Tác phẩm Vợ nhặt - Kim Lân

D

dtb_lg2

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

1. Tác giả:
Kim Lân, tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920. Quê quán: Phù Lưu, Từ Sơn, Hà Bắc. Sở trường về truyện ngắn. Thế giới nghệ thuật của ông là xóm làng quê với người dân cày Việt Nam. Viết rất hay về những thú chơi dân dã đồng quê như chọi gà, thả diều, nuôi bồ câu, chơi núi non bộ,… mà ông gọi là thú “phong lưu đồng ruộng”.
Tác phẩm, 2 tập truyện ngắn: “Nên vợ nên chồng” (1955) và “Con chó xấu xí” (1962).
2. Xuất xứ
“Vợ nhặt” có tiền thân là truyện “Xóm ngụ cư” - viết ngay sau Cách mạng tháng Tám. Bản thảo chưa in, 1954 viết lại.
3. Chủ đề
Qua câu chuyện anh cu Tràng nhặt được vợ, tác giả nói lên niềm cảm thông và trân trọng hạnh phúc muộn mằn và niềm hy vọng về một sự đổi đời của người nông dân năm đói Ất Dậu.
4. Tóm tắt:
Cụ Tràng ở xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe bò chở thuê. Đã nhiều tuổi, thô kệch, có tính vừa đi vừa nói lảm nhảm như kẻ dở hơi. Bà cụ Tứ mẹ hắn nghèo khổ. Hai mẹ con ở trong một mái nhà tranh vắng teo, rúm ró. Trận đói kinh khủng đang diễn ra, người chết đói như ngả rạ. Một lần kéo xe thóc Liên đoàn lên tỉnh, hắn hò một câu vượt dốc rất tình. Một cô gái ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, liếc mắt cười tít. Lần thứ hai, Tráng gặp lại thị, trông khác hẳn, thị gầy sọp hẳn đi, áo quần tả tơi như tổ đỉa. Một vài câu trách móc, mời chào, thị ăn một chập 4 bát bánh đúc do Tráng đãi. Mua một cái thúng và 2 hào dầu, Tráng dẫn thị về nhà ra mắt mẹ. Xóm ngụ cư ngạc nhiên khi thấy một người đàn bà xa lạ đi theo Tráng họ bàn tán, có phần lo ngại. Trong nhá nhem tối, bà cụ Tứ gặp và nói chuyện với nàng dâu mới. Lần đầu nhà Tráng có dầu thắp đèn… Tiếng ai hờ khóc người chết đói ngoài xóm lọt vào. Sáng hôm sau, bà mẹ chồng và nàng dâu mới quét dọn trong nhà ngoài sân. Bữa cơm – cháo cám – đón nàng dâu mới. Bà cụ Tứ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu, nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này. Lại một buổi sáng. Tiếng trống thúc thuế dồn dập. Quạ đen bay vù như mây đen. Thị nói về chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật. Tráng nhớ lại lá cờ đỏ bay phấp phới hôm nào…
 
T

tran_xuan_son

liệu năm nay theo các bạn dự đoán có ra tác phẩm vợ nhặt không.chỉ còn 2 ngày nưa là thi rồi tớ chả biết phải học gì đây có ai giúp tớ được không
 
N

ngocmai89

học tất cả những j đã đc học ở cấp 3 í.sắp thi rùi mà tinh thần hoang mang thế là chưa ổn đâu.hãy bình tĩnh,ko việc j fải cuống lên.tui đã từng trải wa nên tui bít.cũg sắp đến ngày thi rùi,bạn nên nghỉ ngơi,lấy lại tinh thần đi.chúc bạn thi tốt trong kì thi sắp tới.
 
T

thanhthuytu

Hiểu thêm về Vợ Nhặt của Kim Lân

"“Cái đói” là nỗi lo lắng của con người ở tất cả mọi dân tộc và mọi thời đại. Cho nên đó là một đề tài cũng thuộc về bản chất của đời sống. Các nhà văn viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và bất lực của con người trước nó. Con người phạm tội và làm đủ chuyện dại dột khác chỉ vì đói. Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những người đói dù thế nào đi nữa vẫn luôn luôn khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai. Cái “mơ hồ” ấy là do cuộc sống thực tại luôn hành hạ họ."...

Thưa nhà văn, dịch đói năm 1944 -1945 đã cướp đi rất nhiều sinh mạng của đồng bào ta. Ở các vùng nông thôn Bắc Bộ, hầu như gia đình nào cũng có người chết đói, anh em, vợ chồng, cha mẹ, con cái ly tán khắp nơi. Sự sống của mỗi người bị cái đói đe dọa từng ngày. Trong bối cảnh xã hội đó, truyện Vợ nhặt lại được viết ra thì thật lạ. Một cuộc sống vợ chồng, một nguồn sống cho một mầm sống tương lai tại sao lại được bắt đầu ảm đạm và phấp phỏng như thế?
Nhà văn Kim Lân: Dịch đói dạo đó thật khủng khiếp. Nhiều gia đình vừa có người chết đói, vừa có người bỏ đi, dần dần mất hẳn. Tôi tận mắt chứng kiến người chết đói nằm rải rác ở khắp nơi. Khi con người vị đẩy đến bờ vực cuối cùng của cuộc sống thì toàn bộ số phận và tính cách con người họ sẽ biểu lộ ra. Chết đói là một thực tế khốc liệt. Đó là cái chết từ từ, hao mòn dần, quằn quại dần. Tôi được biết nhiều chuyện qua những năm tháng đó. Cái đói hành hạ tất cả mọi người nhưng không át được sức sống đơn sơ của tâm hồn họ. Có những người đói ngày ngày bới rác tìm một mẩu thức ăn thừa, buổi tối họ lại về nằm cạnh nhau bàn tán về chuyện làng quê, chuyện mùa màng. Có người giữ nề nếp rất nghiêm dù đói khát, con cái đi xin mang phần về cho, ông ta vẫn áo the, đội khăn xếp ngồi giữa nhà để ăn. Có người đói xô vào cướp cám để ăn, bị đánh cũng chịu không đánh lại, họ biết rằng chuyện cướp cám của họ là sai nhưng họ vẫn phải làm vì đói. Nói tóm lại, bi kịch sống của mọi người vào thời điểm đó hầu như giống nhau: Đói. Nó vừa cay đắng, vừa đớn đau, đồng thời một mặt nào đó nó lại lóe lên những tia sáng về đạo đức, danh dự. Truyện Vợ nhặt khai thác khía cạnh sau cùng của cái bi kịch ấy.

Cái đói là đề tài của rất nhiều nhà văn. Cái đói trong Vợ nhặt có khác gì những cái đói khác mà các nhà văn thường mô tả?
Nhà văn Kim Lân: “Cái đói” là nỗi lo lắng của con người ở tất cả mọi dân tộc và mọi thời đại. Cho nên đó là một đề tài cũng thuộc về bản chất của đời sống. Các nhà văn viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và bất lực của con người trước nó. Con người phạm tội và làm đủ chuyện dại dột khác chỉ vì đói. Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những người đói dù thế nào đi nữa vẫn luôn luôn khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai. Cái “mơ hồ” ấy là do cuộc sống thực tại luôn hành hạ họ.

Truyện ngắn Vợ nhặt được viết từ một tình huống có thật trong cuộc sống?
Nhà văn Kim Lân: Ban đầu tôi viết một truyện dài có tên là Xóm ngụ cư. Tôi viết đến chương thứ V thì dừng lại. Sau khi hòa bình lập lại, tôi và Nguyên Hồng làm tờ báo Văn. Trong bản thảo Xóm ngụ cư có một đoạn luôn ám ảnh tôi là đoạn viết về những người đói, về những buổi sáng ở vùng quê người ta phải ra chợ nhặt xác người đi chôn. Tôi viết lại chương đó thành truyện ngắn Vợ nhặt mà không đọc lại bản thảo cũ. Chuyện Vợ nhặt hoàn toàn không có thực mà do tôi sáng tạo ra. Không thể có một bà mẹ như thế, một cô con dâu như thế trong đời sống thực. Tôi muốn phân tích tâm trạng và thân phận của con người trong cái hoàn cảnh cùng đường ấy, nơi cuộc sống dường như không còn lối thoát. Tôi muốn hướng họ vào sự sống, sự thương yêu nhau, không phải là sự giành giật nhau. Hoàn cảnh đặc biệt quá nên câu chuyện là lạ đó lại được hiện ra với vẻ chân thật. Vợ nhặt được rút ra từ tạp Con chó xấu xí, sau khi in ở tờ tuần báo Văn. Bối cảnh của truyện là khi cái đói hoành hành khắp nơi. Nhưng các nhân vật của truyện thì đứng ở ngưỡng cửa của cái đói. Nơi ngưỡng cửa khốn khổ đó, họ sẽ chứng tỏ số phận và tính cách của mình, đồng thời ở nơi đó họ sẽ bắt đầu một niềm tin mới, một niềm hạnh phúc mới, dù là rất mong manh.

Dân ngụ cư là dân đi ở đợ, không phải dân gốc nên thiệt thòi đủ thứ. Mở đầu truyện là mẩu hồi ức “Trước kia mỗi chiều” có vẻ yên ả nhưng cái hồi ức này quá ngắn, trôi qua quá nhanh. Hiện tại là cảnh đói khát ủ rũ, cảnh những người ăn xin “xanh xám như bóng ma”, cảnh thây người chết “nằm cong queo bên đường”. Vậy mà buổi chiều anh Tràng trở về với một vẻ mặt có “vẻ gì phởn phơ khác thường”, một nụ cười tủm tỉm và “hai mắt thì sáng lên lấp lánh”, bên cạnh lại có người đàn bà rón rén e thẹn. Đấy là một sự kiện quá ư lạ lùng giữa lúc người ta chỉ nghĩ đến sự sống – chết. Tràng khi đó có ý thức được việc mình làm?
Nhà văn Kim Lân: Tràng là anh chàng kéo xe bò thuê, công việc bấp bênh. Trong thời buổi bấy giờ, hẳn Tràng chẳng dám nghĩ đến chuyện lấy vợ, vì thủ tục cưới cheo hồi đó rườm rà, tốn kém lắm. Vậy mà tự dưng anh chàng lại “nhặt” được vợ. Sự kiện nhặt vợ quá buồn cười. Chỉ là một câu đùa, ai cũng biết là đùa, vậy mà cô kia cũng theo. Điều đó chứng tỏ cô ta cùng đường và sẵn sàng xông vào, bấu víu vào bất cứ cái gì có thể bấu víu được. Còn Tràng, tại sao lại dẫn cô ta về? Vì Tràng là một người nông cạn, không biết tính toán như người khác, cũng không ý thức được về hoàn cảnh của mình. Anh ta chỉ chậc lưỡi, theo đúng cách của một người hay “ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch”. Đến lúc về tới xóm, trước ánh mắt, thái độ của dân xóm, Tràng mới kịp nhận ra sự thay đổi trong cuộc sống của mình. Anh ta chỉ cảm nhận sự thay đổi, còn ý nghĩa của nó như thế nào thì anh ta chưa thể hiểu.

Nhưng nhân vật thứ hai, người đàn bà thì hẳn hiểu hoàn cảnh của mình?
Nhà văn Kim Lân: Thị đã ở bờ vực. Số phận thị đã rõ ràng và thị hiểu được điều ấy. Cho nên thị đi bên Tràng mà đầu cúi xuống, chiếc nón rách “nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Thị mặc cảm, gần như nỗi mặc cảm của người nhận lời bán mình trước sự chứng kiến của nhiều người khác. Chính thế nên khi đám trẻ con mới đùa một câu thị đã tỏ vẻ khó chịu.
 
Last edited by a moderator:
T

thanhthuytu

Tại sao việc Tràng và người đàn bà ngang qua xóm ngụ cư lại khiến cho những “khuôn mặt hốc hác u tối” từ những hiên nhà xác xơ đột nhiên “rạng rỡ hẳn lên”? Sự xuất hiện của Tràng và người vợ như thể thổi vào cuộc sống tăm tối tuyệt vọng của họ một luồng sinh khí tươi mát?
Nhà văn Kim Lân: Trước kia, chiều nào Tràng cũng đi về qua xóm, nhưng hình ảnh đơn độc của Tràng không gây ra bất kỳ một xao động nào trong đời sống của cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy. Sự biến đổi chốc lát như thế phụ thuộc vào hình ảnh người đàn bà bên Tràng. Mọi người bàn tán và cũng đôi phần đoán ra được câu chuyện của Tràng. Họ đoán được bằng chính hoàn cảnh của họ. Việc lấy vợ lấy chồng luôn là một niềm vui và quan trọng, nó chuẩn bị cho một cuộc sống khác, cuộc sống tương lai của đứa con. Nhìn Tràng và người đàn bà, bất chợt họ cũng mơ hồ nghĩ đến tương lai của chính họ. Tràng đã khiến họ tin vào cuộc sống thêm một chút. Nếu họ ý thức được niềm vui của mình trong giấy lát đó, họ sẽ nghĩ rằng “Đó, anh ta không những còn sống mà còn nuôi thêm được một người nữa trong hoàn cảnh này”. Nhưng niềm vui trôi qua rất nhanh. Một tiếng “ôi chao” và lời than thở đưa họ về thực tại cuộc sống đói khát, cùng quẫn, “họ nín lặng”.

Chuyện Tràng “nhặt” vợ là một sự lạ, nhưng mọi người như thể thừa nhận điều đó một cách dễ dàng?
Nhà văn Kim Lân: Sự kiện đó chỉ gây ra sự tò mò một chút ban đầu thôi. Do hoàn cảnh khắc nghiệt của đời sống, mọi người không còn đủ sức để nhận ra điều đó là ngược đời. Và nó còn được dùng như một cái thước đo vô hình, kiểm lại cuộc sống hiện tại của họ. Nhưng câu chuyện của Tràng nhanh chóng không còn được bàn tán nữa khi họ “cùng nín lặng” hiểu ra số phận khắc nghiệt đang treo lơ lửng trên đầu họ.

Khi người ta nhìn vào, bàn tán về mình, Tràng biết thế và lấy làm “thích ý” lắm, và hắn vênh vênh “tự đắc với mình”. Có lẽ đến lúc này Tràng mới hiểu rằng hành động của mình pha chút “anh hùng”, “kiêu bạc” trong cuộc sống khó khăn hiện tại. Nhưng khi đi hết xóm ngụ cư thì Tràng lại đâm ra lo sợ, Tràng sợ vì nuôi mình không đủ lại phải “đèo bòng” thêm một người nữa ư?
Nhà văn Kim Lân: Tràng không có nỗi sợ đó. Nỗi sợ của Tràng là nỗi sợ phải “một mình” đối diện với người đàn bà. Khi đi từ chợ tỉnh về, ngang qua xóm ngụ cư, những ánh mắt, tiếng cười của người khác đã làm cho Tràng bớt cảm thấy sự có mặt của người đàn bà. Nhưng khi còn hai người ở “con đường sâu thăm thẳm” vắng vẻ thì rõ ràng người đàn bà kia là toàn bộ cuộc sống bên ngoài đối với Tràng, Tràng phải tìm hiểu nó. Tràng ý thức đầy đủ sự có mặt của thị là dành cho Tràng. “Hắn định nói với thị một vài câu rõ tình tứ mà chẳng biết nói thế nào. Hắn cứ lúng ta lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai kia”. Tại sao vậy? Tại vì thực sự người đàn bà đi bên cạnh Tràng còn hoàn toàn xa lạ với Tràng.

Tại sao khi không cảm thấy mà Tràng lại cảm thấy như thế?
Nhà văn Kim Lân: Tôi có chủ ý không tả tâm trạng của người đàn bà khi đó. Nếu tả kỹ quá thị sẽ mất đi sự “xa lạ” không phù hợp với hoàn cảnh của câu chuyện. Sự yên lặng và xa lạ của thị khiến cho không gian như đọng lại và cho Tràng cảm thấy thị ở thật gần mình. Điều này khiến Tràng đột nhiên “hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày”. Tràng khi đó cõ lẽ quên tất cả, không phải với vẻ bất cần mà là do hình ảnh thị đã dần xâm nhập và chiếm trọn cõi lòng của Tràng. Ở người “đàn ông nghèo khổ” này cuộc sống đột nhiên “mới mẻ” và lạ lùng. Đó là cảm giác có thật, nó “mơn man khắp da thịt”. Có một điều thật ý nghĩa đang diễn ra với Tràng “Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên”.

Nhưng tên, hoàn cảnh, quê quán, cha mẹ thị Tràng đều chưa biết. Người đọc có cảm giác là “tình nghĩa” của Tràng đối với người đàn bà là không thật?
Nhà văn Kim Lân: Người Việt rất coi trọng tình nghĩa, tuy nhiên để có tình nghĩa người ta cần phải có thời gian để thấu hiểu nhau. Đặt trong hoàn cảnh khốn khó lúc bấy giờ, khi mỗi người cần đến sự giúp đỡ nhiều hơn của người khác cả về vật chất lẫn tinh thần, thì Tràng là cái phao cuối cùng, là tất cả hy vọng của người đàn bà. Vậy cái nghĩa của Tràng là sự gắn kết giữa con người với con người trong một hoàn cảnh cấp bách. Hơn nữa đó còn là “nghĩa” của một người đàn ông nghèo không đủ khả năng lấy vợ bỗng dưng được một người đàn bà “ưng thuận về không” làm vợ. Và khi cảm thấy có “tình nghĩa” với người đàn bà thì sự đối diện của Tràng với chị ra không còn đáng sợ nữa.

Hoàn cảnh đã xô đẩy người đàn bà đến với Tràng. Vậy giữa họ liệu có tình cảm thực sự không?
Nhà văn Kim Lân:
Sao lại không? Câu chuyện giữa hai người diễn ra như bất cứ với cặp tình nhân nào. Ban đầu là bắt chuyện vu vơ, rồi trêu chọc nhau. Khi câu chuyện ra chiều “thân thân”, người đàn bà đã “tủm tỉm” cười, phá đi vẻ mặt cau có, ngượng ngập. Chị ta bắt đầu quen với hoàn cảnh mới. Và khi Tràng đùa “vợ mới vợ miếc” và cười cợt, thị đã “phát đánh đét” vào lưng hắn. Đây là cử chỉ “tỏ tình” của thị đối với ân nhân, nó đầy âu yếm và cũng đáng yêu. Nó làm cho Tràng hạnh phúc. Anh chàng “thích chí ngửa cổ cười khanh khách”. Cuộc sống thường nhật khổ khốn bị quên lãng. Với Tràng, thị là người đàn bà thứ hai sau mẹ anh yêu thương và cần đến anh. Yêu thương có thể chưa rõ nhưng cần thì đã rõ. Anh ta hớn hở vì điều đó. Riêng với người đàn bà, hiểu hoàn cảnh mình nên cử chỉ “tỏ tình” trên kia vừa hàm chứa sự biết ơn vừa tỏ thái độ ưng thuận.

Một lần nữa sự khắc nghiệt của cuộc sống phá tan niềm vui mong manh của hai người, tiếng chó sủa váng lên làm Tràng thẹn thùng và xấu hổ, như thể có ai đó nhòm vào hạnh phúc của anh. Hình như Tràng hiểu ra rằng anh ta đang xây dựng hạnh phúc của mình trên nền tảng một cuộc sống thật bất trắc và khốn đốn?
Nhà văn Kim Lân:
Đúng là anh ta có cảm giác đó. Anh ta phải xua cái cảm giác đó đi bằng cách “nhặt một hòn gạch vung tay ném mạnh một cái”, như thể ném thẳng vào những thách thức đau đớn của cuộc sống. Tràng cảm thấy có lỗi đối với người đàn bà kia về chuyện không đủ tiền cưới xin, lỗi vì chưa xin phép mẹ, lỗi cả chuyện hoàn cảnh gia đình khốn đốn khó có thể cưu mang được thêm người nữa. Nhưng “ý nghĩ” này của Tràng chứng tỏ Tràng đã có nhiều tình cảm với thị lắm. Cái mặc cảm ấy bây giờ mới nhận ra khiến Tràng thốt lên “Mẹ bố ********* cắn gì thế”, “cắn gì thế” khi chỉ có Tràng và thị đi qua. Điểm cần chú ý là tiếng chó sủa ngay trước cổng nhà Tràng, nơi Tràng phải thực sự đối mặt với tất cả những điều Tràng mặc cảm.

Đi đến cổng nhà Tràng người đàn bà nhìn quanh và “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên nén một tiếng thở dài”. Phải chăng thị thất vọng vì sự nghèo túng thái quá mà căn nhà của Tràng đập vào mắt?
Nhà văn Kim Lân: Không hẳn tiếng “thở dài” ấy là bởi nhìn thấy cảnh nghèo túng xác xơ của nhà Tràng. Thị chắc thừa hiểu và đoán được hoàn cảnh của một người đi kéo xe bò thuê. Thị theo về nhưng trong lòng thị vẫn chưa dứt khoát lắm. Thị theo như một sự liều mình. Nhưng khi đặt chân vào ngõ, khi không thể thêm lần thay đổi được tình cảnh, phải thực sự chấp nhận cuộc sống mới dù cuộc sống đó có thế nào đi nữa, thì một tiếng thở dài là không tránh khỏi.
 
H

huongtoingaymai

tác phẩm vợ nhặt thật tuyệt vời ôi! hay quá cảm ơn nhà văn Kim Lân đã cho chúng tôi một tác phẩm tuyệt vời này
 
S

smileup

Mai thi rồi. Mình đoán sẽ vào tác phẩm này vì tác phẩm này khá hay, năm ngoái vào vợ chồng A Phủ năm nay chắc là vợ nhặt thôi.
 
Top Bottom