[Văn 7] Soạn bài "Quan Âm Thị Kính".

H

hiemcokhotim_love

bạn ơi muốn hỏi câu mấy vậy
Mỳnk soạn hết ùi nè chỷ có điều k bjk có đúng hem thui :D
 
Q

quochoang17

Trừ câu số 1 cậu soạn giúp mình các câu còn lại nha.
 
Last edited by a moderator:
M

myy_1207

Đây

Câu 2
. Đọc kĩ trích đoạn Nỗi oan hại chồng và các chú thích để hiểu văn bản.
@-)@-)@-)
Câu 3. Trích đoạn Nỗi oan hại chồng có năm nhân vật : Thiện Sĩ, Thị Kính, Sùng ông, Sùng bà, Mãng ông. Tất cả các nhân vật đều tham gia vào quá trình tạo nên xung đột kịch. Nhưng có hai nhân vật chính thể hiện xung đột cơ bản là Sùng bà và Thị Kính. Sùng bà thuộc loại nhân vật mụ ác, Thị Kính thuộc loại nhân vật nữ chính trong chèo. Sùng bà là đại diện cho tầng lớp địa chủ phong kiến, Thị Kính là đại diện cho người phữ lao động, người dân thường.
>:D< >:D< >:D<
Câu 4. ¬ Khung cảnh ở phần đầu đoạn trích là cảnh sinh hoạt gia đình ấm cúng, tuy không phổ biến và gần gũi với nhân dân như cảnh « chồng cày vợ cấy », « thiếp nó chàng tơi » nhưng cũng là hình ảnh ước mơ về hạnh phúc gia đình của nhân dân. ¬ Trong khung cảnh ấy, nổi bật lên hình ảnh người vợ thương chồng. Những cử chỉ của Thị Kính đối với chồng rất ân cần, dịu dàng (khi chồng ngủ, dọn lại kỉ vật rồi quạt cho chồng, thấy râu mọc ngượi dưới cằm chồng thì băn khoăn lo lắng về sự dị hình chẳng lành). Những cử chỉ ấy cùng ngôn ngữ độc thoại cho thấy tình cảm của Thị Kính đối với chồng rất chân thật, tự nhiên.
:)&gt;-:)&gt;-:)&gt;-
Câu 5. ¬ Hành động của Sùng bà : dúi đầu Thị Kính xuống, bắt Thị Kính ngửa mặt lên, không cho Thị Kính phân bua, dúi tay đẩy Thị Kính ngã khuỵu xuống… Đó là những hành động rất tàn nhẫn và thô bạo. ¬ Ngôn ngữ của Sùng bà : toàn những lời đay nghiến, mắng nhiếc, xỉ va. Mụ khăng khăng buộc tội Thị Kính « lẳng lơ », « trót say hoa đắm nguyệt », « trên dâu dưới Bọc hẹn hò », « gái say trai lập chí giết chồng », thiếu « tam tòng tứ đức », « con gái nỏ mồm », dối trá, phản phúc… Mỗi lần mụ mở miệng, Thị KÍnh lại thêm một tội. Cách xưng hô thì thật quá quắt : « tuồng bay », « cái con này », « con kia », « mày »… Trong lời lẽ của mụ, có ý phân biệt sang hèn rất rõ. Nói về mình thì « giống bà đây giống phượng giống công », « nhà bà đây cao môn lệnh tộc », « trứng rồng lại nở ra rồng »… Còn nói về Thị Kính thì toàn những lời miệt thị, khinh bi : « Tuồng bay mèo mả gà đồng », « mày là con nhà cua ốc », « liu điu lại nở ra dòng liu điu », « Đồng nát thì về Cầu Nôm »… Những lời ấy không chỉ biểu hiện xung đột mẹ chồng – nàng dâu, mà còn bộc lộ xung đột giai cấp. Ta nhận ra ở đây thái độ trấn áp tàn nhẫn phũ phàng và giọng điệu của bọn nhà giàu khinh bị người nghèo khó. Thị Kính đức hạnh vẫn không được gia đình chồng chấp nhận là bởi cái nguồn gốc bình dân của nàng. Trong xã hội phong kiến, mâu thuẫn giai cấp đã chi phối sâu sắc vấn đề hôn nhân gia đình
:p:p:p
Câu 6. Trong trích đoạn, Thị Kính kêu oan năm lần. Trong đó có bốn lần kêu oan với mẹ chồng và chồng nhưng vô ích : Thiện Sĩ bỏ mặt vợ, Sùng bà càng nghe càng giận. Thị Kính càng kêu oan, nỗi oan càng dày. Chỉ đến lần cuối cùng, kêu oan với cha (Mãng ông), Thị Kính mới nhận được sự cảm thông. Nhưng đó chỉ là sự cảm thông đau khổ và bất lực. Người cha già nghèo hèn ấy không thể giúp gì cho con gái của mình.
:p:p:p
Câu 7. Trước khi đuổi Thị Kính ra khỏi nhà, Sùng bà và Sùng ông đã làm những việc rất tàn ác, nhẫn tâm : ¬ Lừa Mãng ông sang ăn cữ cháu ngoại, kì thực là bắt Mãng ông sang nhận con gái về. Thế mới có dịp để bắt hai cha con Mãng ông chịu nhục ngã ê chề. ¬ Trong lúc Mãng ông hoang mang ngơ ngác không rõ đầu đuôi câu chuyện, Sùng ông rất thô bạo dúi ngã Mãng ông rồi bỏ vào nhà. • Xung đột kịch thể hiện cao nhất ở cảnh Mãng ông bị dúi ngã, Thị Kính chạy vội lại đỡ cha và hai cha con ôm nhau than khóc. Thị Kính bị đẩy đến tột cùng của nỗi đau : nỗi đau oan ưc, nỗi đau tình chồng tan vỡ, nỗi đau chứng kiến cảnh người cha già bị khinh khi, hành hạ. Hình ảnh hai cha con than khóc là biểu tượng của những người đau khổ, nhỏ bé và bất lực, phải cam chịu oan ức.
:D:D:D
Câu 8. Thị Kính rời khỏi nhà chồng là không nỡ xa chồng. (Thị Kính đi theo cha mấy bước nữa, rồi dừng lại và thở than, quay vào nhìn từ cái kỉ đến sách, thúng khâu, rồi cầm lấy chiếc ao đang khâu dở, bóp chặt trong tay). Những cử chỉ ấy nói lên tâm trạng lưu luyến và đau khổ khi phải xa chồng. Bị oan ức, tình cảm của Thị Kính đối với chồng vẫn đằm thắm thủy chung. Và chính vì vậy mà nàng càng đau đớn. Trong những lời độc thoại bộc bạch tâm trạng của Thị Kính, ta thấy rõ tâm trạng nàng bị giằng xé giữa quá khứ hạnh phúc vợ chồng và hiện tại tan vỡ, chia lìa. Ta thấy hình ảnh một người phụ nữ bơ vơ đau khổ bất hạnh ấy, vẫn lấp lánh ước muốn được sống ở đời để « tỏ rõ người đoan chính ». Việc Thị Kính quyến tâm « trá hình nam tử bước đi tu hành » có ý nghĩa như một con đường giải thoát. Mặt tích cực của nó chính là cái ước muốn được sống tốt đẹp nói trên. Nhưng nó cũng có mặt tiêu cực : Thị Kính cho rằng mình khổ vì do số kiếp, do duyên phận nên tìm vào cửa Phật để tu hành. Đó không phải là con đường để thoát khỏi đau khổ trong xã hội cũ. Đó chỉ là một sự nhẫn nhục cam chịu chứ không phải là hành động đấu tranh.
 
T

thuongkute2306

Có ai soạn bài Quan Âm Thị Kính chưa, giúp tớ với, thứ tư mình học rồi.

Em chú ý cách đặt tên tiêu đề + viết bài có dấu.

1. Đọc kĩ phần tóm tắt để hiểu nội dung của cả vở chèo.
2. Đọc kĩ đoạn trích và các chú thích để hiểu văn bản và các từ ngữ khó, các từ cổ hiện ít dùng.
3. Đoạn trích Nỗi oan hại chồng có năm nhân vật: Thị Kính, Thiện Sĩ, Sùng ông, Sùng bà, Mãng ông. Cả năm nhân vật đều tham gia vào quá trình tạo nên xung đột kịch, trong đó Thị Kính và Sùng bà là hai nhân vật chính, thể hiện xung đột cơ bản của vở chèo:
- Sùng bà thuộc kiểu nhân vật mụ ác, đại diện cho giai cấp thống trị, thuộc tầng lớp địa chủ phong kiến.
- Thị Kính thuộc loại nhân vật nữ chính (mụ ác và nữ chính là hai loại nhân vật rất tiêu biểu, thường xuất hiện trong chèo). Thị Kính tiêu biểu cho người dân thường, nhất là cho người phụ nữ vốn phải chịu nhiều thua thiệt trong xã hội cũ.
4. Thị Kính vốn được sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo nhưng lại về làm dâu nhà Thiện Sĩ, một gia đình địa chủ. Bởi vậy, cảnh sinh hoạt ở đầu đoạn trích không thật quen thuộc, gần gũi với cuộc sống của nhân dân lúc bấy giờ. Mặc dù vậy, cảnh Thị Kính ngồi khâu, Thiện Sĩ đọc sách,... vẫn gợi lên một bầu không khí thật đầm ấm, hạnh phúc.
Nổi bật lên trong đoạn này là hình ảnh Thị Kính, người phụ nữ hết lòng thương yêu chồng. Khi chồng ngủ, Thị Kính đã dọn lại kỉ rồi quạt cho chồng. Cũng vì yêu chồng mà khi Thiện Sĩ đã ngủ, Thị Kính chăm chú nhìn và phát hiện ra một chiếc râu mọc ngược. Với suy nghĩ rất bình thường, giản dị "Trước đẹp mặt chồng, sau đẹp mặt ta" (nhân dân ta còn có câu "Xấu chàng hổ ai" cũng có nghĩa tương tự), Thị Kính đã toan lấy dao khâu xén chiếc râu đó đi. Những suy nghĩ và hành động của Thị Kính rất tự nhiên, thể hiện những tình cảm rất nồng nàn và chân thực của người phụ nữ yêu chồng.
5. Cả trong hành động và ngôn ngữ, Sùng bà đều chứng tỏ là một kẻ tàn nhẫn, độc ác, không những thế lại còn coi thường những người lao động nghèo khổ.
- Về hành động: Sùng bà dúi đầu Thị Kính xuống, bắt Thị Kính phải ngửa mặt lên (một kiểu hạ nhục người khác). Sùng bà không cho Thị Kính được phân bua, thanh minh cho mình, dúi tay đẩy Thị Kính ngã khuỵu xuống, nhất quyết trả Thị Kính về cho gia đình.
- Về ngôn ngữ: Sùng bà đay nghiến, mắng nhiếc Thị Kính thậm tệ. Điều quan trọng nhất là cách mắng chửi của Sùng bà đối với Thị Kính không phải là lời mắng của mẹ đối với con, cũng không phải là của một bà mẹ chồng đối với con dâu của mình.
Lời lẽ, hành động của Sùng bà chứng tỏ mụ là người tàn nhẫn và độc ác, không những thế lại còn hợm hĩnh, tự coi mình là tầng lớp trên, dẫn đến coi thường những người khác, nhất là những người lao động. Điều đó cho thấy Sùng bà tức giận, chửi mắng Thị Kính thậm tệ không hẳn vì nghĩ rằng Thị Kính có ý làm hại con mụ mà vì sự chênh lệch đẳng cấp xã hội giữa hai gia đình. Thị Kính là con nhà nghèo mà lại dám bước vào, hơn thế nữa lại là nàng dâu, trở thành người trong gia đình mụ.
6. Trước nỗi oan khuất, Thị Kính không biết làm gì khác, chỉ một mực kêu oan. Thị Kính đã kêu oan đến năm lần. Bốn lần trước là hướng đến mẹ chồng và chồng ("Oan con lắm mẹ ơi!"; "Oan thiếp lắm chàng ơi!"). Cả bốn lần, lời kêu oan của Thị Kính chỉ như đổ thêm dầu vào lửa, bởi Thiện Sĩ chỉ là một kẻ bạc nhược, đớn hèn, còn Sùng bà thì hiển nhiên không muốn chấp nhận Thị Kính là dâu con trong nhà. Chỉ đến lần thứ năm, lời kêu oan của Thị Kính mới nhận được sự cảm thông, nhưng đó lại chỉ là của Mãng ông: "Oan cho con lắm à?". Một sự cảm thông đau khổ và bất lực. Mãng ông biết con gái bị oan nhưng chỉ là một người nông dân nghèo, không có vị thế trong xã hội, ông không thể làm gì để giúp đỡ con gái.
7. Sùng ông, Sùng bà thật là những kẻ độc ác đến tàn nhẫn. Đuổi Thị Kính ra khỏi nhà chưa thoả, trước khi đuổi, chúng còn bày ra một màn kịch độc ác nhằm làm cho họ phải nhục nhã ê chề. Sùng ông gọi Mãng ông sang để nhận con gái về, lại nói: Ông Mãng ơi, ông sang mà ăn cữ cháu!Mãng ông tưởng thật, đang nói giọng hoan hỉ thì bị giội ngay gáo nước lạnh: "Đây này! Đang nửa đêm nó cầm dao giết chồng đây này!". Không những thế, Sùng ông còn thẳng thừng cự tuyệt quan hệ thông gia với Mãng ông bằng cách dúi ngã Mãng ông rồi bỏ vào nhà.
Xung đột kịch đã được đẩy đến mức cao nhất: Thị Kính không những bị đẩy vào cảnh tan vỡ hạnh phúc vợ chồng, bị chửi mắng, hành hạ còn phải chứng kiến cảnh người cha già yếu bị chính bố chồng làm cho nhục nhã, khổ sở.
Hình ảnh hai cha con ôm nhau khóc là hình ảnh của những người chịu oan, đau khổ mà hoàn toàn bất lực. Đó là bi kịch điển hình của những người dân nghèo, nhất là những người phụ nữ nông thôn trong xã hội cũ.
8. Khi Mãng ông bảo Thị Kính về theo mình, Thị Kính đi theo cha mấy bước nữa, rồi dừng lại, quay vào nhìn từ cái kỉ đến sách, thúng khâu, rồi cầm lấy chiếc áo đang khâu dở, bóp chặt trong tay.
Cử chỉ và lời hát của Thị Kính thể hiện rất nhiều ý nghĩa:
Thương ôi! Bấy lâu sắt cầm tịnh hảo
Bỗng ai làm chăn gối lẻ loi
Những cặp từ ngữ đối lập bấy lâu – bỗng; sắt cầm – chăn gối lẻ loi,... với sắc thái ý nghĩa đối lập đã diễn tả hai trạng thái trái ngược nhau được chuyển đổi rất đột ngột. Từ cảnh "sắt cầm tịnh hảo" (ý nói tình vợ chồng hoà hợp đầm ấm) đến cảnh "chăn gối lẻ loi" (vợ chồng chia lìa) chỉ là trong phút chốc. Bên này là hạnh phúc, bên kia là cảnh chia lìa. Bị đẩy ra khỏi thế giới quen thuộc, người phụ nữ bỗng hoá bơ vơ giữa cái vô định của cuộc đời.
S.T​
 
Top Bottom