475_1_1.jpg


Đến Bình Định, chúng ta sẽ có cơ hội tìm về một mảnh đất lịch sử, đó là vùng Tây Sơn thượng võ, quê hương người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ.

Bình Định là cái nôi của nhiều nhà thơ, nhà văn, và các vị anh hùng dân tộc như nhà thơ Hàn Mạc Tử, Xuân Diệu, vua Quang Trung - Nguyễn Huệ, anh hùng Mai Xuân Thưởng, Võ Duy Dương, Tăng Bạt Hổ,... và còn rất rất nhiều nữa. Thật đáng để chúng ta tự hào phải không các bạn ???

mời các bạn ghé thăm bảo tàng Quang Trung Bình Định


3L0.10552430_1_1.jpg

CS0.10552441_1_1.jpg

VK0.10552443_1_1.jpg


hic, ở trên bạn tjeujusjeuway đã cho các bạn bik về một số món ăn ở Bình Định, và bây giờ thì chúng ta cùng nhau....thưởng thức nhá :D

Bánh ít lá gai.

3L0.10552456_1_1.jpg


Nem chợ Huyện

3L0.10552453_1_1.jpg

8P0.10552461_1_1.jpg


Bánh tráng:

LT0.10552831_1_1.jpg


Bánh hỏi

3L0.10552451_1_1.jpg


Bún Song Thằn

LT0.10552458_1_1.jpg


Bún sứa Quy Nhơn

ZL0.10552463_1_1.jpg


Thủy hải sản

SC0.10552449_1_1.jpg

5A0.10552450_1_1.jpg


lẫu sứa nè!!

LK0.10552446_1_1.jpg


bánh xèo nhá!!

UL0.10552447_1_1.jpg


Bánh tro

LT0.10552436_1_1.jpg


Chim mía

CS0.10552467_1_1.jpg


úi, ngon quá, hic hic, đói bụng quá đi :)) :))

tạm stop tại đây, nếu mà post nữa, chắc chảy nước bọt hết :)) :))

mum mum mum, ngon quá.......
 
Last edited by a moderator:
T

typhoon_vsthien_95

M` c~ng là MEM của Bình Định nè!!!!!!!
Thấy tòan là người wen nên vô góp vui!!!!!!!!!!
 
T

typhoon_vsthien_95

Nhắc đến Bình Định thì phải nhắc đến tháp chăm!!!!!!!!!!
Đó là biểu trưng cho Bình Định mà!!!!!!!!!!!!!!


Tháp Chăm Bình Định từ kiến trúc đến lịch sử

Tháp là một dạng kiến trúc tôn giáo mang bản sắc rất riêng của dân tộc Champa. Theo các sử liệu thì trong quá trình trị vì đất nước, các triều đại Champa đã cho xây dựng khá nhiều đền đài; trải qua nhiều thời gian đấu tranh tồn tại, cộng với sự tàn phá của thiên nhiên, con người, cho đến nay trên vùng cư trú xưa của họ chỉ còn lại một số dạng kiến trúc đền đài là các tháp.
So với một số địa phương khác trong dải đất miền Trung, Bình Định là một trong những nơi còn lại khá nhiều dấu tích của nền văn hóa Chămpa. Với 8 cụm di tích tháp trên tổng số 14 tháp quả là một con số khá lý tưởng cho những nhà nghiên cứu khi tìm hiểu vùng Vijaya xưa và Bình Định sau này.

Về tháp Chăm, trong Ấn Độ giáo người ta gọi là Sikhara, một dạng kiến trúc tiêu biểu cho đạo Bà La Môn giáo.

Từ Sikhara có nghĩa là đỉnh nhọn, đỉnh núi nhọn, biểu thị cho núi Mêru trong Bà La Môn giáo. Núi Mê Ru là núi thần thoại có nhiều đỉnh cao thấp khác nhau. Vị thần tối cao ngự trên đỉnh cao nhất. Các vị thần khác tùy theo bậc cao thấp khác nhau mà ngự trị ở những đỉnh núi thấp hơn trên cùng một dãy Mêru. Núi Mê ru được biểu hiện thành kiến trúc Sikhara, người Chăm gọi là Kalan, có nghĩa là đền thờ. Đúng ra Kalan Chăm chứ không phải là tháp Chăm. Nhưng do người ta quen gọi tháp Chăm, đồng thời từ tháp đã trở thành một thuật ngữ kiến trúc chỉ loại hình cao tầng đế nhỏ, cho nên người ta vẫn dùng từ tháp để chỉ cho loại hình kiến trúc này.

Sau khi dời đô về Bình Định vào đầu thế kỷ 11, phong cách kiến trúc tôn giáo của người Chăm có sự biến đổi, giới nghiên cứu gọi là phong cách Bình Định. Trong kiến trúc thể hiện tính hoành tráng, nhưng trong trang trí lại khá đơn giản, không cầu kỳ như giai đoạn trước. Tất cả thành phần kiến trúc đi vào mảng khối là chính, vòm cửa thu vào và vút cao thành hình mũi giáo, các tháp nhỏ trên các tầng như cuộn lại thành khối đậm khỏe, trên mặt tường được tạo các trụ ốp với những đường gờ nổi chạy dọc thân tường tháp, các góc đều được tạo những phiến đá điểm góc cách điệu. Tất cả đều có tác dụng gây ấn tượng hoành tráng từ xa nhìn vào.

Khi định niên đại cho các tháp Chăm thuộc phong cách Bình Định, P. Stec đã đưa ra một giả định như sau: Phong cách bắt đầu từ tháp Bánh Ít hay còn gọi là tháp Bạc (nửa đầu thế kỷ 12), tháp Dương Long (đầu thế kỷ 13), tháp Hưng Thạnh (nửa đầu thế kỷ 12), nở rộ ở các tháp Thủ Thiện, Cánh Tiên (hay tháp Đồng), Phú Lốc (hay tháp Vàng) thuộc thế kỷ 13 và bắt đầu suy thoái ở tháp Po Klung Garai - Ninh Thuận (cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14). Sau này Boisselier, trên cơ sở nghiên cứu các tác phẩm điêu khắc, đã cho rằng phong cách Bình Định hay tháp Mẫm bắt đầu từ cuối thế kỷ 11 và kéo dài tới thế kỷ 13 với thứ tự sau: sau tháp Bánh Ít là tháp Thủ Thiện cùng Cánh Tiên, Phú Lốc, tiếp đó là Dương Long, Nhạn Tháp (Phú Yên) và kết thúc là Po Klung Garai. Gần đây sau những phát hiện mới về điêu khắc trang trí kiến trúc, giới nghiên cứu cho rằng tháp Bánh Ít có niên đại đầu thế kỷ 11, còn tháp Phú Lốc, Thủ Thiện và Dương Long có niên đại thế kỷ 12.

Thực tế cho thấy rằng các tháp Chăm đều được xây dựng theo một tín ngưỡng thống nhất thờ thần Siva, một trong tam vị nhất thể của đạo Bà La Môn. Siva tượng trưng cho sự hủy diệt, hai vị thần kia là Visnu tượng trưng cho sự bảo tồn và Brahma tượng trưng cho sự sinh thành, cả ba nằm trong vòng luân chuyển không ngừng. Người Chăm thờ thần Siva là chính, người Khmer thờ thần Visnu là chính. Tín ngưỡng này của người Chăm được kết hợp với tục thờ tổ tiên tạo thành bản sắc riêng trong đời sống tinh thần của họ.

Kỹ thuật kiến trúc và điêu khắc Chăm cho đến nay vẫn còn là một điều bí ẩn đối với nhà nghiên cứu. Làm thế nào để ghép tất cả những viên gạch nâu sẫm thành những tháp, tượng, những đài… chính xác và tinh vi đến như vậy? Cái gì đã tạo thành sự kết dính của những viên gạch ấy, khiến nó có thể đứng vững hơn một nghìn năm nay và sẽ còn đứng vững lâu hơn nữa, nếu không bị chiến tranh và sự xâm thực vô thức của con người. Đã có những cuộc hội thảo chuyên sâu về vấn đề này và đã có những câu giải đáp đúng hay chưa đúng cho giả thuyết đưa ra. Nhưng cái kinh ngạc được gieo vào lòng chúng ta thì vẫn còn mãi.

Tồn tại trong 5 thế kỷ, trên vùng đất Bình Định xưa người Chăm đã xây biết bao những kiến trúc tôn giáo hoành tráng. Những gì còn sót lại hôm nay chỉ là một phần nhỏ trong những di sản mà người Chăm làm ra.

Tháp Chăm, những viên ngọc quý lung linh tỏa sáng trên vùng đất Bình Định đang trở thành di sản trong kiến trúc cổ Việt Nam, văn hóa Việt Nam và Đông Nam Á.


Sau đây là một số hình ảnh về tháp chăm
Thap-Banh-It-by-R.U.I.jpg

idzbn1246851254.jpg

images37732_thapPhuLocgan.jpg

images55334_thapcham.jpg

thap-021.jpg

small_1207662792.nv.jpg

small_1207400240.nv.jpg

8(1227).jpg
 
N

nhobeo

Em cũng ở Bình Định nè các anh chị ơi!

Em xin giới thiệu sơ nét về cầu Nhơn Hội_ Cây cầu xuyên biển lớn nhất Bịnh Định ta!

Ngày 12/12, tỉnh Bình Định đã chính thức khánh thành cầu Thị Nại nối thành phố Quy Nhơn với Khu kinh tế Nhơn Hội. Cho đến thời điểm này, cầu Nhơn Hội là cây cầu vượt biển dài nhất Việt Nam.
images1183501_1Cau-Nhon-Hoi.jpg

250px-C%E1%BA%A7u_Th%E1%BB%8B_N%E1%BA%A1i%2C_Quy_Nh%C6%A1n.JPG

Có lẽ chỉ là hàng em út so với Osaka- Kobe Nhật Bản (6 km), Penang của Malaysia (13 km), của Đan Mạch nối Thụy Điển (30 km) nhưng cây cầu Thị Nại của Bình Định hiện là cây cầu vượt biển lớn nhất của nước Việt. Cầu Nhơn Hội dài gần 7km, gồm cầu chính vượt đầm Thị Nại (diện tích lên tới hơn 5.000 hécta), 5 cầu nhỏ qua sông Hà Thanh và đường dẫn 2 đầu cầu, kinh phí đầu tư lên tới 600 tỷ đồng.Phần chính của cầu dài 2.477,3 m, rộng 14,5 m. Cầu gồm 54 nhịp có khẩu độ mỗi nhịp là 120 m. Tính cả phần hệ thống đường gom, cầu dài 6960 m với 5 cầu ngắn. Cầu chịu xe trọng tải 30 tấn và xe bánh xích trọng tải 80 tấn.
Cầu ứng dụng công nghệ thi công hiện đại, dùng cọc khoan nhồi có đường kính từ 1,2-1,5 m, dầm hộp bê tông liên tục, dầm supper T ứng suất trước. 5 nhịp chính thi công theo phương pháp đúc hẫng cân bằng đối xứng, bê tông dầm hộp có cáp dự ứng lực trong và ngoài, còn 49 nhịp dẫn sử dụng dầm Supper T ứng suất trước.
Cầu Thị Nại nằm trong hệ thống cầu đường Nhơn Hội l dài gần 7 km nối thành phố Qui Nhơn với bán đảo Phương Mai (khu kinh tế Nhơn Hội), gồm cầu chính vượt đầm Thị Nại, 5 cầu nhỏ qua sông Hà Thanh và đường dẫn 2 đầu cầu. Được xây dựng trong 3 năm, khánh thành ngày 12/12/2006.
DSCN0545.jpg

Tay máy nghiệp dư - nhà thơ Thanh Thảo cận ngày khởi công cây cầu tình cờ chụp được cái cầu vồng bất chợt giăng từ đất liền Quy Nhơn qua biển Thị Nại sang bán đảo Phương Mai. Thi sĩ cho đăng báo và có nhiều người khoe rầm lên là điềm triệu của việc lành Bình Định xây cầu vượt biển lớn nhất nước!
CAUDUONGNHONHOI.jpg

Nhớ khi ấy trước những vặn vẹo của cánh báo chí rằng có cần thiết làm cây cầu vượt biển lớn nhất nước? Ông Chủ tịch Bình Định Vũ Hoàng Hà, chất giọng hàng ngày vốn oang oang nhưng thoắt điềm tĩnh mà nhỏ nhẹ rằng, ông khoái những ý tưởng lãng mạn biến thành rồng thành hổ (đại để dám biết vượt thoát nghèo nàn lạc hậu để mà vươn lên như làng chài heo hút của phố Đông Thượng Hải, như Thâm Quyến mà ông vừa đi tham quan về nay thành những thành phố những khu kinh tế sầm uất)

Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng trong bài phát biểu buổi khánh thành đã ví von cây cầu như một dải lụa mềm vắt ngang trời! Còn ông Mai Ái Trực (một người con của Bình Định nay là Bộ Trưởng Bộ TN&MT) bản tánh cẩn trọng vốn có cũng cho rằng cây cầu là cánh cửa, là lối ra cho Bình Định khai thông hòa nhập với khu vực và quốc tế là ý tưởng để mai kia Việt Nam có nhiều cây cầu lớn hơn, dài hơn khai thông với kinh tế biển...
Rồi bảy sắc cầu vồng lung linh trong tấm ảnh của thi sĩ được ông diễn dịch đại khái là nếu Bình Định không mở ra khu kinh tế Nhơn Hội nằm trên bán đảo Phương Mai (gồm khu phi thuế quan và khu thuế quan, khu công nghiệp, khu cảng biển, khu chế xuất, kho trung chuyển quốc tế, khu vực đóng tàu, khu du lịch khu đô thị...) và cụ thể là không xây cây cầu vượt biển nối Quy Nhơn với Phương Mai thì Bình Định mãi nằm trong thế bị đói nghèo vây hãm.

Cây cầu này được coi là điểm mở cho một Khu kinh tế lớn: Khu kinh tế Nhơn Hội rộng 12 ngàn hécta trên bán đảo Phương Mai. Đây là Khu kinh tế tổng hợp liền vùng, liền khoảnh, có nội dung hoạt động rộng, đa ngành, đa chức năng, đan xen các yếu tố kinh tế với xã hội, bao gồm: Công nghiệp, cảng, du lịch, thương mại, dịch vụ và các khu đô thị mới... Khu kinh tế gồm cả hoạt động sản xuất công nghiệp và thương mại dịch vụ - du lịch, làm trọng tâm cân đối nhau và thúc đẩy nhau phát triển.

Khu kinh tế Nhơn Hội được Chính phủ định thành lập và ban hành quy chế hoạt động vào tháng 6/2006. Sau hơn một năm tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và xúc tiến đầu tư, một khu kinh tế năng động dần thành hình, tạo niềm tin đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Các dự án đầu tư vào KKT Nhơn Hội được hưởng các ưu đãi áp dụng đối với địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, các pháp luật thuế và các ưu đãi khác theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Cụ thể, tất cả các dự án đầu tư của các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài vào KKT Nhơn Hội được hưởng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10% (áp dụng trong 15 năm kể từ khi dự án bắt đầu hoạt động kinh doanh) và được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 4 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% số thuế phải nộp cho 9 năm tiếp theo; được miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu sản xuất, vật tư, linh kiện và bán thành phẩm mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất không đạt tiêu chuẩn chất lượng trong 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất; giảm 50% thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, kể cả người Việt Nam và người nước ngoài làm việc tại KKT Nhơn Hội.

Cho đến giờ, có thể khẳng định Bình Định đã thành công trong việc kéo vốn đầu tư vào Nhơn Hội với 43 dự án tổng vốn 3,4 tỷ đôla Mỹ, con số mà không phải Khu kinh tế nào mơ cũng thấy. Trong đó những dự án lớn như nhà máy lọc dầu, 1,5 tỷ đô la Mỹ, dự án đóng tàu của HuyndaiVinashin. Mới đây Bình Định được bình chọn vị trí thứ năm trên phạm vi cả nước về hấp dẫn đầu tư.

Khu KT Nhơn Hội được xây dựng sẽ trở thành trung tâm công nghiệp đô thị dịch vụ du lịch của vùng trọng điểm kinh tế miền Trung. Rồi sẽ là đầu mối giao lưu quốc tế quan trọng góp phần mở rộng thị trường khu vực Nam trung Bộ Tây Nguyên và là cầu nối với thị trường Campuchia, Lào Thái Lan...

Một số hình ảnh khác về vẻ đẹp của cầu Nhơn HỘi nữa nà!
13___Lung_linh_tren_cau_Thi_Nai___Anh_Dao_Tien_Dat.jpg

11.jpg

3239989349_16b89f3d78.jpg

cau-thi-nai0.jpg

2258153736_07ef4bb69f.jpg
 
C

conan193

quả là thật tự hào khi là người con bình định
nhưng ko pox hình lên được
 
Top Bottom