Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Không gian bức tranh mở ra tại ao thu lạnh lẽo, cái lạnh không thấm vào da thịt, không buốt xương, nó chỉ nhẹ nhàng, mơn man. Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Lững lờ trên mặt ao thu ấy. Nước trong veo, xanh, trong , và sáng đến vô ngần. Phải trong, phải xanh, nhất là phải rất sáng mới có được làn nước ao trong veo như thế. Đến sóng gợn cũng phải biếc, cũng chứa sắc xanh đến nao lòng người. Cùng hoà điệu với nước xanh, sóng xanh là bầu trời xanh ngắt. Sắc xanh như đổ tràn, kết nối mặt nước bầu trời. Bầu trời xanh in bóng xuống mặt nước khiến mặt nước vốn trong lại xanh thêm. Mặt nước phải tĩnh lặng như tấm gương khổng lồ của tạo vật để bầu trời kia nghiêng mình soi bóng. Trời và nước giao hoà, kết nối. Trời cao vòi vọi, nước sâu thăm thẳm, tất cả đều kéo giãn không gian, mở rộng khoảng cách,tưởng không có gì hơn giữa cõi thăm thẳm của nước trời độ thu. Giữa không gian cao, rộng và sâu ấy, chiếc lá vàng vốn nhỏ càng nhỏ thêm, rợn ngợp thêm. Sắc vàng duy nhất như đâm xiên giưa bao nhiêu là sắc xanh. Một chiếc lá, một sắc vàng nhỏ xíu khẽ đung đưa, trở thành tâm điểm, nổi bật lên trên nền khong gian ấy. Bức tranh thiên nhiên cảnh vật rất thật và đẹp, sống động và xinh xắn. Nhìn sắc vàng của lá, ta nhớ đến câu thơ:
Một lá ngô đồng rụng
Thiên hạ biết thu sang
Chẳng cần nhiều sắc vàng của lá. Không gian mùa thu Việt Nam dưới cái nhìn của Nguyễn Khuyến gợi sắc xanh, khác hẳn màu áo mơ phai trong thơ Xuân Diệu:
Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Đâu phải cứ sắc vàng mới dệt nên mùa thu, đâu cứ phải chỉ bức tranh Mùa thu vàng của Lêvitan mới đẹp, mới đắm say lòng người. Nguyễn Khuyến, bằng vốn ngôn ngữ giàu chất gợi, chất hoạ, đã vẽ nên một màu thu xanh nên thơ rất Việt Nam làm say đắm lòng bất cứ một người nào đã từng sống với thu, với làng quê đất Việt trong tiết thu. Thậm chí, những câu này của Nguyễn Khuyến đủ giúp ai chưa từng sống ở cảnh ấy, không gian ấy thêm yêu mến và khát khao tìm về hoà điệu cùng cảnh vật, lòng người hay chí ít, đủ tạo cảm giác ta đã sống, đã cảm nhận sâu sắc, cảm nhận đủ đầy mùa thu Việt Nam nơi chốn quê thanh bình, yên tĩnh.
Khác với không gian Thu điếu, Thu vịnh, bài thơ Thu ẩm lại tạo nên một vẻ đẹp khác rất quen mà sao hấp dẫn, cuốn hút, mê say. Bài thơ mở ra không phải là không gian cao trong, rộng rãi, khoáng đạt đến vô cùng của Thu điếu, Thu vịnh, không phải là trời mây, non nước, là thiên nhiên tạo vật đắm say. Bài thơ mở ra một không gian gần gũi, thân thuộc của quê nghèo Việt Nam buổi ấy:
Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
Năm gian nhà cỏ hiện lên đủ để tạo cảm nhận về sự nghèo đói của quê hương, của đời riêng Nguyễn khuyến nhưng còn nghèo hơn, khổ hơn, tối tăm hơn với cụm từ thấp le te. Đã thấp lại còn le te! Tưởng như năm gian nhà chạm đất được. Phải chăng đấy là hình ảnh rất chân thực của làng quê ông, một vùng đồng bằng chiêm trũng chưa mưa đã úng, quanh năm đói nghèo? Cảnh vẫn đẹp, vẫn nên thơ say lòng nhưng cuộc sống thì lấm lem, nghèo đói:
Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
Nhà thấp. Một sự tối. Lại thêm ngõ tối, đêm sâu. Không gian càng tối đen, ngột ngạt hơn. Giữa đêm tối mịt mùng, sự lập loè của đom đóm không làm sáng lên không gian, không làm ấm lên. Ngược lại cảm giác tối càng rợn ngợp hơn, đặc quánh lại, đầy ám ảnh. Phải nói rằng, Nguyễn Khuyến đã rời khỏi không gian tràn đầy ánh sáng, tràn đầy màu sắc đẹp đẽ của thu để trở về cảm thương trước cảnh sống, trước không gian sống quen thuộc quanh mình. Đọc những vần thơ ấy, trước hiện thực tăm tối ấy. Bài thơ vì thế như ngoặt sang hướng khác, không còn nữa sự thảnh thơi, thư thái trước đất trời tạo vật. Thế nhưng:
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Câu thơ không tả trăng, chỉ gợi về trăng nhưng đủ để vẻ đẹp ấy ngời toả, lung linh. Ta đã gặp nhiều hình ảnh về trăng trong thơ, nhất là thơ thu. Đây là trăng trong thơ Xuân Diệu: Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ - một vầng trăng như người con gái đầy tâm trạng ngẩn ngơ. Và đây là trăng thu trong thơ Bác: Trung thu trăng sáng như gương. Nó khác hẳn trăng trong thơ Nguyễn Khuyến. Trăng không hiện hình, trăng ẩn mặt. Nhưng mặt ao vẫn soi được bóng trăng. Trăng rát bạc lên mặt cao khiến cho không gian lung linh, lóng lánh đầy ánh sáng. Sắc trăng, sánh trăng như loe dài, như lan toả trên mặt ao. Từ loe được Nguyễn Khuyến sử dụng rất đắt, tạo nên duyên riêng của trăng, của câu thơ, tạo nên vẻ đẹp riêng của bài thơ.
Có thể nói, bức tranh cảnh thu ở mỗi bài thơ là một vẻ đẹp riêng, một nét đẹp riêng không hoà lẫn. Cùng với việc sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong sáng, điêu luyện. Nguyễn Khuyến đã góp những tiếng thơ hay, những bài thơ hấp dẫn, độc đáo trong thơ thu. Có lẽ hiếm có một tác giả nào có thể để lại chùm thơ cùng đề tài sống mãi, cuốn hút, giành được sự yêu mến mãi như Nguyễn Khuyến với ba bài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh.
Đặc biệt không chỉ sáng tạo mới mẻ trong thể hiện cảnh thu, Nguyễn Khuyến còn đặt dấu ấn riêng trong hình ảnh nhân vật trữ tình. Tất cả đều mang nét buồn nhưng mỗi bài thơ là một vẻ riêng, một sự buồn riêng không giống nhau. Ở Thu điếu, nhân vật trữ tình dường như chìm khuất trong hình ảnh. Hiển hiện lên trang thơ là con người vui thú “an bần lạc đạo”, vui cùng điền viên nhưng kì thực đã thả hồn theo đất trời thu hay nỗi niềm gì lẩn khuất tự bao giờ. Tựa gối ôm cần nhưng nhưng chẳng hề chú tâm đến việc câu. Thu điếu vậy mà điếu hầu như chẳng được mảy may bận tâm. Cái còn lại có chăng chỉ là con người mang nặng tâm trạng, tìm về với thiên nhiên, đất trời để “thanh lọc tâm hồn”, để tìm chỗ nghỉ trên chặng đường đời. Ở Thu ẩm ấy lại là người uống rượu. Say sưa với tâm sự u uẩn, gửi vào đó bao nhiêu nỗi niềm không thể nào giải toả. Con mắt đỏ hoe kia hẳn không phải là say rượu. Có lẽ đó là do khóc cho đời, cho kiếp người chăng? Đằng sau vẻ uống rượu say nhè, đằng sau hình ảnh mắt lão không đầy cũng đỏ hoe kia chứa đựng biết bao nhiêu tâm trạng, bao nhiêu nỗi niềm.
Rồi nữa, ở Thu vịnh lại là con người mang tâm trạng hoài niệm xa xăm:
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Tâm trạng thảng thốt như đang gửi ở phương nào nay sực tỉnh. Thi hứng tràn về, vậy mà chẳng thể nào cất bút: Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Thẹn vì lẽ tài thơ chưa bằng hay thẹn vì nỗi không có khí phách, chí khí của Đào Tiềm? Có lẽ là cả hai nhưng căn cốt vẫn ở phần sau. Phải chăng đó cũng là nỗi lòng u uẩn trong hai bài thơ trên chưa thể nói ra. Cùng một tâm trạng, cùng một nỗi lòng nhưng mỗi lần mỗi khác, những nét vẻ riêng, những diện mạo riêng không hoà lẫn.
Cái gì đã giúp cho chùm ba bài thơ thu này vượt qua sự băng hoại của thời gian, tồn tại mãi trên dòng thơ ở tầm cao, ở chiều sâu của nó, chiếm lĩnh, ăn sâu trong lòng bạn đọc? Phải chăng là ở cả ba bài thơ đã được tinh luyện, chắt lọc từ hiện thực cuộc đời đẹp đẽ, nên thơ xen lẫn ca những vất vả, lấm lem bùn đất? Hiện thực vẻ đẹp quê hương qua lăng kính của nhà thơ đã khúc xạ, phát quang lên trang viết. Hiện thực mà không sao chép, không quy chụp. Ngược lại, Nguyễn Khuyến đã hút lấy phần tinh tuý nhất, sâu sắc nhất của hồn thu, của tình người để tạo nên trang thơ thật tinh tế.
Vẻ đẹp quê hương soi chiếu trong cái nhìn, cảm quan người nghệ sĩ trở nên lung linh, đa vẻ, đa màu như chiếc kính vạn hoa kì diệu dưới bàn tay điều khiển của người sáng tác.Thay đổi góc nhìn, thay đổi độ ngắm, bài thơ lại ngời lên vẻ đẹp mới, toả hương.
Ba bài thơ mùa thu được viết nên, nhào nặn nên từ những gì rất thực, rất đời, từ vẻ đẹp của quê hương nhưng hơn thế, cái để tác phẩm sống là phần tình mà nhà văn gửi gắm, trao chọn cho nó. Một trái tim yêu quê, một xúc cảm chân thành nồng nhiệt trước cuộc đời, trước cái đẹp đã thăng hoa, vút lên thành những vần thơ. Tình cảm cùng sự liên tưởng, chọn lựa của nhà thơ đã thổi phồng căng cánh diều hiện thực của quê hương. Hồn thơ tung cánh, câu thơ vút lên, ngân nga như câu hát. Để rồi xúc cảm bạn đọc. Từ trái tim đến trái tim, tác phẩm thơ sống mãi, trường tồn, vượt qua mọi thử thách của thời gian, sự cách trở của không gian, tri âm với triệu triệu con người.
Hơn nữa, cùng bắt nguồn từ hiện thực, vẻ đẹp mùa thu và tâm trạng trước thu, nhà thơ đã luôn đặt mình trong hành trình khám phá, chinh phục và sáng tạo cái mới. Có còn gì chăng nếu mùa thu muôn đời vẫn thế trong thơ? Cảm quan nghệ sĩ tạo nên sự khác biệt mới lạ trong cách cảm nhận, thể hiện so với các nhà thơ khác và mỗi người lại phải cố gắng không giẫm lên dấu chân người khác và không lặp lại chính mình. Nhờ thế ba bài thơ, ba vẻ đẹp riêng, ba sức hấp dẫn riếng sống mãi. Phải chăng như Nguyễn Tuân phát biểu: “Thơ là mở ra một cái gì mà trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó như là vẫn phong kín”. Mới về nội dung, mới về cảm xúc và mới về nghệ thuật biểu hiện nữa. Bởi như L.Lêônôp đã nói: “Mỗi tác phẩm văn học phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”. Vẫn là cảnh ấy, tình ấy nhưng ở mỗi bài thơ, Nguyễn Khuyến đã tìm cho mình hệ thống phương tiện ngôn ngữ riêng. Câu chữ thay đổi, nét nghĩa cơ hồ cũng khác trước. Bài thơ, câu thơ không lặp lại. Những lớp nghĩa, những tầng nghĩa khép mở, đổi thay trong hình thức ngôn từ. Có bao nhiêu tinh hoa của ngôn ngữ tiếng Việt trong sáng, biểu cảm, Nguyến Khuyến đã dành trọn để thể hiện làng quê. Câu chữ bình dị mà trong sáng, hình ảnh gần gũi mà giàu sức gợi, sức cảm. Nội dung, hình thức thống nhất, quyện hoà, bình và rượu thống nhất, hoà hợp, đan xen, tạo nên sức hấp dẫn thu hút người đọc vào hành trình bất tận.
Vẻ đẹp chắt lọc từ cuộc đời, tình cảm chân thành mãnh liệt vút lên từ trái tim cùng với sự sáng tạo, đổi mới không ngừng trong cảm nhận và biểu hiện vẻ đẹp của cảnh thu, tình thu đã làm nên sức hấp dẫn không gì cưỡng lại nổi của ba bài thơ thu. Phải chăng đó cũng là yêu cầu đặt ra với bất kì một tác phẩm văn học đích thực nào? Vẻ đẹp cuộc đời sẽ nuôi dưỡng, bồi đắp nguồn chất liệu xây nên tác phẩm, tạo nên niềm xúc cảm chân thành, mãnh liệt mà cô đọng, mà tinh lọc nên trang văn. Nhưng hơn hết, sự sáng tạo là không ngừng nghỉ. “ Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những gì chưa có”. Một tác phẩm như thế tất sẽ tạo nên một lực để nâng nó lên trên mọi dập vùi của định kiến.
Tác phẩm văn học thực sự có giá trị khi nó nói thật, nói chân thành, xúc động và nhất là nói hay về một vẻ đẹp, một cảnh, một tình. Sự đòi hỏi của văn chương là nghiệt ngã, là khắt khe. Chẳng thế mà Nguyễn Bính từng phải kêu lên:
Ai bảo dính vào duyên bút mực
Suốt đời mang lấy số long đong.