DownLoad tất cả tác phẩm VH 12

L

leejunki18

Trên chiến trường ngổn nang xác giặc,Việt ngất đi rồi tỉnh lại nhiều lần dù đã kiệt sức,người lính trẻ ấy vẫn sẵn sàng chiến đấu tiếp nếu kẻ thù xuất hiện.Thế ma2khi nghe “ếch nhái kêu dậy lên”,Việt bỗng trở thành chú bé con có “hai cái đèn soi,lóp ngóp đi”cùng chị .”Chiến và Việt ai cũng giành phần nhiều là của mình”,phải nhờ chú Năm “đứng ra phân xử”.Ngay cả lúc nhập ngũ,hai chị em cũng không ai chịu nhường ai đi trước ,chú Năm phải đứng ra “xin trên cứ ghi tên cho cả hai”

Qua một vài điều nói trên ,ta thấy thủ pháp nghệ thuật đồng hiện trong khắc hoạ nhân vật Việt,chủ yếu dựa trên cơ sở của phép liên tưởng ,phép bắc cầu từ sự kiện này sang sự kiện khác,từ chi tiết,nhân vật này sang chi tiết nhân vật kia…Trong sự liên kết đó,dòng hồi tưởng của nhân vật vẫn là sợi dây nối quan trọng nhất.Từ chi tiết anh em trong quân y viện họi anh là cậu Tư , Việt chợt nhớ tới chị Chiến,nhớ tới tiểu đội trưởng Tánh .Anh muốn viết thư cho chị nhưng khó có thể viết được vì hai mắt còn bị băng kín.Thế là Việt nhớ lại lần chị bị trúng bom,nhớ lại trận đánh của chính mình…Việt nhớ lại trong trận đánh,anh đã ngất đi,tỉnh lại ,bỗng nghe thấy tiếng ếch và cùng lúc đó,tuổi thơ,những ngày xa xưa uất hận cùng ùa về trong trí nhớ…Các tình tiết truyện diễn ra rất tự nhiên.Thủ pháp nghệ thuật này ta đã gặp ở truyện “Đôi mắt”của Nam Cao . Ở đó,câu chuyện cũng diễn ra trong hồi tưởng của nhân vật Hộ.Khác chăng là Nam Cao để Hộ xưng “Tôi” và tự kể.Còn ở đây,Nguyễn Thi trực tiếp miêu tả tâm trạng Việt . ông vừa miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật vừa mượn tâm trạng ấy nói lên câu cuyện mình muốn kể . Đây cũng là một lối kể chuyện độc đáo.

Vẫn bằng cách trên,theo lời độc thoại của nhân vật Việt,tác giả lần lượt giớ thiệu và đồng hiện các nhân vật Chiến,chú Nam,ba má Việt,Tánh…Cũng như Việt,Chiến tòng quân ra chiến đấu trong một tiểu đội bộ đội nữ địa phương .Chị đã chiến đấu dũng cảm,coi cái chết cũng chỉ như “chết giấc”, “như ta ngủ vậy’.Chiến chỉ khác ở Việt ở chỗ là người chị cả trong gia đình nên sớm trưởng thành ,biết lo toan,tính toán già dặn hơn lứa tuổi 20 :cô gái 20 xuân này đóng vai trò một người chị với lòng yêu thương ,nhường nhịn ;một người má với nỗi lo tính khôn ngoan mọi mặt ;một người chiến sĩ với tâm hôn khát khao chiến đấu,trả thù.Có tinh thần quyết chiến cao như tên của cô “Quyết Chiến”.Câu nói điển hình của cô với em : “Nếu giặc còn thì tao mất” –và cô đã trở thành tiểu đội trưởng quân địa phương.Chiến có nhiều nét giống mẹ cô (từ tính tình đến lời nói),giống như những người thời chiến phải đương đầu với hoàn cảnh thương đau quyết liệt .Chiến mang hình ảnh của má trong mình nhưng lại khác hơn vì cô đã vươn lên được mạnh mẽ với khẩu súng trong tay.

Chú Năm cũng chỉ là một nhân vật thoáng qua trong dòng tâm tưởng,gợi lên từ một tiếng ếch trên chiến trận đã im tiếng súng …Mỗi lần Việt và Chiến soi ếch về ,chú đều “kiếm con trọng trọng đem về nhậu”.Có hai đoạn văn đẹp như thơ tả đoạn chú Năm “nhậu vào ba hột là chú nói tới”hay “hò lên mấy câu”.Câu hò khiến chú xúc động “đôi mắt mở to, đọng nước”. Đoạn văn khi kể về cuốn sổ gia đình chú ghi,hầu để câu này “giao…chị em cất”.Cuốn sổ lần về quá khứ,lẫn trong hiện tại ,không theo năm tháng. Đó là chứng tích lịch sử được khơi dậy lại ,chép lại bởi cái nhìn đa cảm ,cái yêu,cái ghét của một tư cách Nam Bộ trọng nghĩa ,bộc trực sôi nổi,yêu đời.

Ba má Việt hiện về trong Việt như những kỷ niệm về lòng yêu thương và căm thù .Tình yêu của ba má,con đường của ba và tội ác của giặc khiến chị em Việt không thể lên đường cứu nước.Những đoạn văn này Nguyễn Thi như đồng cảm với nhân vật và viết lên bằng nước mắt . Đọc thấy xúc động cùng nhân vật, đau nỗi đau cùng nhân vật .

Chính nghệ thuật đồng hiện làm cho câu chuyện thảm khốc và hào hùng , đậm đà tính người …tưởng như chập chờn , đứt nối rời rạc…liền lại trong mạch nguồn tâm tưởng khá chặt chẽ .Chặt chẽ nhưng vẫn giữ được cái vẻ bề bộn của tầng tầng lớp lớp chi tiết trong cuộc sống thường và trong chiến trạn hồi chiến tranh .Các mảng sự kiện ,những đoạn đời trong quá khứ và hiện tại như được cố tình đan chéo vào nhau,bổ sung cho nhau một cách hợp lý,làm cho tính cách nhân vật được khắc hoạ rõ nét và chủ đề truyện được bọc lộ khá nổi bật.Lối kết cấu đặc biệt này buộc tác giả phải đi đến tận cùng trong việc phân tích và diễn đạt diễn biến phức tạp nhưng tinh tế của tâm lý nhân vật.Nó cũng đòi hỏi nhà văn phải nhập thân như người trong cuộc ,am hiểu và đồng cảm với nhân vật.Tất cả các điều này,Nguyễn Thi đều vượt qua và thể hiện rất thành công .

Truyện tái hiện hiện thực nóng bỏng của vùng quê rất đỗi thân thương với những người con chân chất hồn nhiên mang quyết tâm cao độ cầm súng trả thù nhà nợ nước,giành lại cuộc sống.Qua các nhân vật ta thấy sức mạnh truyền thống đấu tranh của gia đình ,quê hương,xứ xở. Đồng thời mỗi người lại góp một “khúc sông”xứng đáng vào con sông gia đình kiên cường,tất cả đổ vào ,tạo ra biển cả truyền thống dân tộc
 
L

leejunki18

11.Đất nước-Nguyễn Đình Thi

I. TÁC GIẢ – TÁC PHẨM

- Nguyễn Đình Thi thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp, là một nhà văn, nhà thơ có tên tuổi trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Là một nhà văn đặc sắc, đa dạng trên nhiều lĩnh vực: triết học, âm nhạc, tiểu thuyết, thơ, kịch, lý luận phê bình. Nhiều nhà nghiên cứu văn học cho rằng văn xuôi và tiểu thuyết đã làm nên một Nguyễn Đình Thi, song với thời gian, có lẽ thành công nhất của ông chính là mảng thơ trữ tình viết về con người, đất nước và cách mạng.

“Thơ Nguyễn Đình Thi say đắm, nhưng không say đắm như Xuân Diệu, say mà tỉnh; có trí tuệ nhưng không trí tuệ như Chế Lan Viên, anh xúc cảm từ nhỡn kiến chứ không phải từ tri thức; có suy tưởng như không suy tưởng như Huy Cận, anh suy tưởng từ hình sắc chứ không phải từ cái vô hình vô ảnh.”

(Nguyễn Đức Quyền – Sách Luyện Văn, NXBĐHQG TPHCM, trang 201)

Tác phẩm tiêu biểu: Xung kích, Vỡ bờ (truyện), Người chiến sĩ, Tia nắng (thơ), Con nai đen, Tiếng sóng (kịch).

- Bài thơ Đất nước – in trong tập thơ Người chiến sĩ (1956), được viết trong một thời gian dài, từ 1948 đến 1955, được tổng hợp từ 3 mảng thơ: Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948), Đêm mít- tinh (1949) và khổ 5-khổ 11 được viết năm 1955.

Thời điểm bắt đầu của Đất nước là sau chiến dịch thu đông Việt Bắc 1947 và thời điểm kết thúc là sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954.

Bài thơ thể hiện cảm hứng tự hào, tin tưởng vào cuộc kháng chiến chống Pháp, hòa lẫn nhiều cảm xúc và kỷ niệm đẹp về Hà Nội, những tình cảm và suy nghĩ về sức sống hiền hoà mà bất khuất, gian khổ mà hào hùng của đất nước và con người Việt Nam.

(Học tốt Văn 12 trang 76 & Sách Luyện Văn, NXBĐHQG TPHCM trang 190)

- Bố cục:

· Khổ 1 – khổ 4: quá trình nhận thức và niềm tự hào về đất nước giàu đẹp, có truyền thống bất khuất.

· Khổ 5 – khổ 11: đất nước trong kháng chiến gian khổ và chiến thắng vinh quang

i. Đất nước đau thương (khổ 5) vì thực dân phong kiến (khổ 7)

ii. Nhân dân vùng lên chiến đấu vì độc lập tự do (khổ 6,8,9,10)

iii. Đất nước vinh quang (khổ 11)

(Học tốt Văn 12 trang 77)


II. NHỮNG NÉT ĐẶC SẮC VỀ NỘI DUNG & NGHỆ THUẬT

v CẢM HỨNG SÁNG TÁC:

ý Sự kết hợp giữa 2 bài thơ, 2 cảm xúc khác nhau thành 1 bài thơ có khiến tác phẩm bị mất cân đối, không đồng nhất cảm xúc?

þ Thơ NĐT ảnh hưởng sâu sắc từ thơ lãng mạn Pháp, đặc biệt ông có vốn kiến thức triết học phương Tây khá vững chắc. Điều này khiến tư duy ông mạch lạc hơn, cảm xúc được thanh tẩy kỹ hơn, hình ảnh được chọn lọc cẩn trọng hơn. Cảm xúc dang dở thời trai trẻ được hoà trộn với những chiêm nghiệm của thời gian sẽ khiến cho ý tưởng bài thơ được thăng hoa. Hai bài thơ nhỏ cùng một trường cảm xúc, ý tưởng hoà hợp thì khi kết hợp lại sẽ tạo ra hiệu ứng nghệ thuật mạnh hơn.

ý Bài thơ đầy chất lãng mạn, chan chứa vẻ đẹp của Hà Nội. Tại sao giữa những năm tháng ác liệt, tâm hồn nhà thơ vẫn cảm nhận được vẻ đẹp ấy?

þ Bài thơ biểu hiện cho tình cảm của lớp trí thức trẻ nói chung đi theo CM. Họ có sự lãng mạn, nhưng sự lãng mạn đó không bay bướm, mơ mộng hão huyền mà luôn hướng đến một hiện thực tươi sáng của dân tộc.

(Nguyễn Đình Chính phân tích – Tác giả nói về tác phẩm trang 188)


v PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:

(tổng hợp từ Học tốt văn 12, Sách luyện văn, Tác giả nói về tác phầm--)


† Hình ảnh đất nước Việt Nam tươi đẹp, trong sáng, hiền hoà, với cảm hứng yêu thương tha thiết và tự hào


1. Đất nước qua hình ảnh mùa thu

- Mùa thu Hà Nội năm xưa

Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Tôi nhớ những ngày thu đã xa

Những câu thơ mở đầu vô cùng giản dị, như 1 lời kể chuyện, 1 lời tâm sự chứ không dùng đến các phép so sánh, ẩn dụ của thơ ca. Cảm xúc thanh bình và quen thuộc của mùa thu với hương cốm chỉ là 1 cái “cớ” để nhà thơ nhớ lại những ngày thu đã xa. Câu thơ còn mang vẻ đẹp về nhạc điệu: sự trầm lắng, lơ lửng, bâng khuâng của hoài niệm về những ngày đã xa.

Câu thơ rất đỗi mộc mạc. Thế nhưng cái vẻ thanh bình đơn sơ tưởng như rất bình thường ấy không thể có được khi đất nước còn bóng giặc ngoại xâm. Trải bao gian khổ, đổ bao máu xương, dân tộc ta mới giành được một mùa thu thanh bình mát trong và đầy hương cốm như vậy. à Câu thơ giản dị làm tăng cái ý nghĩa của sự thanh bình bình thường ấy. Và sự bình dị của đoạn đầu sẽ làm tăng sức biểu cảm của những hình ảnh tiếp theo.

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Đã có biết bao thế hệ độc giả lặng người đi vì cảm xúc tinh tế của hai câu thơ này. Về mặt ngữ nghĩa, những hình ảnh trên không chứa đựng vẻ đẹp của Hà Nội, nhưng khi đọc hai câu thơ ta vẫn cảm nhận được vẻ đẹp đắm sâu của thủ đô, trái tim của cả nước. Phải yêu Hà Nội, hiểu Hà Nội mới có thể cảm nhận được cái xao xác hơi may, cái chớm lạnh giữa thành phố này, yên ắng, trong lành, phảng phất những mơ hồ. Dường như sự sâu kín của tâm hồn con người đang khe khẽ hiển lộ trong màn sương rất mỏng, mỏng như thể không có vậy.

à Chỉ bằng 1 vài nét gợi tả tác giả đã dựng lại được cả không gian, sắc màu, hương vị cùng nhịp điệu thời gian: khí trời trong mát, hương cốm ngọt ngào, chút se lạnh của làn gió heo may, những chiếc lá vàng lặng lẽ rơi, nắng dát vàng thềm phố... Hình ảnh thật gợi cảm và tinh tế. Cảm giác về sự chuyển mùa thật rõ rệt, chuyển mùa trong trời đất, chuyển mùa trong lòng người.

Tĩnh lặng và buồn. Ấy là đặc điểm của hồn thơ và tình thu Hà Nội.


Hà Nội đẹp đến thế nhưng người phải ra đi, rời khỏi nơi bình yên, thân thương này.

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Hai câu thơ tạo nên điểm nhấn tuyệt đẹp cho khổ thơ.

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy – Trong câu thơ này, vị trí lôgic của từng từ, từng hình ảnh được đảo lộn tạo ra 1 ấn tượng đặc biệt. Nếu viết theo logic thông thường thì với ngần ấy hình ảnh không thể dồn ép vào được trong 1 câu thơ với bấy nhiêu từ ngắn ngủi ấy.
 
L

leejunki18

Mùa thu đẹp nhưng buồn. Anh - người ra đi rất cương quyết, nhưng lòng anh có xao xuyến bâng khuâng? Tại sao khi phải rời đi, anh không ngoảnh lại nhìn lần cuối? Anh không luyến tiếc cái vẻ đẹp nắng lá rơi đầy kia chăng? Ta thấy được rằng nếu không nặng lòng với Hà Nội, không thiết tha với mùa thu xứ sở, với đất trời quê hương thì làm sao biết được 1 vẻ đẹp đang bị bỏ lại sau lưng mình: thềm nắng lá rơi đầy...? Có lẽ người ta sẽ quay đầu lại luyến tiếc, buồn bã khi phải bỏ lại mãi mãi một vật, một nơi, hay một con người thân thiết đối với mình, nhưng khi con người đó tin rằng sự ra đi đó chỉ là nhất thời, và dự cảm được ngày trở về sẽ rất gần thì hoàn toàn không cần thiết phải ngoảnh lại, phải lưu luyến. Đó là tâm lý hết sức tự nhiên của con người. Lớp trí thức trẻ đã có một niềm tin mãnh liệt vào ngày toàn thắng, hơn nữa ngày đó chắc chắn sẽ đến rất nhanh, và họ sẽ có cơ hội trở về quê hương. à Sự ra đi đầu không ngoảnh lại không chứa đựng sự cô đơn, tuyệt vọng của sự ra đi trong Tống biệt hành (ra đi không mong ngày gặp lại) mà nó chứa chan niềm tin vào 1 ngày mai tươi sáng. Chỉ trong 1 hình ảnh ấy, NĐT đã tạo ra 1 niềm tin thật mãnh liệt.

- Mùa thu chiến khu hôm nay

Và niềm tin đó đã được chứng minh bằng hiện thực CM sống động. Hoà bình trở lại và những người con nay lại trở về. Cảnh sắc thiên nhiên đất nước thật tươi vui, sáng mát, như trẻ lại, như hồi sinh. Nếu mùa thu hồi trước xao xác gió hơi may buồn thì mùa thu nay gió đã chuyển mình thành cơn gió thổi rừng tre phấp phới, một cơn gió thu phóng khoáng và mạnh mẽ tưởng như chưa từng có trong thơ ca Việt Nam trước đây. Nếu năm xưa lá rơi đầy thềm nắng phố Hà Nội thì nay cả bầu trời thu Việt Bắc xanh biếc tươi vui

Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Niềm vui lan toả đất trời, náo nức cây cỏ và tràn ngập lòng người, nồng ấm và rộn rã niềm vui.

Hình ảnh rừng tre ở đây biểu hiện cho người Việt Nam. Thường hình ảnh cây tre không gắn với núi đồi, tác giả viết như vậy nhằm thể hiện cái tự do, cái mênh mông bát ngát trong tâm hồn người Việt Nam, và phấp phới làm ta liên tưởng đến những ngọn cờ, những ngọn cờ khởi nghĩa tung bay trong hoà bình. Cấu trúc độc đáo: tính từ vui chen giữa 2 động từ đứng nghe làm ta cảm giác trong mọi hành động của con người đều tràn ngập niềm vui sướng, hồ hởi, rộn rã.

Nhà thơ lắng tâm hồn để cảm nhận niềm vui từ làn gió thu trong mát, sắc trời thu xanh biếc

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha

Cuộc sống đã thay đổi hoàn toàn. Không chỉ mùa thu trong biếc mà chính cái hiện thực ấy, chính cái cuộc sống mới ấy thật đẹp, thật trong suốt. Và con người trong cuộc sống ấy đang tự do nói cười thiết tha trong nỗi vui mừng quê hương vừa được giải phóng.


2. Niềm vui làm chủ đất nước

Trong niềm tự hào dâng trào, say đắm, đất nước dường như trải rộng, nơi nào cũng đẹp, cũng phì nhiêu, cũng màu mỡ. Trong bản hoà ca lung linh, những điệp khúc dữ dội xuất hiện:

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Nhịp thơ cuồn cuộn mãnh liệt khác hẳn sự tinh tế ở những khổ đầu. Hình ảnh nối tiếp hình ảnh, nhạc điệu rộn ràng, âm hưởng khoáng đạt, lời thơ trải dài như vô tận. Vẻ đẹp đất nước bao la bát ngát, như hư như thực dường như vượt khỏi tầm tay con người nhỏ bé.

Từ những liên tục lập lại làm cho khổ thơ khoẻ khoắn và có tính khái quát cao, một sự khẳng định rõ ràng và có chủ ý: tất cả vẻ đẹp ấy là của chúng ta. Điệp khúc của chúng ta như vang vọng mãi trong không gian, trong tâm thức mỗi người dân xứ sở. Tư thế của con người lúc này là thế đứng ngẩng cao đầu của con người sau bao năm chiến đấu gian khổ mới giành được quyền làm chủ đất nước. Tất cả những núi rừng, cánh đồng, ngả đường, dòng sông phù sa trở nên thật đẹp đẽ, đáng yêu mến lạ thường, vì đó là cùa chúng ta, là thuộc về chúng ta.


3. Niềm tự hào về truyền thống bất khuất

Thế nhưng sự khẳng định của chúng ta ấy không chỉ bắt đầu từ những cuộc chiến tranh giữ nước thời hiện đại mà trải dài trong suốt chiều dài lịch sử

Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về

Truyền thống ấy, ánh sáng lịch sử ấy, với hàng ngàn năm chống giặc ngoại xâm tạo thành 1 chuỗi dài liên tục, vang vọng hồn thiêng sông núi, minh chứng cho sự trường tồn của dân tộc Việt Nam. Trong mỗi tâm hồn con người hiện đại, sự bất khuất, can trường của biết bao thế hệ cha ông đi trước nói riêng và của cả dân tộc nói chung sẽ luôn toả sáng và luôn rì rầm nhắc nhở con người ấy phải sống xứng đáng với Tổ quốc của mình, với dân tộc cùa mình, một dân tộc với những con người kiên cường chưa bao giờ khuất và sẽ mãi mãi không bao giờ khuất phục trước thế lực ngoại xâm. Niềm tự hào vang vọng cả không gian và thời gian.

Nếu như để ý, ta sẽ bắt gặp một nốt trầm màu đỏ đậm của những dòng sông đỏ nặng phù sa báo trước 1 đoạn thơ trầm lắng xuống rất sâu để sau đó là những tiếng rì rầm của cung đàn đất nước vọng về từ ngàn xưa. Trong cái âm thanh chắt lọc tinh tế của từ rì rầm hình như có cả tiếng động trầm trong mạch ngầm dân tộc vẫn không ngừng nghỉ từ cái thuở Côn Sơn suối chảy rì rầm trong thơ Ức Trai vốn đã rất xa xưa. Phải chăng dòng chảy ngầm bất tử ấy vẫn rì rầm từ quá khứ, chảy thành lời trong tiếng đất lặng thầm nhắc nhở chúng ta về những niềm đau khổ, sướng vui của cha ông: nhắc nhở chúng ta những khát vọng tương lai?... (Lí Hải Bằng, THPT Chuyên LHP – Sách Luyện Văn, NXBĐHQG TPHCM, trang 212)


† Hình ảnh đất nước đau thương, gian khổ mà bất khuất, hào hùng: Đất nước trong kháng chiến và chiến thắng


1. Đất nước đau thương & nhân dân vùng lên chiến đấu

Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đăm nát trời chiều

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

Những hình ảnh chảy máu, đâm nát của lòng căm thù nối tiếp 2 tính từ mãnh liệt của tình yêu nung nấu, bồn chồn có thể gây ngạc nhiên cho người đọc. Nhưng thực ra ở đây các hình ảnh thơ gọi nhau rất hợp lý. Vì lòng căm thù giặc, vì sự đau đớn, xót xa khi nhìn thấy quê hương bị giày xéo, vì nghĩa vụ thiêng liêng giải phóng đất nước mà người lính đã lên đường, bò lại những mối tình chờ đợi. Thế nhưng hình ảnh mắt người yêu vẫn sáng trong tim họ. Đó không đơn thuần là tình yêu đôi lứa mà mắt người yêu ở đây tượng trưng cho tất cả những gì yêu quý ở phía hậu phương, không chỉ là mắt của 1 người con gái, người yêu ấy chính là quê hương đã bị giặc Pháp giày xéo.

Hình ảnh quê hương vừa cụ thể, vừa khái quát, với những hình ảnh và đường nét tương phản. Ráng chiều đỏ rực đổ xuống cánh đồng quê trông như cánh đồng đang chảy máu – kẻ thù đã làm đổ bao nhiêu máu của người dân vô tội trên khắp các miền quê. Nơi phía chân trời xa, những đồn bốt giặc với những lô cốt trải dài trên mảnh đất quê hương, những dây thép gai giăng đầy, tua tủa làm cho chân trời bị xé nát, nham nhở, tưởng chừng như đang đâm nát cả bầu trời quê hương. à Biện pháp nhân hoá và phép liên tưởng độc đáo gây ấn tượng nhức nhối, căm giận về tội ác của giặc.

Từ những năm đau thương chiến đấu

Đã ngời lên nét mặt quê hương

Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu

Đã bật lên những tiếng căm hờn

Những câu thơ vừa giản dị, dễ hiểu, vừa hùng hồn, sâu sắc đã khái quát một sự chuyển biến mang tính quy luật: khi giặc tàn phá quê hương thì những người nông dân hiền lành chất phác quanh năm gói gọn cuộc sống của mình sau những luỹ tre xanh cũng sẽ đứng lên, góp tay vào chiến đấu. Tội ác của giặc quá lớn khiến cho những con người hồn hậu, căm ghét chiến tranh ấy nay đã phải bật lên những tiếng căm hờn, đã phải cầm súng mà chiến đấu, quyết giữ từng tấc đất quê hương.
 
L

leejunki18

NĐT đã sáng tạo 1 bài thơ hết sức đặc biệt khi cảm xúc trong bài thơ không chảy theo 1 nhịp thống nhất mà liên tục biến đổi. Ta biết rằng: thơ 7 chữ thì biểu lộ cảm xúc cá nhân, thơ 5 chữ thì cảm xúc mỏng hơn và thiên về nhịp điệu, thơ 6 chữ thì được sử dụng nhẳm khẳng định 1 ý tưởng. Trong bài thơ này, thơ 6 chữ được tác giả sử dụng đạt hiệu quả rất cao.

Bát cơm chan đầy nước mắt

Bay còn giằng khỏi miệng ta

Thằng giặc Tây thằng chúa đất

Đứa đè cổ đứa lột da

Ngôn ngữ giản dị như khẩu ngữ truyền tải nội dung căm hận sâu sắc, cực tả sự áp bức bóc lột dã man đến tận xương tuỷ của bọn giặc xâm lược cùng bọn địa chủ tay sai đang thống trị từng ngày trên nước mắt, mồ hôi của nhân dân. Cắt ngắt nhịp (2 câu đầu là 2/2/2, 2 câu sau là 3/3) thể hiện sự đau uất, căm hờn.

Xiềng xích chúng bay không khoá được

Trời đầy chim và đất đầy hoa

Súng đạn chúng bay không bắn được

Lòng dân ta yêu nước thương nhà

Chúng còn muốn tước đoạt cuộc sống tự do và lòng yêu nước trong mỗi con người. Chúng những tưởng sẽ tước đoạt được tất cả những thứ ấy bằng đàn áp, bóc lột, bằng xiềng xích nô lệ, bằng súng đạn bạo tàn. Thế nhưng chúng không ngờ rằng cái vẻ đẹp thanh bình đầy chim và đầy hoa của xứ sở thiêng liêng này có một sức sống mãnh liệt không gì có thể ngăn cản. Xiềng xích cùng súng đạn đen tối không những không khoá được, không bắn được trong sự phủ định tuyệt đối mà còn làm nền cho vẻ đẹp xứ sở. Người ta cảm thấy sự mãnh liệt, sự tự do của dân tộc vươn lên khỏi mọi áp bức, mọi đe doạ của quân thù. Chim vẫn hót những bài ca của chim, hoa vẫn ngát những làn hương của hoa và con người vẫn yêu quê hương đất nước bằng tình yêu của chính trái tim mình.

Nỗi đau đớn xót xa hoà lẫn lòng căm thù ngùn ngụt khiến đoạn thơ có sức truyền tải và tố cáo mãnh liệt, lột tả rõ nét nguyên nhân cho sức mạnh vùng lên của dân tộc.

Khói nhà máy cuộn trong sương núi

Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng

Hình ảnh độc đáo, sáng tạo thể hiện không khí sôi động, sùng sục của nhân dân trong kháng chiến. Núi rừng trước kia chỉ có sương núi, nay đã thấy khói nhà máy cuộn không gian, cánh đồng trước kia chỉ có tiếng mõ nay đã nghe văng vẳng những tiếng kèn gọi quân. Hai hình ảnh sóng đôi rất ý nghĩa: một xây dựng đất nước ở miền Bắc, một bảo vệ đất nước ở miền Nam. 2 miền đất nước dẫu bị ngăn cách nhưng dường như vẫn đang cùng 1 nhịp thở.

Cảm xúc tác giả có lẽ khá bao quát, bề bộn, nhưng khi đặt mình vào giai đoạn lịch sử khi ấy chúng ta mới có thể hiểu hết sự bề bộn và quá nhiều cảm xúc của bài thơ. Thời điểm đó miền Bắc vừa giải phóng, đất nước có 2 nhiệm vụ lớn: đánh đuổi kẻ thù ở miền Nam và xây dựng cuộc sống mới ở miền Bắc. Lúc đó có bao nhiêu việc phải làm cho 1 đời sống còn non trẻ. Người nghệ sĩ cũng nằm trong hơi thở lớn ấy của xã hội và 1 bài thơ có cảm hứng đất nước không thể không biểu hiện cái hơi thở bề bộn ấy.

Nhưng cái cảm xúc quan trọng mà tác giả muốn chúng ta cảm nhận được là: cái vẻ đẹp quê hương, vẻ đẹp của những người áo vải chỉ bằng tình yêu quê hương là có thể đứng lên thành những anh hùng

Ôm đất nước những người áo vải

Đã đứng lên thành những anh hùng

à Tình yêu quê hương chính là phép mầu để biến những người áo vải thành những anh hùng, biến cái vẻ đẹp mờ ảo của thiên nhiên thành vẻ đẹp thực của cuộc sống con người, biến những đau thương thành những bản hùng ca bất tận.

Cái phép mầu ấy đã khiến cho những người con áo vải không ngại gian khổ, không ngại hi sinh để giành lại độc lập tự do cho dân tộc.

Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội

Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh

Nơi vùng núi Thượng Lào với ban ngày nắng như thiêu đốt và đêm đến lại những cơn mưa ào ào như thác đổ, thiên nhiên khắc nghiệt dễ sinh bệnh tật đau ốm, nhưng người lính đã vượt qua tất cả những gian khổ đó.

Chính là cái phép mầu tình yêu quê hương đó đã thôi thúc họ ra chiến trường, dù biết rằng sẽ có hi sinh, sẽ có mất mát. Tình yêu ấy thật mạnh mẽ và quyết liệt, tình yêu mầu nhiệm ấy không thụ động, chung chung mà luôn sống động, cụ thể với những công việc thực sự. Họ sẵn sàng hi sinh vì họ tin rằng sự hi sinh ấy sẽ góp phần mang lại cuộc sống mới cho quê hương, cho dân tộc. Con tim họ sáng ngời niềm lạc quan chiến thắng, niềm tin vững chắc vào tương lai huy hoàng của đất nước.

Từ thưở Hùng Vương dựng nước, dân tộc ta chẳng mấy chốc được bình yên. Hơn một ngàn năm giặc phương Bắc kéo xuống, hung hãn bạo tàn. Hơn một ngàn năm, đến cả những em bé nằm mơ ngựa sắt hoá thân thành những người anh hùng. Đó là những con người:

Trán cháy rực nghĩ trời đất mới

Lòng ta bát ngát ánh bình minh

Cháy rực, bát ngát, trời đất mới, bình minh... là những hình ảnh kỳ diệu mà quê hương họ sẽ đến và phải đến. Nơi ấy có tự do, có niềm vui, có những cánh đồng bát ngát, có những dòng sông đỏ nặng phù sa, nơi ấy là nơi con người tự do yêu thương và sống bên nhau. Tất cả những khát vọng ấy nung đốt con tim những người lính. Và trong trái tim đơn sơ của mình, người lính cũng tự hiểu được rằng: nếu cần phải hi sinh cho những điều ấy, họ sẽ ngay lập tức hiến dâng cuộc sống của mình cho Tổ quốc.

à Hình ảnh của quê hương kháng chiến đã tạo nên cho tác giả những cảm hứng trong sáng, mạnh mẽ và chính sức mạnh của làng quê kháng chiến thực sự đã đem lại niềm tin có thể chặn đứng được những âm mưu, tội ác của kẻ thù.

Cảm hứng chung của bài thơ vận động và phát triển theo hướng đi lên của cuộc kháng chiến rất gian khổ và ngày càng giành được nhiều thắng lợi.


2. Đất nước vinh quang

Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng loà.

NĐT đã lấy chất liệu miêu tả trực tiếp tại chiến trường Điện Biên, khi hàng trăm cỗ pháp của ta kéo vào trận địa, trong tiếng súng nổ rung trời: “Tôi trông thấy các anh mình mẩy đầy bùn, nhưng khi nhảy lên trên mặt đất, các anh hiện ra chói loà trong ánh nắng...”

Người lên như nước vỡ bờ – câu thơ ngắn gọn khẳng định sức mạnh của quân đội ta, của quần chúng cách mạng khi mà những đoàn dân công tới tấp đến chiến trường và bộ đội ào đi vào chiến dịch.

“Chiến dịch Điện Biên Phủ vào đầu mùa hè đã có những cơn mưa rào. Đất đá do bom đạn cày, xới lên gặp nước làm cho việc đi lại ở các giao thông hào rất vất vả. Những người lính trẻ với những gương mặt rất tươi sáng nhiều khi cũng lấm lem bùn đất. Họ đi lại với tinh thần xông pha hăng hái, thỉnh thoảng trên gương mặt lại nhoẻn ra một nụ cười. Tôi đã liên tưởng hình ảnh đó với hình ảnh đất nước ...” – Nguyễn Đình Thi (4/1998)

Âm thanh, nhạc điệu nhịp nhàng từ đầu bài thơ hầu như không còn, chỉ là những chữ cô lại, gọn chắc, cân đối và đĩnh đạc trong những câu thơ sáu chữ. Đây là 1 sự đột phá vế nghệ thuật khi những vần điệu bị tước bỏ, các chữ gói gọn, hình ảnh mạnh mẽ, mọi ánh sáng tập trung để làm sáng loà cuộc đấu tranh hùng tráng của dân tộc.

Khổ thơ 6 cuối cùng như một bản tổng kết, một lời tuyên bố của xứ sở. Khổ thơ kết hợp chiều cao của ý chí, chiều sâu của tình yêu, chiều rộng của sự đoàn kết, và chiều dài lịch sử cùng những âm thanh dữ dội chuyển từ trạng thái căm hờn, chiến đấu cho đến bản hoà ca chiến thắng. Một khổ thơ đầy âm thanh dữ dội, đầy các động từ mạnh dựng nên một Việt Nam sáng loà.

Hình ảnh Nước Việt Nam từ máu lửa Rũ bùn đứng dây sáng loà như một viên ngọc quý toả sáng, một tượng đài kì vĩ và liên kết lại toàn bộ cảm xúc của bài thơ. Như bông sen vươn dậy từ bùn lầy, từ tăm tối, đói nghèo, mất mát, dân tộc Việt Nam đứng lên chiến đấu và chiến thắng.

Đất nước giống như một con người, đã thẳng tiến đến chân lý cao đẹp nhất của mình. Con người-đất nước ấy đã truyền sức mạnh và ý chí cho biết bao thế hệ những đứa con áo vải của mình để mãi mãi ngời sáng trong những trang sử đẫm đầy máu và nước mắt mà kiên cường, bất khuất, mà vinh quang muôn đời.


III. KẾT LUẬN

Đất nước có chất trữ tình bay bổng, chất chính luận sâu sắc qua nghệ thuật diễn đạt tài hoa của Nguyễn Đình Thi, với ngôn ngữ giàu hình ảnh gợi cảm, lời thơ giàu âm điệu, giọng thơ thay đổi, có lúc sôi nổi rạo rực, có lúc lắng đọng suy tư.

Đất nước trong thơ Nguyễn Đình Thi được khái quát từ những hình ảnh thật thân thương, từ những cung bậc thiết tha của cung đàn tình cảm dân tộc. Đất nước giúp ta có cái nhìn về quê hương đất nước hoàn thiện hơn, sâu sắc hơn và tinh tế hơn.


Nhà thơ không chỉ diễn tả hiện thực, mà còn diễn tả mơ ước, bởi thơ ca bao giờ cũng nói đến cái xảy ra và cái có thể xảy ra. Bằng cái đẹp, thơ nâng cao con người lên.

NĐT làm thơ như một nhà văn hiện thực nghiêm ngặt. Ngay cả những phút lãng mạn trong thơ anh cũng có chất liệu thật bên trong. Song, chất liệu thật của đời sống không bị trơ, khô cứng mà đều lấp lánh cảm xúc, ánh lên trong trí tuệ và đều nâng lên tầm khái quát.

(Nguyễn Đức Quyền – Sách Luyện Văn, NXBĐHQG TPHCM, trang 202
 
L

leejunki18

12.Đôi mắt-Nam Cao

Mùa thu năm 1947, Nam Cao lên Việt Bắc. Ông là thư ký tòa soạn báo Cứu quốc Việt Bắc, viết Nhật ký ở rừng. Tại chiến khu, Nam Cao gia nhập Đảng. Từ đây, với cảm quan mới, Nam Cao hăng hái tham gia công tác văn hóa, văn nghệ và báo chí cứu quốc, hòa mình vào cuộc kháng hiến vĩ đại của dân tộc. Khiêm tốn, giản dị, chân thành, nhà văn không nề hà, không ngại khó, hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ được tổ chức phân công. Các tác phẩm "kịp thời" của ông bắt ngay vào việc tuyên truyền cổ vũ, động viên chiến sĩ, cán bộ đồng bào trong địch hậu, ngoài tiền tuyến, trong đó truyện ngắn Đôi mắt được xem như một tuyên ngôn nghệ thuật của nhà văn dứt khoát với cái cũ, hào hứng, tin tưởng trên con đường lớn của dân tộc, của đất nước

“Mấy ngày nghỉ Tết, tồi dùng để viết một truyện ngắn cho đỡ nhớ. Truyện Tiên sư thằng Tào Tháo ! Nhưng sau tôi đặt cho nó một cái tên giản dị và đứng đắn : Đôi mắt”.

Đấy là tất cả những gì mà Nam cao đã viết về Đôi mắt trong cuốn nhật kí mà ông vẫn ghi khá đều đặn và kĩ lưỡng trong mấy tháng ở rừng. Chỉ vẻn vẹn chưa đầy ba dòng chữ, không hơn. Trong khi cũng ở ngày 2-3-1948 ấy, nhà văn lại dành nhiều giấy mực và rất nhiều sự thiết tha để nói về những lí do đã khiến ông phải dằn lòng gác lại ý định làm cuốn tiểu thuyết lớn mà ông vẫn thường xuyên trăn trở.

Có nghĩa rằng Nam cao đã không hề coi Đôi mắt là “ cái tác phẩm mơ ước” của đời mình. Và rất có thể chính nam Cao cũng đã không tiên lịệu được rằng cái truyện ngắn được ông viết để cho đỡ nhớ kia rồi sẽ thuộc vào số rất hiếm các tác phẩm văn xuôi thời ấy mà giá trị, như những năm sau này cho thấy, không bị nhạt phai đi với thời gian.

Nhưng thật sự lại đúng là như thế. Những trang văn Nam Cao viết trong mấy ngày Tết ấy sẽ còn mãi để cùng với bao thế hệ bạn đọc phát hịên, suy ngẫm về những ý nghĩa sâu sắc, lớn lao của nghệ thuật – mà cũng không chỉ riêng gì nghệ thuật ... Những trang văn ấy còn mãi, còn là để cho chúng ta thêm dịp ngưỡng mộ một tài năng truyện ngắn bậc thầy.

Đôi mắt phê phán cách nhìn đời, nhìn người lệch lạc, khinh miệt, lối sống ích kỷ và bàng quan của một trí thức đối với kháng chiến, đồng thời biểu dương một lớp trí thức, văn nghệ sĩ có một cái tâm đẹp, gắn bó với nhân dân, tích cực tham gia sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đôi mắt thể hiện cách nhìn và thái độ của người trí thức đối với nông dân và kháng chiến.

Nam Cao, như thường lệ, vào truyện rất nhanh. Bỏ qua bằng hết những chi tiết thừa, những điều vụn vặt, hòan toàn không cần đến lối kể đủ ngành ngọn, đủ đầu đuôi, nhà văn chỉ bằng một hai câu đã ngay lập tức đặt chúng ta trước ngôi nhà của nhân vật chính – văn sĩ Hoàng. Rồi cũng chỉ qua một hai câu nữa, ấn tượng đầu tiên về nhân vật đó đà nổi hẳn lên, qua một chi tiết đầy sức phát hiện: Đã đến nước phải rời Hà Nội tản cư về nông thôn sống nhờ dân mà một thói quen không hợp cảnh, không hợp thời đến như nuôi chó Tây trong nhà, anh ta cũng không sao bỏ được. Một con người vẫn cứ hệt như cũ, trong một hòan cảnh đã hòan tòan khác cũ.

Nhưng đó mới là khúc dạo đầu tiên, làm nên , làm nền để cho Hòang xúât hiện. Và tác giả đã cho nhân vật bước ra: một con người mới thạot trông đã thấy ứ đầy sự no nê, nhàn hạ, sự múp míp, phong lưu, nó khiến anh trở nên rất chướng trong hòan cảnh cả một dân tộc đang gian lao chiến đấu. Và cái cảm giác ấy đã được Nam Cao diễn tả một cách sắc sảo đến tinh quái, trong những lời văn thật giàu sức tạo khối tạo hình:

“Anh Hòang đi ra. Anh vẫn bước khệnh khạng, thong thả bởi vì người khí to béo quá, vừa bước vừa bơi cánh tay kềnh kệnh ra hai bên, những khối thịt ở hai bên dưới nách kềnh ra và trông tủn ngủn như ngắn quá”.

Xin hãy nhớ rằng những lời có khả năng làm người ta phải phát ngấy lên này, Nam Cao đã viết vào lúc đang sống với những bữa cơm rất nhiều khi chỉ có muối không, trên rừng, bên những người Tày, người Dao vất vả và đói rách...


Có thể nói, trên suốt chiều dài thiên truyện, Nam Cao không ngớt đưa ra những chi tiết rất đắt để miêu tả ngọai hình Hòang và đời sống vào lúc ấy đang là quá ư dư giả của nhà Hòang: nào là “một cái vành móng ngựa ria” đặc chất thị thành được Hoàng chăm nuôi đúng lúc anh ta đã rời thành thị, nào là cái thú ăn mía ướp hoa bưởi và ngủ trong những tấm chăn thoang thỏang nước hoa...

Có lẽ ở đây nên tránh một sự hiểu lầm. Một người như Nam Cao, tôi chắc không bao giờ lại thù nghịch với một nhu cầu chính đáng của con người – nhu cầu được sống trong sung sướng. Trong trường hợp này, nhà văn, theo tôi, chỉ muốn lí giải cái nguyên nhân đã sinh ra đôi mắt nhìn đời, nhìn người một phía của Hòang. Hãy nhớ đến cái ý của F.Coppée mà Nam Cao từ lâu đã tâm đắc: Người chỉ xấu xa trước đôi mắt của phường ích kỉ.

Phải chăng, Nam Cao đã đặt vào trung tâm truyện Đôi mắt này hình tượng của một kẻ xét cho cùng cũng thuộc vào phường ích kỉ, một kẻ mà sự ích kỉ đã cho phép anh ta yên tâm thỏa thuê sung sướng no đủ một mình giữa những tháng ngày gian khổ nhất củ cuộc kháng chiến toàn dân. Và đấy là một lí do, là một trong những lí do đã khiến dưới đôi mắt anh ta, con người hiện lên với chỉ tòan cái xấu.

Không khó khăn gì để thấy, quả thật, dưới đôi mắt và qua cửa miệng Hòang, đã hiện lên, và chỉ hiện lên, cả một danh sách dài những tật xấu của người dân kháng chiến: ngu độn, tham lam, bần tiện, thóc mách, rởm đời, và tệ nhất là đã ngố lại còn nhặng xị (đánh vần chưa xong mà lại thích đòi xét giấy, viết còn sai chữ quốc ngữ mà lại sính làm con vẹt lặp lại những từ chính trị cao siêu).Người dân chỉ có thể là như thế dưới mắt Hòang: và đấy là một định kiếng mà cho đến cuối cùng, không một nhân vật nào dám nghĩ đến việc làm thay đổi.

Nhưng xin đừng vội đơn gảin hóa Nam Cao. Nhà văn xây dựng nhân vật Hòang như một người chỉ nhìn được một phía của sự thật chứ không phải một kẻ cố ý nói sai sự thật. Có thể tin rằng Hòang chân thực trong việc kể lại những gì mình quan sát được. Anh ta cam đoan tới hai lần:” Tôi có bịa một tí nào, tôi chết”. Và cũng xin để ý điều này: không một nhân vật nào, ngay cả Độ - người có thể coi như một hóa thân của chính Nam Cao – thấy ngờ vực về những điều Hòang kể. Độ có thể không đồng tình với thái độ không đồng tình của Hòang, có thể cắt nghĩa khác đi về những hiện tượng mà Hòangđã nêu ra, nhưng Độ chưa hề một lần hòai nghi rằng những hiện tượng như Hòang đã thấy là không thể có. Đấy là chưa nói rằng, có lúc Độ còn góp thêm vào câu chuyện của Hòang những hiện tượng tương tự thế về những nhược điểm của quần chúng, với một giọng điệu không phải hòan tòan xa lạ so với giọng điệu của Hòang:” Vô số anh răng đen, mắt tóet, gọi lựu đạn là “nựu đạn”, hát Tiến quân ca như người buồn ngủ cầu kinh...”. Nếu không có thêm những lời giải thích ở phía sau, thì một lối nói thế này, riêng nó thôi, kể cũng dễ bị lầm cho là của chính nhân vật Hòang.

Hòang nhìn đời, nhìn người theo một phía. Nhưng ở riêng cái phía ấy thì Hòang lại rất biết nhìn, và càng rất biết diễn tả một cách sắc sảo những gì nhìn thấy. Hầu như không bao giờ anh ta chịu dừng ở những nhận xét chung chung. Ngược lại, nhà văn ấy – không phải tình cờ mà Nam Cao đã xây dựng nhân vật Hòang là một nhà văn – luôn luôn biết làm sống động những nhận xét của mình bằng những câu chuyện kể đầy ý vị. Xin thử lấy ra đây một trong rất nhiều ví dụ. Hòang phàn nàn với Độ về việc người dân quê, theo Hòang, cứ hay nấp nom chú ý một cách vô lối tới những người ở xung quanh. Một nhận xét như thế chắc sẽ không có gì đặc biệt hấp dẫn nếu không có những câu tiếp theo sau:

“Này, anh mới đến chơi thế mà lúc nãy tôi đã thấy có người nấp nom rồi. Ngày mai thế nào chuyện anh đến chơi tôi cũng đã chạy khắp làng. Họ sẽ kể rất rạch ròi tên anh, tuổi anh, anh gầy béo thế nào, có bao nhiêu nốt ruồi ở mặt, có mấy lỗ rách ở ống quần bên trái”.

Cái đáo để của Hòang, mà cũng là cái ghê gớm ở ngòi bút văn xuôi của Nam Cao lại chính là cái khả năng biết nhìn ra cái không mấy ai nhìn thấy. Khả năng nhận thấy cái bản chất nó bộc lộ ra tận kẽ tóc chân tơ ở chính những chỗ tưởng như chẳng đáng kể gì hết cả: những nốt ruồi, mấy cái lỗ rách, mà lại cụ thể đến mức là lỗ rách ở ống quần bên trái ! Chẳng khác nào M.Gocki và I.Bunin trước kia đã từng phát hiện ra đúng thực chất của một kẻ lạ trong quán rượu nhờ không chỉ vào vẻ mặt xanh xám, mà còn từ lọai cà vạt và chiếc cổ áo nhàu...
 
L

leejunki18

Mà những chi tiết như thế, và hơn thế, đâu có hiếm trong Đôi mắt? Chính nó đã góp phần đáng kể trong việc làm nên cái duyên riêng của truyện ngắn này. Bởi Nam Cao đã để Hòang nói rất nhiều. Hòang nói, nói, rồi lại nói. Một phần lớn tác phẩm như bị tràn ngập bởi lời Hòang. Tìm đến một cách viết như thế này chỉ có thể hoặc là một người viết nghèo thủ pháp, hoặc ngược lại, một tay nghề điêu luyện. Là vì, với cách viết ấy, trừ phi là một bậc cực giỏi về xây dựng ngôn ngữ nhân vật thì không còn cách gì cứu được tác phẩm khỏi rơi vào tình trạng chán ngán, nhạt nhẽo về mặt văn chương. Nam cao thuộc vào số người tài giỏi ấy. Một phần không nhỏ trong Đôi mắt chỉ là lời của một nhân vật, vậy mà thiên truyện vẫn có một sức thu hút thật quái lạ với mọi người. Mà như thế là bởi tài đặt chi tiết vào trong lời kể, như bên trên đã nói. Và bởi tài tạo ra một ngữ điệu nói chân thực, phong phú, biến ảo, khiến người đọc như nghe thấy từng chỗ đổi giọng, và như trông thấy từng sự thay đổi trên vẻ mặt của người nói. Chúng ta có thể thấy rõ việc đó một lần nữa qua lời kể chuyện của Hòang về anh thanh niên vác bó tre đọc thuộc lòng bài “ba giai đọan”, hay là lời thọai dưới đây, xuất hiện sau chi tiết trên một chút:

“Nhưng anh vẫn không thể chối được rằng họ có nhiều cái ngố không chịu được. Tôi thấy nhiều ông tự vệ, hay cả vệ quốc quân nữa, táy máy nghịch súng hay lựu đạn làm chết người như bỡn. Nhiều ông cầm đến một khẩu súng kiểu lạ, không biết bắn thế nào. Như vậy thì hăng hái cũng vất đi. Nhưng mà thôi! Nước mình như vậy, suốt đời không được mó đến khẩu súng thì làm gì biết bắn, họ đánh mãi rồi cũng biết. thì cứ để cho họ đánh tây đi! Nhưng tai hại là người ta lại cứ muốn cho họ làm ủy ban nọ, ủy ban kia nữa, thế mới chết người ta chứ! Nói ví dụ ngay như cái thằng chủ tịch ủy ban khu phố ở Hà Nội lúc chưa đánh nhau. Nó là một anh hàng cháo lòng. Bán cháo lòng thì nó biết đánh tiết canh, chứ biết làm ủy ban thế nào mà bắt nó làm ủy ban? Ông chủ tịch làng này, xem giấy của nhà tôi, thấy đề Nguyễn Thục Hiền, cứ nhất định bảo là giấy mượn của đàn ông. Theo ông ấy thì đàn bà ai cũng phải là thị này thị nọ”...

Như vậy, trong cách diễn đạt của Nam Cao, Hòang là một phản đề. Nhưng Nam Cao muốn đó phải là một phản đề đặc sắc . Nhà văn đã để cho Hòang thỏa sức vẫy vùng, át giọng tất cả, lấn lướt tất cả; trong khi nhân vật chính diện – nhà văn Độ – chỉ đóng vai trò người đối thọai khiêm nhường, thỉnh thỏang mới rụt rè đưa ra vài lời phản bác. Đấy lại là một chỗ cao tay khác nữa của nhà văn. Đâu dễ có người như Nam Cao: dám chọn cho mình một cách viết mà nếu thiếu đi một chút bản lĩng thôi cũng đủ làm tan tành sức thuyết phục nghệ thuật của chủ đề. Nhưng những lúc thật đúng là chính mình, Nam Cao vẫn là như thế: không chịu quan niệm một cái gì đơn giản, một chiều

Chỉ với nửa đầu thiên truyện, “Đôi mắt” của Hòang đã hiện lên thật rõ. “Đôi mắt”, đầu tiên là cách nhìn đối với người dân. Hòang mang đôi mắt của một sống giữa dân mà chỉ một mực miệt thị sự hèn kém của dân. Và vì thế, dù sống trong vùng kháng chiến, anh ta nhất quyết không làm gì cho kháng chiến. Bởi lẽ: ”Công tác với những người như vậy thì anh bảo công tác làm soa được?”.

Nhưng nếu thế thì hình như truyện ngắn đã có thề khép lại mà không cần đến nửa sau. Còn phải kể về buổi chiều đi chơi không thành và buổi tối thưởng thức Tam quốc để làm gì, một khi luận đề coi như đã hòan tòan sáng tỏ? Tuy vậy không nên quên Đôi mắt là một tác phẩm nghệ thuật thực thụ, nghĩa là một công trình khám phá thế giới của con người. Nó không dừng lại ở sự trình bày một nội dung tư tưởng. Nó còn cần và còn hăm hở muốn đi tiếp đến tận cùng một tính cách, thậm chí “ lộn trái” tính cách đó ra. Và dĩ nhiên nó làm việc đó không phải bằng lời văn nghị luận, mà thông qua chi tiết sống.


\Đúng Vũ Bằng là nguyên mẫu của nhân vật Hoàng, đúng trăm phần trăm. Khi viết truyện ngắn này, Nam Cao cũng từng kể với tôi trong một lần đi công tác, Nam Cao có tạt xuống ghé thăm vợ chồng Vũ Bằng tản cư ở gần đó. Nam Cao ở chỗ Vũ Bằng thuê trọ cả tuần, phát hiện vợ chồng bạn mình thường đọc Tam Quốc trước khi ngủ. Thế là Nam Cao viết. Vũ Bằng hay Hoàng của Nam Cao là điển hình cho thân phận và tâm tư, suy nghĩ chông chênh của một bộ phận tầng lớp trí thức tiểu tư sản thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp. Sau giải phóng miền Nam năm 1975, Vũ Bằng có gặp lại tôi bảo rằng rất thích nhân vật Hoàng. Biết là Nam Cao viết có ý giễu mình, nhưng vẫn thích.”

Hoặc một lời nhận xét của Tô Hòai: “Trong cái tâm trạng trụy lạc của người bạn bấy giờ, có một phần tâm trạng Nam Cao lúc trước. Nam Cao phỉ báng nó, ruồng rẫy nó, khước từ nó, cũng là phỉ báng, ruồng rẫy khước từ những cái gì lẫn lộn của mình xưa kia...”

Thế nghĩa là, trong Hòang có Vũ Bằng, nhưng theo Tô Hòai, trong Hòang ít nhiều còn có cả Nam Cao. Cuộc trò chuyện giữa Độ và hòang là sự đối thọai giữa hai con người khác hẳn nhau, nhưng trên một ý nghĩa nhất định, cũng là sự đối thọai giữa hai phân thân của một con người duy nhất là Nam Cao. Một nhận xét như thế này rất dễ bị hòai nghi vì Hòang rõ ràng tương phản hẳn với Nam Cao từ ngọai hình tới hòan cảnh sống và con mắt nhìn đời. Nhưng tôi vẫn cho là Tô Hòai có lí. Không phải chỉ vì Nam Cao đã trao cho Hòang còn nhiều hơn cho Độ tài quan sát, nhận xét và nhất là cái kiểu biện bác rất độc đáo của mình. Còn có một lẽ khác, chủ yếu hơn là từ thơi còn viết Chí Phèo, Lão Hạc, Một đám cưới v.v..., ta vẫn luôn luôn nhận ra một Nam Cao mà trái tim giàu ưu tư cứ phải chia sẻ thường xuyên cho hai tình cảm khá đối nghịch nhau: xa cách, cợt nhạo, mỉa mai và thông cảm, yêu thương, quí mến.

Tóm lại, Hoàng là một văn sĩ lạc hậu, kém nhân cách, lệch lạc trong nhìn người và nhìn đời, vô trách nhiệm đối với sự nghiệp kháng chiến của dân tộc. Với Hoàng “vẫn giữ đôi mắt ấy để nhìn đời thì càng đi nhiều, càng quan sát lắm, chỉ càng thêm chua chát và chán nản”.

Nam Cao hướng sự khẳng định của mình vào một con người không có gì nổi bật là anh văn sĩ Độ hiền hậu, rụt rè. Hóa ra lại chíng Độ, cái người không biết tự tán thưởng mình, cái người không hề một lần tỏ ra thông minh sắc sảo, mới là người biết nhìn nhận đúng đắn về cuộc sống. Độ thấy những bản chất mà Hoàng – vốn hòan tòan tự thỏa mãn trong đáy giếng của mình – đã không thể nhận ra. Không chối cãi rằng có anh thanh niên đọc bài “ba giai đọan” như con vẹt bếit nói, nhưng Độ còn thấy

bó tre anh ta vui vẻ vác đi để chống quân thù. Độ biết những anh bộ đội mắt tóet, răng đen, không gọi cho đúng nổi từ “lựu đạn”, không biết hát cho ra hồn bài Tíên quân ca. Nhưng Độ cũng biết họ chống giặc can đảm, hăng hái lắm. Và khi Hòang ru rú trong một cuộc sống không ra sống, không có cái gì có thể gọi là sức sống, thì Độ đã tìm ra lí tưởng cho đời văn, và đời người: hãy đến với nhân dân, hãy “mê mải đi sâu vào quần chúng để học và dạy họ”; và trên hết hãy làm tròn bổn phận của một người dân kháng chiến trước khi nghĩ đến chuyện làm văn...

Độ nghĩ thế, và dĩ nhiên Nam Cao cũng nghĩ thế, vì Độ chính là cái phần ít phức tạp nhất và được coi là đúng đắn nhất của Nam Cao. Độ là một nhà văn, một trí thức tiến bộ, giàu nhân cách, tích cực tham gia kháng chiến. Khẳng định một tam thế: “Sống đã rồi hãy viết” và Độ đã hăng hái tham gia và phục vụ kháng chiến.

Vấn đề “đôi mắt” là thái độ, là cách nhìn người, nhìn đời, là cách ứng xử với thời cuộc, với cuộc kháng chiến của dân tộc. Cũng là nhà văn nhưng Hoàng và Độ sống rất khác nhau “đôi mắt” của họ không giống nhau ở cách nhìn đời, nhìn người và cách sống…

Với nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, cách xây dựng nhân vật tương phản đối lập, bằng những chi tiết cụ thể, cá thể hóa, Nam Cao đã ghi nhận một thành công đầu tiên của văn xuôi kháng chiến, làm cho truyện “Đôi mắt” trở thành một tuyên ngôn nghệ thuật của một thế hệ nhà văn sau Cách mạng buổi nhận đường”
 
L

leejunki18

13.Vi Hành

Nghệ thuật châm biếm sâu cay trong truyện ngắn "Vi hành" của Nguyễn Ái Quốc.Hồ Chí Minh


Dàn bài gợi ý


I. MỞ BÀI

- Giới thiệu chung về tác giả Nguyễn Ái Quốc

- Hoàn cảnh ra đời của truyện ngắn, mục đích sáng tác truyện ngắn "Vi hành"

- Đặc sắc nghệ thuật của truyện: nghệ thuật châm biếm. Đây là thứ vũ khí nghệ thuật sắc sảo, đầy hiệu quả để tấn công kẻ thù của Nguyễn Ái Quốc.


II. THÂN BÀI

1. Xây dựng tình huống nhầm lẫn độc đáo

- Trên xe điện ngầm, đôi trai gái người Pháp tưởng nhầm tác giả là vua Khải Định đang "vi hành". Họ tha hồ bình phẩm, bàn luận về dáng vẻ, cung cách cử chỉ, lối ăn mặc và hành động của vị hoàng đế. Khiếu hài hước cùng trí tò mò, hiếu kì của họ càng làm cho nhân vật Khải Định càng trở nên lố bịch, hài hước hơn.

- Người Pháp đã nhầm, nhưng chính phủ Pháp cũng "nhầm" nốt: "Ngay đến chính phủ cũng chẳng nhận ra khách thật của mình nữa… bèn đối đãi mọi người An Nam vào hàng vua chúa và phái tuỳ tùng đi hộ giá tuốt". Qua đó, tác giả mỉa mai, tốc cáo hành động mật thám, theo dõi gắt sao những người Việt Nam yêu nước trên đất Pháp của bọn thực dân.

à tình huống nhầm lẫn đã đạt hiệu quả châm biếm cao, chế giễu trực diện mà vẫn giữ được thái độ khách quan khi kể chuyện.


2. Khắc hoạ nhân vật sắc sảo

Nhân vật Khải Định dù không xuất hiện trực tiếp nhưng đã được khắc hoạ đầy đặn, sắc sảo.

- Ngoại hình thô kệch, xấu xí "cái mũi tẹt ấy, đôi mắt xếch ấy, cái mặt bủng như vỏ chanh ấy".

- Phục sức kệch cỡm, lố lăng, rởm đời, "cái chụp đèn chụp lên cái đầu quấn khăn, các ngón tay thì đeo đầy những nhẫn", "hắn còn đeo lên người cả bộ lụa là, đủ cả bộ hạt cườm".

- Cung cách cử chỉ lúng túng, thiếu tự tin khi xuất hiện ở trường đua, trước công chúng, hé mở bản chất bù nhìn, vô dụng: "nhút nhát, lúng ta lúng túng".

- Hành động đi chơi vi hành (ẩn danh, lén lút) ám chỉ sự ăn chơi vô độ, không mấy đàng hoàng, cao thượng của Khải Định, phơi bày nhân cách nhem nhuốc của y.

- Sự xuất hiện của Khải Định trên đất Pháp: như trò giải trí rẻ tiền, một tin giật gân trên giấy báo: "cái kho giải trí sắp cạn ráo như B. Đ.D vậy. Nhật báo chẳng còn cái gì bôi bác lên giấy cả. Đúng lúc đó thì có một anh vua đến với chúng ta"; "Hôm nay chúng mình có tí tiền nào đâu mà được xem vua ngay bên cạnh. Nghe nói ông bầu nhà hát múa rối có định kì giao kèo thuê đấy". à vị vua An Nam như một thằng hề, một con rối giật dây, một kẻ mua vui không mất tiền, thậm chí là một con vật lạ thoả mãn tính hiếu kì của dân Pháp.

è chân dung Khải Định là bức chân dung biếm hoạ điển hình, là đối tượng bị đả kích, châm biếm sâu cay nhằm bóc trần bản chất ngu dốt, tầm thường, bù nhìn tay sai của hắn.


3. Ngôn ngữ và giọng điệu châm biếm thâm thuý, sâu cay

- Tiêu đề "Vi hành" mang nghĩa mỉa mai

- Lối nói ngược đầy mỉa mai, kiểu cười "ruồi" chết người: "Phải chăng là ngài muốn biết dân Pháp, dưới quyền ngự trị của bạn ngài là Alexăng đệ nhất, có được sung sướng, có quyền uống nhiều rượu, và được hút nhiều thuốc phiện bằng dân Nam, dưới quyền ngự trị của ngài hay không?"

"Đến nay, tất cả những ai ở Đông Dương có màu da trắng đều là những bậc khai hoá, thì bây giờ đến lượt tất cả những ai có màu da vàng đều trở thành hoàng đế ở Pháp".

"Các vị ân cần theo dõi tôi chẳng khác nào bà mẹ hiền rình con thơ chập chững bước đi thứ nhất"…

- Cuối cùng là giọng mỉa mai cay đắng: "Tôi không sao che giấu nổi niềm tự hào được là một người An Nam và sự kiêu hãnh được có một vị hoàng đế".


III. KẾT BÀI

- "Vi hành" là tác phẩm thể hiện sự thống nhất cao giữa nghệ thuật và chính trị.

- Tác phẩm là làn roi quất mạnh vào bè lũ thực dân và tay sai. Nghệ thuật châm biếm trở thành vũ khí lợi hại, là một mũi tên sắc nhọn đánh trúng hai mục tiêu: thực dân Pháp và vua Khải Định.

- Nghệ thuật châm biếm là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trào lộng hài hước của phương Tây và tính chất trào phúng thâm sâu của phương Đông.
 
L

leejunki18

15.Chiều tối

1) Tác giả

Hồ Chí Minh thuở nhỏ tên Nguyễn Sinh Cung, sau đổi tên là Nguyễn Tất Thành, lúc hoạt động cách mạng ở nước ngoài lấy tên Nguyễn Ái Quốc, sau khi về nước có tên là Hồ Chí Minh, sinh ngày 19/5/1890 tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Năm 1911, người ra đi tìm đường cứu nước. Tháng 1/1919, Người đưa ra bản Yêu sách của nhân dân An Nam về quyền bình đẳng, tự do đến Hội nghị Vecxay (Pháp).

Năm 1925, Người đã tham gia thành lập nhiều tổ chức cách mạng như việt nam thanh niên cách mạng đồng chí hội.

Tháng 2/1941, người về nước hoạt động và thành lập Mặt trận Việt Minh, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng ở trong nước giành thắng lợi trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945.

Từ 1942-1943, Người bị cầm tù trong nhà tù Tưởng Giới Thạch, bị giải qua nhiều nhà lao.

Ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh đọc bảng Tuyên ngôn Độc Lập tại quảng trường Ba Đình.

Năm 1946, Người được bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, lãnh đạo toàn dân giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thưc dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược.

Người qua đời ngày 2/9/1969.

Năm 1990, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã ghi nhận và suy tôn Người là “anh hùng giải phóng dân tộc Việt nam, nhà văn hoá lớn”. Sự nghiệp văn chương Người để lại rất phong phú, đa dạng về thể loại, đặ sắc về phong cách nghệ thuật.

2) Ngục trung nhật kí (Nhật kí trong tù):

Nhật kí trong tù là một tập thơ có hình thức nhật kí, gồm 135 bài thơ bằng chữ Hán, được nhà thơ Hồ Chí Minh sáng tác trong khoảng thời gian bị giam trong nhà tù Tưởng Giới Thạch.

Tập thơ chẳng những là bức tranh hiện thực tố cáo chế độ nhà tù, chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch mà còn là bức chân dung tự hoạ con người tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Nhật kí trong tù thể hiện một tài năng lớn với sự phong phú, đa dạng của bút pháp, sự thống nhất thẩm mĩ của những yếu tố khác nhau, thậm chí trái ngược nhau trong phong cách tự sự và trữ tình, trữ tình và trào phúng, cổ điển và hiện đại, hiện thực và lãng mạn,…

Nhật kí trong tù là một kiệt tác có nhiều nét tiêu biểu cho tư tường và nghệt thuật của nhà thơ lớn Hồ Chí Minh, là một tác phẩm có vị trí quan trọng trong văn học Việt Nam hiện đại, được đông đảo các thế hệ người đọc trong và ngoài nước rất trân trọng.

3) Mộ (Chiều tối):

Mộ là bài thơ thứ 31 trong số 135 bài của tập thơ Nhật kí trong tù.

Bài thơ được gợi cảm hứng tù một buổi chiều tối bị giải đi trong thời gian đầu Bác bị bắt. Đây là thời gian cực khổ nhất trong 14 tháng Người bị giam giữ.

II. NHỮNG NÉT ĐẶC SẮC VỀ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA BÀI CHIỀU TỐI:

Phiên âm:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không ;

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.


Dịch thơ:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không :

Cô em xóm núi xây ngô tối,

Xay hết, lò than đã rực hồng.


Bài thơ tứ tuyệt, như tên gọi, là một bức tranh vẽ cảnh chiều tối ở vùng núi. Chiều tối hiện ra trong mắt người tù đang bị giải chuyển lao thật ấm áp, đầy niềm tin yêu vào cuộc sống như cảnh trước mắt một người bình thường sống giữa núi rừng, tay không mang gông, chân chẳng bị xiềng. Chiều tối là thời khắc mọi người ai cũng bắt đầu nghỉ ngơi. Và chiều tối cũng là lúc mà đối với những kẻ xa quê, những người thất chí dễ tìm gặp hố sâu nỗi buồn trong tâm hồn mình. Đối với một người tù yêu nước như Bác thì sự thất vọng, buồn bã đúng ra phải còn nặng nề hơn. Thế nhưng qua cảnh chiều tối trong bài thơ, ta có thể dễ dàng cảm nhận được sự thư thái, ung dung của người đang ngắm nhìn cảnh vật, giữa lúc người đi đường ấy dừng chân nghỉ ngơi trong một xóm núi. Sự thư thái, ung dung mà chỉ những người khách tự do, những người không mang phiền toái trong lòng, người yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên mới có được.
 
L

leejunki18

Cảnh thiên nhiên trong hai câu đầu:

Hai câu thơ đầu vẽ lên cái nền của bức tranh phong cảnh buổi chiều đúng như tính chất bình thường của nó. Nghĩ đến buổi chiều, người ta thường nghĩ ngay đến mây trôi chầm chậm trên trời, đến những cánh chim đang bay về tổ ấm. Chiều tối hiện ra trước mắt người ngắm cảnh cũng đúng theo cái mô típ cổ điển đó trong thi ca xưa và cũng thật bình thường như thời gian và quy luật của cuộc sống.


Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ)


Trong thế giới mĩ thuật cổ điển phương Đông, hình ảnh cánh chim bay về rừng đã ít nhiều có ý nghĩa biểu tượng, ước lệ diễn tả cảnh chiều. “Phi yến thu lâm”, “Quyện điểu quy lâm”… những nhóm từ ấy thường gặp trong thơ chữ Hán. “Chim bay về núi tối rồi” (Ca dao), “Chim hôm thoi thót về rừng” (Truyện Kiều- Nguyễn Du), “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” (Chiều hôm nhớ nhà- Bà Huyện Thanh Quan)… và bao nhiêu nữa, những câu thơ tiếng Việt có cánh chim chiều. Dường như không có vài nét vờn vẽ mấy cánh chim xa xa thì bức tranh chưa rõ là cảnh chiều.

Bài thơ của Bác Hồ mở đầu bằng cánh chim lấy từ thế giới nghệ thuật cổ điển phương Đông đó và chỉ với câu đầu, cái phong vị, cái không khí cổ thi đã khá rõ. Song trong sâu thẳm của Hồ Chí Minh đâu phải chỉ có tâm hồn nghệ sĩ cổ điển. Trong tranh xưa vẽ cảnh chiều – tranh bằng tranh hoặc tranh bằng thơ – cánh chim thường chỉ là một chi tiết thuần túy có ý nghĩa thẩm mĩ, một nét nên thơ, nên họa cần thiết thêm vào để gợi ý cảnh chiều. Còn cánh chim ở đây không chỉ là mấy nét vờn vẽ của một hoạ sĩ, dường như Bác không nhìn theo cánh chim bay về rừng chỉ với cái nhìn thưởng thức thẩm mĩ của một nghệ sĩ, mà nhiều hơn là với đôi mắt lưu luyến, trìu mến của một tấm lòng yêu thương, cảm thông đối với một biểu hiện của sự sống. Cánh chim trong “Chiều tối” hiện ra có nét gì đó thoáng rộng, nhẹ nhàng, mở ra được cái linh hồn của tạo vật, của thiên nhiên. Những cánh chim này đều có sự sống, chúng đang hoạt động. Chúng không “cao phi tận” như trong bài “Độc toạ kính dình sơn” của Lý Bạch, cũng không là “thiên sơn điểu phi tuyệt” như của Liễu Tông Nguyên đời Đường. Chúng đang chủ động bay “về rừng tìm chốn ngủ” sau một ngày bay đi kiếm ăn thật mỏi mệt. Có lẽ Bác bị giải đi cả ngày quá mệt mỏi nên đã đồng cảm với cánh chim “quy lâm” kia. Cánh chim thì đã có chốn để ngủ sau một ngày mệt mỏi, nhưng Bác vẫn chưa được dừng bước, không rõ đi đến đâu, cũng không biết bao giờ có được chốn ngủ như những cánh chim kia. Đặt bài thơ trong hoàn cảnh cụ thể của tác giả, ta có thể cảm nhận một nỗi u hoài man mác dâng lên trong lòng người bị giải đi. Đó là tình cảnh mất tự do trên đất khách quê người, giữa cảnh vật ảm đạm của một buổi chiều tàn, và khát vọng được quay về quê hương người tù đang trên đường bị áp giải. Bầu trời buổi chiều tối chỉ còn vương lại một chút ánh sáng nhạt mờ, vừa đủ cho nhà thơ nhận ra một chòm mây lẻ loi đang lững lờ trôi:


Cô vân mạn mạn độ thiên không

(Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)


Đọc câu thơ, ta thấy thời gian đang lặng lẽ theo nhịp đập của cánh chim trời, theo chòm mây cô đơn lặng lẽ. Trong cả cảnh núi non, mây trời, nhà thơ đã bắt được linh hồn của cảnh vật, từ đó dùng cảnh vật mà gợi ra cảnh chiều tà - một buổi chiều vắng lặng yên ả nơi núi rừng. Bầu trời chiều ở nơi núi rừng hoang sơ này thật thoáng đãng, cao rộng, trong trẻo và rất yên tĩnh nên mới có thể làm nổi bật lên hình ảnh chòm mây lẻ loi (cô vân) đang trôi chầm chậm (mạn mạn) ngang qua (độ) bầu trời. Chòm mây đó như làm cho không gian thêm mênh mông vô tận, thời gian như dừng lại, lắng xuống, làm ta có cảm giác như áng mây đó cũng đang cô đơn và mệt mỏi như những cánh chim, như người tù đang trên đường bị áp giải.

Trong câu thơ trên, chính những từ “cô”, “mạn mạn” và bút pháp mượn điểm vẽ diện, lấy cái cực nhỏ diễn tả cái bao la, dùng cái di động thể hiện cái yên tĩnh làm cho câu thơ trở nên rất Đường, Đường trong cấu trúc nghệ thuật, trong cả từ ngữ, chi tiết, hình tượng, âm điệu, tức là trong từng yếu tố.

Hai câu đầu bài Mộ rất cổ điển, rất Đường thi nhưng cũng rất hiện đại. Hiện đại ở cách quan sát, cách tả các hoạt động của sự vật. Cánh chim không bay một cách vô định cũng không biến mất giữa không trung mà lại bay về tổ để nghỉ ngơi, giống như lòng Bác lúc nào cũng hướng về quê hương, Tổ quốc. Áng mây trôi lơ lửng giữa bầu trời như chính Bác vậy, một mình nơi đất khách, nhưng Bác không cô đơn vì trong Bác luôn sôi sục ý chí quyết tâm đấu tranh giải phóng dân tộc.

2) Cảnh sinh hoạt của con người trong hai câu sau:

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng

Như những bức tranh theo phong cách cổ điển, bức tranh chiều tối của Hồ Chí Minh có bố cục hài hòa, với những mảng xa gần, đậm nhạt rõ rệt. Nếu như hai câu đầu dựng lên tấm phông làm nền thì hai câu này làm nổi lên hình tượng trung tâm của bức tranh.


Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

(Cô gái xóm núi xây ngô tối)


Câu thơ thật giản dị, giản dị tới đơn sơ: 7 chữ song chỉ 4 từ, một câu trần thuật tối giản, một thông báo bình thường trong khẩu ngữ hàng ngày, lại dùng tiếng nói địa phương (bao túc: ngô tiếng Quảng Tây). Đó là điều mà phong cách quý phái của thơ cổ điển nói chung, thơ Đường nói riêng, rất kiêng kị. Điều lạ là câu thơ có vẻ ít giọng thơ mà gần như một câu văn xuôi ấy lại rất đẹp, lại lấp lánh sinh động lạ thường. Phải chăng vì hai tiếng thiếu nữ tự nó bao hàm sắc thái ý nghĩa tươi mát trẻ trung? Vì âm điệu nhịp nhàng của câu thơ có láy âm sang câu sau, phù hợp với việc diễn tả hành động xay ngô nhịp nhàng uyển chuyển?

Trong một bài thơ tứ tuyệt, câu thứ ba có một vị trí rất đáng chú ý. Nó không liền vần với ba câu kia và có tư thế tương đối độc lập nêu ra để làm nổi bật ý thơ. Và vì vậy hình tượng cô gái xay ngô đã hiện lên nổi bật trở thành trung tâm của bức tranh. Với nét vẽ đậm khoẻ đó, Bác Hồ đã đặt người con gái lao động ở vị trí chủ thể của thiên nhiên tạo vật và đẩy lùi ra phía sau, nền trời chiều với cánh chim, chòm mây… Từ bức tranh thiên nhiên trở thành bức tranh đời sống, bức tranh sinh hoạt, từ trời mây chim muông chuyển sang con người cà lại là con người lao động. Đó là xu hướng vận động của cấu trúc bài thơ, là logic của hình tượng thơ, phản ánh cái logic lớn của tâm hồn nhà thơ trữ tình.
 
L

leejunki18

Trong những bài thơ vịnh cảnh chiều nổi tiếng xưa cũng thấp thoáng bóng người:

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà



Gác mái ngư ông về viễn phố

Gõ sừng mục tử lại cô thôn

(Qua đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan)

Song đó chỉ là những chấm phá ước lệ, những ngư, tiều, canh, mục được điểm xuyến trên tranh lẫn với chim chóc, cỏ cây, hoa lá, với ngàn mai gió cuốn, dặm liễu sương sa… Có con người mà không có sự sống. vậy thì đó cũng chỉ là thiên nhiên đấy thôi.

Từ chú tiều lom khom lẫn với cây cỏ dưới chân đèo Ngang, một ngư ông, một mục tử đang tìm về cô thôn, viễn phố để nhòa dần trong buổi chiều tối đến cô gái xóm núi xay ngô sinh động, khỏa khoắn nổi bật giữa cảnh chiều, có sự khác nhau của hai phạm trù thẩm mĩ, hai thế giới quan của hai thời đại.

Bản dịch dịch câu “Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc” thành “Cô em xóm núi xây ngô tối”. Nhưng trong bản chữ Hán không có chữ nào mang nghĩa “tối” cả, chỉ có “xay ngô”. Đúng là bài thơ đang tả cảnh chiều tối, cô gái cũng đang xay ngô chuẩn bị cho buổi tối, nhưng nếu đặt chữ “tối” vào đây thì quá sớm và lộ quá. Nguyên văn không nói đến tối mà tự nhiên nói đến: thời gian trôi dần theo cánh chim và làn mây, theo những vòng xoay của cối ngô, quay, quay mãi, “ma bao túc, bao tuc ma hoàn”… và đến khi cối xay dừng lại thì “lò than đã rực hồng”, tức là trời đã tối. Trời tối nên mới thấy được ánh lửa rực lên. Nhịp câu thứ tư là nhịp 4-3, nhịp ba ngắn, tức là chấm dứt cho cả một sự vận động, chuyển biến đúng với cái tối đến nhanh, thu dần vào cuộc sống bên lò than, rồi toả cái ấm ra theo âm thanh nồng ấm của chữ “hồng”.

Trong một bài thơ Đường hàm súc, chữ cuối cùng thường có một sức nặng truyền cảm đặc biệt, nó góp phần quan trọng tạo nên cái dư vị, cái âm hưởng vang ngân của bài thơ. Chữ “hồng” kết thúc bài Mộ thật tự nhiên mà thật bất ngờ. Bếp lửa “hồng” lên, nghĩa là buổi chiều tàn êm ả mà thời gian tưởng như không trôi đã đến lúc kết thúc để bắt đầu vào tối đêm, song không phải đêm tối âm umà ngọn lửa hồng ấm áp, bừng sáng.

Bài thơ mở đầu bằng cái nhìn bao quát toàn cảnh cả nền trời bao la rồi chuyển đến hình ảnh cô gái xay ngô ở cận cảnh, cuối cùng, đốm lửa hồng bật sáng, trở thành trung tâm của bức tranh. Chữ “hồng” làm sáng bừng cả bức tranh, làm sôi động, ấm cúng hẳn lên không khí âm u của buổi chiều xóm núi. Không phải là một ngọn đèn khuya leo lét chong suốt đêm sâu dày đặc gợi nỗi niềm cô đơn sầu muộn mà là một bếp lửa sinh hoạt gia đình ấm cúng, là ngọn lửa hồng lao động, ngọn lửa của sự sống. Buổi chiều muộn nơi núi rừng hiu quạnh lẽ ra rất buồn bã thê lương trước con mắt của người tù xa quê, đang trên đường bị áp giải đi đường xa mà không được nghỉ ngơi, đáng lẽ bài thơ là một khúc bi ai oán những nỗi thống khổ của con người thì trái lại,bài thơ lại là tiếng reo vui kín đáo, tuy kín đáo mà lại rất vui, cái vui tràn đầy sự sống. Chính chữ “hồng” đã góp phần quyết định tạo nên cái dư vị tích cực, cái âm hưởng lạc quan đó của bài thơ, và bài thơ từ màu sắc cổ điển, bỗng toả sáng một tinh thần hiện đại.

III. KẾT LUẬN:

Mộ là một bức tranh thơ đẹp về cảnh chiều tối, rất nên thơ nên tranh. Bài thơ đã thể hiện rõ tình cảm yêu thiên nhiên thật đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong sâu thẳm tâm hồn người chiến sĩ cách mạng vĩ đại luôn đứng ở nơi đầu sóng ngọn gió, tắm mình trong bão táp của thời đại ấy vẫn dành chỗ cho một khoảng trời trong trẻo của một buổi chiều thu êm ả. Bài thơ là một thể hiện đầy đủ nhất cốt cách nghệ sĩ cũa nhà thơ lớn Hồ Chí Minh: vừa chứng tỏ sự bền vững sâu xa của những giá trị tinh thần truyền thống ở Bác, vừa cho thấy sự phong phú, hài hoà tuyệt đẹp của tâm hồn con người mang trong mình nền văn hoá tương lai. Song, bài thơ không chỉ là một bức tranh phong cảnh thuần túy. Nó là một bức tranh kết hợp giữa phong cảnh tuyệt đẹp của một buổi tối nơi xóm núi hoang sơ với vẻ đẹp yên bình của một đời sống lao động bình thường nhưng chứa đầy sự ấm áp. Có lẽ đó là sự ấm áp của ngọn lửa hồng trong lò than đang lan toả ra ngoài, cũng có lẽ đó là hơi ấm của một cuộc sống gia đình sum họp.

Có thể nói rằng thơ thiên nhiên của Bác, điển hình là bài Mộ, khẳng định mối quan hệ rất mới của con người và thiên nhiên, con người không hoà tan, cũng không đối lập mà là làm chủ thiên nhiên, là trung tâm của thiên nhiên, cả con người và thiên nhiên hài hoà trong niềm vui, sự sống bất diệt. Đó cũng là một biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản ở Bác Hồ. Chủ nghĩa nhân đạo là cái gốc của triết học, cái gốc chính trị của nhà tư tưởng, vị lãnh tụ cách mạng Hồ Chí Minh, cũng là cái gốc nghệ thuật của nhà thơ Hồ Chí Minh. Với bài Mộ, tinh thần nhân đạo đó lại được biểu hiện thật cảm động trong cảnh ngộ của Bác, đó chẳng phải là hình tượng quên mình đến tuyệt đối hay sao? Không chút vướng bận vì nỗi đày đoạ mà bản thân đang phải chịu, Người đã chia sẻ, hoà mình với tự nhiên, vào mọi niềm vui nỗi khổ của nhân dân. Bài thơ trở thành minh chứng đẹp đẽ về tấm lòng nhân ái và sâu rộng đến vô hạn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ngoài chất thơ, lòng nhân hậu, bài thơ còn thể hiện một chất thép vĩ đại. Trên đường bị đày ải, tuy rất khổ cực nhưng Người vẫn làm thơ. Điều đó đã thể hiện một nghị lực thần thánh, một bản lĩnh phi thường của người chiến sĩ cách mạng vĩ đại. Không những thế, những vần thơ của Người làm ra không thê lương mà ngược lại, đây là một khúc ca vui, cái vui lặng lẽ không ồn ào mà dân tràn lên trong cuộc sống. Bài thơ khép lại mà ngọn lửa hồng cứ còn lung linh, làm ấm lòng người đọc mãi sau này.

Bài thơ đọc xong vẫn còn như thấy lâng lâng chòm mây trôi nhẹ giữa bầu trời bao la và ngọn lửa hồng vừa hừng lên cứ lung linh toả sáng.
 
L

leejunki18

Tất cả tài liệu này là tớ download trên mạng........

Khỏi thắc mắc nhiều nhé
 
L

leejunki18

Chiếc thuyền ngoài xa--Nguyễn Minh Châu

Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, dù có là tiểu thuyết hay truyện ngắn, cốt truyện thường không đóng một vai trò nào đáng kể. Nhà văn tập trung chú ý vào thân phận con người, tính cách nhân vật và đã huy động vào đấy tâm hồn đa cảm dồi dào ấn tượng tươi mới và xúc động về cuộc sống, bút pháp chân thực và một giọng văn trữ tình trầm lắng ấp áp” (Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi mới cách nhìn về con người, T.C Văn học, 1993, số 3, tr.20). Có thể nói Chiếc thuyền ngoài xa là một biểu hiện của xu hướng tìm tòi khám phá trong văn của Nguyễn Minh Châu, trở về với đời thường, với mảnh đất miền Trung cằn cỗi và cơ cực, đau đáu đi tìm câu hỏi cho những phận người trong cuộc sống đời thường trăm đắng ngàn cay. Trên tinh thần quyết liệt đổi mới, Nguyễn Minh Châu đã lấy con người làm đối tượng phản ánh thay cho hiện thực đời sống. Mặc dù không phủ nhận văn chương gắn với cái chung, với cộng đồng nhưng Nguyễn Minh Châu còn muốn thể hiện một quan niệm văn chương trước hết phải là câu chuyện của con người, với muôn mặt phức tạp phong phú với tất cả chiều sâu.

Hiện thực của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa không phải là bức tranh hoành tráng của mảnh đất chiến trường xưa A So từng ghi dấu bao chiến công, cũng không phải là những con người tạc dáng đứng hào hùng của mình vào lịch sử. Nhân vật Phùng trở về với mảnh đất từng chiến đấu, một người lính năm xưa giờ là phóng viên ảnh trở về ghi lại những vẻ đẹp cuộc sống đời thường cho bộ ảnh lịch quê hương đất nước, phản ánh cuộc sống lao động khoẻ khoắn tươi rói của những con người dựng xây đất nước, đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của màn sương buổi sáng bổ sung cho tấm ảnh lịch hoàn chỉnh (!). Thế nhưng, những gì anh chứng kiến đã khiến anh và những người bạn của mình nhận ra một sự thật gắn với cuộc sống của những người dân chài lam lũ: “Cuộc sống cứ lênh đênh khắp cả một vùng phá mênh mông. Cưới xin, sinh con đẻ cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm giềng không có. Quê hương bản quán cả chục cây số trời nước chứ không cố kết vào một khoảnh đất nào”. Từ cuộc sống ấy, những bi kịch tiềm ẩn khiến con người phải ngỡ ngàng. Một câu chuyện đơn giản nhưng đã chứa đựng những phát hiện mới mẻ hàm chứa quan niệm văn chương hướng về con người của Nguyễn Minh Châu. Nếu chỉ nghĩ suy một cách xuôi chiều đơn giản, cuộc sống khi có ánh sáng cách mạng sẽ đổi đời cho số phận người lao động, sẽ xoá tan những bi kịch đè nặng lên kiếp người. Thế nhưng Nguyễn Minh Châu đã chỉ rõ cho chúng ta : cách mạng không phải giải quyết bi kịch trong một sớm một chiều, con người vẫn phải đối diện với những bi kịch đời mình, dung hoà với nó. Cách lý giải về con người của Nguyễn Minh Châu còn ẩn chứa những suy ngẫm về số phận dân tộc phải trải qua những khổ đau để đối diện với hiện thực bao thách thức.

Người nghệ sĩ nhiếp ảnh đi tìm những vẻ đẹp đích thực của cuộc sống, ngỡ như anh đã phát hiện ra một khung cảnh thật đáng yêu đáng ca tụng, hướng người xem về cái đẹp có thể làm quên đi những phiền não cuộc sống: “Qua khuôn hình ánh sáng, tôi đã hình dung thấy trước những tấm ảnh nghệ thuật của tôi sẽ là vài ba chiếc mũi thuyền và một cảnh đan chéo của những tấm lưới đọng đầy những giọt nước, mỗi mắt lưới sẽ là một nốt nhạc trong bản hòa tấu ánh sáng và bóng tối, tượng trưng cho khung cảnh bình minh là một khoảng sáng rực rỡ đến mức chói mắt, trong khoảng sáng đó sẽ hiện lên trong tầm nhìn thật xa những đường nét của thân hình một người đàn bà đang cúi lom khom, sải cánh tay thật dài về phía trước kéo tấm lưới lên khỏi mặt nước, và phía sau lưng người đàn bà, hình một ngư phủ và một đứa trẻ đứng thẳng trên đầu mũi thuyền, dùng lực toàn thân làm đòn bẩy nâng bổng hai chiếc gọng lưới chĩa thẳng lên trời.” . Và những người dân vùng biển ấy hiện lên thật đáng yêu, đáng ca ngợi: cuộc sống lao động đầm ấm khoẻ khoắn, những con người gặp gỡ thật đáng yêu…Tất cả những ấn tượng ấy sẽ không bị phá vỡ nếu như không có sự xuất hiện của chiếc - thuyền – ngoài – xa. Người đàn ông xuất hiện cùng với người đàn bà trong khung cảnh nên thơ đã nhanh chóng phá vỡ đi cảm giác thăng hoa nghệ thuật bằng trận đòn dây lưng quật thẳng tay vào người vợ không thương xót. Có lẽ khó ai hình dung cảnh tượng ấy lại diễn ra trong bối cảnh cuộc sống mới, nó hoàn toàn đối lập với điều chúng ta hằng xây dựng cho cuộc sống này “người yêu người, sống để yêu nhau” (Tố Hữu). Điều bất công diễn ra nhức nhối trước mắt người lính từng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng con người đã làm nên một cơn giận bùng phát. Bản thân anh nghĩ về người đàn ông kia như “gã đàn ông “độc ác và tàn nhẫn nhất thế gian”, còn người phụ nữ xấu xí mặt rỗ kia đích thị là nạn nhân đáng thương nhất của nạn bạo hành trong gia đình. Hành động tấn công gã đàn ông khiến cho anh ngộ nhận mình là anh hùng: “Tôi nện hắn bằng tay không, nhưng cú nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng. Tôi đã chiến đấu trong mấy ngày cuối cùng chiến tranh trên mảnh đất này. Bất luận trong hoàn cảnh nào tôi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đánh”. Nhưng phản ứng của người đàn bà trước ông chánh án đã khiến anh choáng váng: “Quí tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...”. Hoá ra, người cần được thông cảm lại là những quan toà cách mạng có lòng tốt nhưng “các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Người đàn bà khốn khổ ấy đã không chối bỏ người đàn ông đích thực của mình, dù trong lòng đau đớn khi hàng ngày phải chịu những trận đòn, phải chứng kiến cảnh hai cha con đối xử với nhau như kẻ thù, phải chấp nhận cuộc sống đương đầu nơi gió bão.Có người đã nhận định: Chiếc thuyền ngoài xa là hình tượng có ý nghĩa biểu tượng, như vẻ đẹp của một bức tranh toàn bích, nhưng đàng sau hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp là cuộc sống đầy khắc nghiệt, dữ dội và những số phận con người vật vã trong cuộc mưu sinh. Hoá ra hành trình tìm kiếm hạnh phúc không hề đơn giản : người đàn ông kia dù cục súc nhưng trên chiếc thuyền phải có lúc có đàn ông, hạnh phúc đơn giản khi cả nhà quây quần trong bữa ăn trên chiếcthuyền khiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng tất cả. Hành trình của gia đình kỳ lạ kia vẫn tiềm ẩn những nguy cơ: đứa con yêu mẹ sẵn sàng đánh nhau với bố, thủ dao găm tìm dịp trả thù, những trận đòn tàn khốc có thể làm cho người đàn bà kia gục ngã bất cứ lúc nào…Thế nhưng trong cuộc sống nghèo khổ, chật vật và ngày ngày phải nuôi đủ cho mười miệng ăn trên chiếc thuyền ọp ẹp, người đàn bà ấy là hiện thân của một sự hy sinh vô bờ bến.Tình yêu chồng con được nhìn nhận từ cuộc đời trăm đắng ngàn cay có vẻ đẹp riêng khiến cho “một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển”. Sự vỡ lẽ ấy chính là sự phá vỡ những quan niệm giản đơn về tình yêu, hạnh phúc, về lòng nhân ái, sự khoan dung…mang giá trị nhân bản sâu sắc. Những kết hợp ấy trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đem đến cái nhìn đa diện về số phận con người.

Nếu như trước kia, trong văn học 1945 – 1975, khi đề cập đến số phận con người thì bao giờ các nhà văn cũng đề cao vào khả năng con người vượt qua nghịch cảnh và những tác động của môi trường, của xã hội mới sẽ giúp con người tìm thấy hạnh phúc. Khi diễn tả sự vận động của tính cách con người, các nhà văn cũng thường nói về sự vận động theo chiều hướng tích cực, từng bước vượt lên hoàn cảnh, hồi sinh tâm hồn. Cách minh họa tư tưởng ấy không tránh khỏi có phần giản đơn và phiến diện. Nguyễn minh Châu đã không đi theo con đường mòn đó. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn đã nói về những nghịch lý tồn tại như một sự thật hiển nhiên trong đời sống con người. Bằng thái độ cảm thông và sự hiểu biết sâu sắc về con người, ông đã cung cấp cho ta cái nhìn toàn diện về cái đẹp cuộc sống, hiểu cả bề mặt lẫn chiều sâu. Nguyễn Minh Châu đã từng phát biểu: “Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người” (Phỏng vấn đầu xuân 1986 của báo Văn nghệ), “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người vhà cuộc đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực” (Ngồi buồn viết mà chơi). Tư tưởng ấy được thể hiện trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa như một minh chứng cho tấm lòng hướng về con người, khả năng giải mã những mặt phức tạp của cuộc đời. Bức thông điệp trong tác phẩm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống là nhận thức thấm thía : “cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.”(Lê Ngọc Chương- Chiếc thuyền ngoài xa, một ẩn dụ nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu). Kết thúc tác phẩm, người nghệ sĩ đã hoàn thành kiệt tác của mình đem đến cho công chúng những cảm nhận về vẻ đẹp tuyệt mỹ của tạo hoá, thế nhưng mấy ai biết được sự thật nằm sau vẻ đẹp tuyệt vời kia? Phần kết của tác phẩm để lại nhiều suy ngẫm: “Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.”.Cuộc sống vốn vậy, vẫn đẹp tươi, vẫn êm ả, nhưng nếu không có tấm lòng để nhận ra những uẩn khúc số phận thì những vẻ đẹp như màu hồng hồng của ánh sương mai kia cũng trở nên vô nghĩa, người nghệ sĩ phải nhận ra sự thật ẩn khuất sau màn sương huyền ảo kia, phải tiếp cận sự thật để nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống và con người.
 
L

leejunki18

Một người Hà Nội-Nguyễn Khải

Trong Một người Hà Nội, Nguyễn Khải viết bằng sự trải nghiệm của chính ông, một người gắn bó Hà Nội, am hiểu sâu sắc nếp sống thanh lịch Tràng An từ chính gia đình ông. Nhân vật bà Hiền là một gương mặt đặc biệt mang những nét tính cách Hà Nội đậm nét. Một con người đã chứng kiến những thay đổi trong suốt những năm tháng Hà Nội chuyển mình từ xã hội tư sản trước cách mạng thành Hà Nội theo mẫu hình xã hội chủ nghĩa. Những cơn trở dạ của lịch sử đã hằn dấu vào tâm tư những người Hà Nội với tất cả những tác động vào nếp sinh hoạt, nhưng dường như nét “bảo thủ” trong tâm hồn Hà Nội không dễ gì chấp nhận sự thay đổi phá vỡ đi nếp sống ngàn năm văn vật. Biệt tài của Nguyễn Khải dường như phát huy rất rõ nét trong tác phẩm này, đó là khả năng lý giải những biến chuyển trong tâm hồn, lý giải mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh. Nhưng có thể thấy sự khác biệt trong cách lý giải của nhà văn từ Mùa Lạc viết những năm 58 - 60 đến Một người Hà Nội viết vào thập kỷ 90. Nhân vật chị Đào trong Mùa Lạc là con người hoà nhập vào hoàn cảnh cuộc sống mới, vượt qua những mặc cảm thân phận, lột xác hồi sinh, từng bước hoà nhập với cộng đồng. Còn ở Một người Hà Nội, bà Hiền xuất hiện trong tác phẩm là một người dường như không dính dáng những biến động chính trị, nhưng vẫn chịu sự tác động của hoàn cảnh môi trường. Đặt vào bối cảnh đầy biến động của lịch sử, người phụ nữ ấy vẫn giữ nếp nhà như một cách ứng xử “dĩ bất biến ứng vạn biến”, giữ vẹn cốt cách người Hà Nội. Cùng với thời gian, sự lịch lãm dường như là tích tụ tinh hoa con người Hà Thành này.Con người trong tác phẩm không nhẹ dạ, cả tin, xốc nổi, sống theo phong trào và cũng không quay lưng với xã hội, sống một cách tỉnh táo cân nhắc. Nguyễn Khải đã lý giải tính cách đặc biệt của bà Hiền từ gốc gác gia đình, miêu tả một cách tỉ mẩn nếp ăn, ở, sinh hoạt mang theo phong thái kiểu cách, sang trọng, luôn đề cao nếp nhà. Nhân vật có lý lịch phức tạp: vừa phong kiến, vừa có hơi hướng tư sản. Nếu xét theo tiêu chí thành phần, thì bà Hiền lại có gốc gác lao động mà nên, mà giàu có một cách lương thiện, một lý lịch rối rắm đến nỗi con cháu trong nhà cũng coi bà là tư sản, một thành phần cần phải lánh xa trong xã hội mới nếu không muốn chuốc lấy phiền toái. Vậy mà, một nhân vật đã từng giao du với giới văn nghệ sĩ Hà Thành nổi tiếng lịch lãm và tài hoa từ khi còn trẻ, đến lúc lập gia đình lại gắn cuộc đời với một ông giáo tiểu học, âu cũng là sự khác lạ trong tính cách, trong quan niệm về tình yêu và hôn nhân. Bà Hiền là một kiểu người hoàn toàn không thích hợp với dòng văn học ca ngợi cuộc sống mới, con người mới trước kia, nhưng hoàn toàn không phải là một loại nhân vật trở thành đối tượng phê phán của Nguyễn Khải như “cái thời lãng mạn”.

Sống trong môi trường xã hội mới, khi những làn sóng qui chụp lý lịch thành phần, sự đề cao đấu tranh giai cấp luôn là nỗi ám ảnh, tác động vào những người trong gia đình: “Ăn cốt để sống, để làm việc, hay hớm gì cái thứ lễ nghi rườm rà của … giai cấp tư sản”, “đã là tư sản thì không thể tin cậy được” thì bà vẫn sống một cách đàng hoàng sang trọng bởi bà tin tưởng: “Tao có bộ mặt tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được.” Đó là thái độ bình thản trước hoàn cảnh, bất chấp mọi sự nghi kỵ thành kiến. Không hẳn mọi tính cách Hà Nội đều là những giá trị, nhưng nhà văn đã khai thác vào mối quan hệ con người hoàn cảnh theo một cách nhìn mới, không ngần ngại chỉ ra những nét ấu trĩ trong quan niệm của một thời, chẳng hạn cách thích nghi hoàn cảnh chế độ mới, từ chồng đến con bà Hiền đều gọi “đồng chí” với người cháu đến thăm nhà. Hay cái thái độ ứng xử nhằm “thích ứng” của bà Hiền cũng được diễn tả một cách rõ ràng và táo bạo : “Chế độ này không thích cá nhân làm giàu, chỉ cần họ đủ ăn, thiếu ăn một chút càng hay, thiếu ăn là vinh chứ không là nhục, nên tao cũng chỉ cần đủ ăn.” Những câu văn như thế trong Một người Hà Nội là một minh chứng cho sự thay đổi trong quan niệm về con người, của một xu hướng nói thẳng nói thật của văn học thời đổi mới, mà một cách nhìn như vậy trước kia sẽ dễ bị các nhà phê bình qui chụp cho là “mất lập trường”. Nhân vật bà Hiền là một mẫu hình của người Hà Nội với tất cả sự lịch lãm khôn ngoan nhưng không đến nỗi lạnh lùng duy lý: “Mọi sự mọi việc đều được các bà ấy tính toán trước cả. Và luôn luôn tính đúng vì không có lòng tự ái, sự ganh đua, tính thời thượng chen vô. Không có cả sự lãng mạn hay mơ mộng vớ vẩn. Đã tính là làm, đã làm là không thèm để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ.”. Đó là cách sống biết rõ giá trị và khả năng của mình, nhưng không phải là lối sống ích kỷ, bo bo vun vén cho riêng mình theo chủ nghĩa cá nhân tư sản hoàn toàn.

Nhà văn còn khai thác nét tính cách nhân vật khi đặt vào trong những giờ phút trọng đại có ý nghĩa sống còn với dân tộc để người đọc biết đến một sự thực tâm hồn những người mẹ trong thời chiến tranh. Trong văn học trước 1975, có lẽ những hoàn cảnh tiễn người thân ra trận sẽ được khai thác tập trung vào cảm hứng sử thi, ca ngợi hình ảnh người ra đi tươi vui, người ở nhà tin tưởng và lời hẹn trở về trong chiến thắng vinh quang. Nguyễn Khải đã không diễn tả theo đường mòn cũ mà cho chúng ta nhìn thấy một sự thật về con người trong thời chiến. Người mẹ ấy đã chấp nhận cho đứa con đầu ra mặt trận, trong một tâm trạng thật đặc biệt như bao bà mẹ khác. Khi người cháu hỏi : “Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ?” bà đã nói ra một sự thật: “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hy sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng.”. Xét cho cùng, đó cũng là lòng tự trọng của một người mẹ, của một người ý thức rõ trách nhiệm công dân của mình,trong thời điểm “những năm đất nước có chung một tâm hồn, một gương mặt”. Không chỉ có vậy, cả người con trai thứ hai hừng hực khí thế thanh niên thời đại đòi lên đường, bà cũng có một cách ứng xử thể hiện rõ phẩm cách một người mẹ hiểu rõ tâm tư thế hệ con cháu: “Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”. Nhà văn không chỉ khai thác hình tượng người mẹ thời chiến dưới một góc nhìn mới, mà còn thấy được sự ảnh hưởng lan truyền thế hệ, khi lòng tự trọng dân tộc đã hoà quyện niềm tự hào nếp nhà, để những đứa con sống xứng đáng với niềm tự hào của mẹ. Cái tinh tế trong đời sống tình cảm của người Hà Nội chính là thái độ biết chia sẻ trước đau thương mất mát của người mẹ khác. Trong giờ phút hân hoan mừng chiến thắng, điều xúc động lại chính là nỗi đau thấm thía được phát biểu qua câu nói của Dũng – con bà Hiền, người lính can trường trở về trong vinh quang nhưng hiểu rõ giá trị của sự hy sinh, khi sáu trăm sáu mươi người trai Hà Nội ra đi chỉ trở về hơn bốn chục người, khi người bạn thân nằm lại chiến trường ngay trước giờ chiến thắng: “Cháu biết nói thế nào với một bà mẹ có con hy sinh, mà bạn của con mình lại vẫn còn sống, sống đến bây giờ, đến hôm nay”. Đó là giá trị nhân bản của cuộc chiến đấu, được tính bằng máu! Không thể vì niềm hân hoan hội ngộ, vinh quang chiến thắng mà được phép quên đi! Nguyễn Khải đã khai thác vào một góc khuất của chiến tranh mà trước đó văn học ta mới chỉ khai thác cái hùng tráng mà chưa nói nhiều về bi kịch của từng gia đình, từng số phận trong chiến tranh. Vào thời điểm ấy, cách nhìn của nhà văn đã có sự chuyển hướng so với văn học giai đoạn trước, hướng đến với cái bình thường.

Bà Hiền đã giữ nếp nhà bất di bất dịch suốt một đời người. Đó thực chất là cái mà nhà văn đã từng tâm niệm: “Nói cho cùng, để sống được hàng ngày tất nhiên phải nhờ vào những “giá trị tức thời”. Nhưng sống cho có phẩm hạnh, có cốt cách nhất định phải dựa vào những giá trị bền vững” (Nguyễn Khải, tuyển tập tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn, Hà nội, 1999). Giá trị văn hoá ấy kết tụ trong một người phụ nữ vô danh, bình thường cũng đã kết tụ tầng sâu văn hoá đất kinh kỳ xưa. Ngay cả khi cơn lốc dữ dội của nền kinh tế thị trường làm xói mòn đi nếp sống của Hà Nội ngàn năm văn vật thì cũng không thể làm lay chuyển ý thức của những con người luôn tin vào giá trị văn hoá bền vững của Hà Nội không thể mất đi. Chỉ ra những nét tính cách phức tạp nhưng hết sức hợp lý của một người phụ nữ bình thường, Nguyễn Khải đã đề cao nét đẹp văn hoá Hà Nội ẩn chứa trong nhân vật bà Hiền. Từ lời ăn tiếng nói, cách giáo dục con cháu thể hiện sự nền nã và nghiêm khắc: “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện buông tuồng (…) Tao chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ còn sau này muốn sống sao thì tùy” đến cách sống biết tổ chức trật tự và làm sang trọng con người: từ ăn, mặc, ở hàng ngày đến những thú chơi tỉ mẩn gọt củ thủy tiên đón giao thừa của người Hà Nội xưa từng được Nguyễn Tuân ca ngợi, bà Hiền là biểu tượng không chỉ của một thời vàng son đã qua của Hà Nội mà còn là hiện thân của văn hoá Tràng An đứng vững trong bao đảo điên thường nhật. Có thể tính cách bà Hiền còn những điều phải bàn cãi để đi đến một sự nhận diện có tiêu biểu cho tính cách người Hà Nội gốc hay không, nhưng như nhà văn khẳng định: “Với người già, bất kể ai, cái thời đã qua luôn luôn là thời vàng son. Mỗi thế hệ đều có thời vàng son của họ. Hà Nội thì không thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho một lứa tuổi.”. Không những thế, ông còn bày tỏ thái độ ca ngợi con người biết trân trọng những giá trị tâm linh, như cây si cổ thụ đền Ngọc Sơn vẫn vững chãi qua thời gian. Dẫu có lúc bị bật gốc, nhưng nhờ những con người còn biết lưu giữ những giá trị đích thực của quá khứ mà cây cổ thụ đã được hồi sinh. Những giá trị văn hoá bền vững không bao giờ mất đi, mà như nhà văn ước ao những giá trị ấy sẽ hoá thân vào hiện tại: “Bà già vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá. Một người như cô phải chết đi thật tiếc, một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ chói sáng những ánh vàng.”.

Quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Khải đã xuất phát từ góc nhìn văn hoá, khắc phục bệnh sơ lược một chiều trong cách nhìn con người cá nhân của văn học giai đoạn trước đó. Điều đó làm nên khuynh hướng sáng tác chủ đạo của Nguyễn Khải trong thời đổi mới, bộc lộ một thái độ tỉnh táo điềm tĩnh của nhà văn trong việc soi chiếu vào những ngóc ngách đời thường muôn mặt.
 
L

leejunki18

.góp ý...( cũng down đấy :D)

Hà Tĩnh, ngày 2/8/2008
Kính gửi: Bác Trần Hà Nam!
Có nên đưa truyện ngắn “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải vào chương trình giáo dục phổ thông?

1. Tác phẩm có nhân vật tiêu biểu cho “vẻ đẹp và chiều sâu văn hoá của người Hà Nội”?
“Một người Hà Nội” là truyện ngắn rút từ tập “Hà Nội trong mắt tôi” (NXB Hà Nội, 1995) của nhà văn Nguyễn Khải. Tác phẩm có mặt trong chương trình thí điểm trước đó và được đưa vào chương trình Ngữ văn 12 nâng cao từ năm học 2008-2009. Mục “Kết quả cần đạt” của SGK yêu cầu: “Cảm nhận được vẻ đẹp và chiều sâu văn hoá của người Hà Nội qua hình tượng nhân vật bà Hiền”. Và trong nội dung hướng dẫn khai thác, SGV (NXB Giáo dục, 2008, mã số NG208M8, tr. 53) đã chứng minh cho nhận định ấy qua các biểu hiện cụ thể của nhân vật:
“-Việc hôn nhân: bà Hiền “chọn bạn trăm năm là ông giáo cấp tiểu học hiền lành, chăm chỉ”…chọn lựa của bà cho thấy bà có thái độ nghiêm túc với hôn nhân, đặt trách nhiệm “làm vợ”, “làm mẹ” lên trên mọi thú vui khác.
-Việc sinh con: Ở cái thời người Việt Nam thích đẻ nhiều con thì quyết định của bà Hiền chấm dứt sinh đẻ vào năm 40 tuổi là một quyết định khác người…Như vậy, trách nhiệm làm cha làm mẹ không phải chỉ ở việc sinh con mà quan trọng hơn là cho con một nhân cách sống, không bị lệ thuộc. Tình yêu con của bà Hiền là tình yêu sáng suốt của người mẹ giàu lòng tự trọng…
-Việc quản lí gia đình: bà Hiền luôn là người chủ động, tự tin vì bà hiểu rõ vai trò quan trọng của người vợ, người mẹ.
-Việc dạy con: bà Hiền dạy con khi chúng còn nhỏ và dạy từ những cái nhỏ nhất…
Cái chuẩn trong suy nghĩ của bà là “lòng tự trọng”. Lòng tự trọng không cho phép con người sống hèn nhát, ích kỉ. Bà bằng lòng cho Dũng đi chiến đấu vì “không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè”….
Và SGV kết luận: “bà Hiền là người có bản lĩnh, trung thực, giàu lòng tự trọng”…và đó là “một người Hà Nội”. SGV còn đưa ra một số dẫn chứng như: lòng tự trọng, bản lĩnh (đã được nói ở phần trước), phòng khách được bài trí sang trọng, thái độ ung dung tự tại, sự khôn ngoan, sâu sắc của trí tuệ… để chứng minh bà Hiền là nhân vật kết tinh “vẻ đẹp và chiều sâu văn hoá của người Hà Nội”!
2.Một cách cảm nhận khiên cưỡng, phi lịch sử:
Trước hết, xin được trao đổi cùng với các tác giả SGK Ngữ văn 12 nâng cao rằng: cần có một sự thống nhất trong việc xác định chuẩn mực của một con người, một hình tượng nghệ thuật được coi là kết tinh, tiêu biểu cho vẻ đẹp và chiều sâu văn hoá của một vùng miền. Chắc các vị sẽ không phủ nhận rằng: dù tiêu biểu cho Hà Nội hay bất cứ địa phương nào trên đất nước Việt Nam thì chuẩn mực đầu tiên, quan trọng nhất đó là lòng yêu nước và tình yêu thương con người (hay yêu nước và nhân đạo). Nếu không thống nhất được như vậy, thì sự trao đổi này sẽ trở nên vô nghĩa. Các vị nhấn mạnh nhân vật ở phẩm chất tự trọng, cái đó chúng tôi không phản đối, song đó không phải là chuẩn mực đầu tiên, quan trọng nhất khi nói đến một hình tượng tiêu biểu cho vẻ đẹp văn hoá của một vùng miền, dân tộc.
2.1. Bà Hiền có phải là người yêu nước?
Theo SGV thì câu trả lời là “có”, với một dẫn chứng, biểu hiện duy nhất: bà đã “bằng lòng” cho con đi bộ đội trong “đau đớn”, và cụm từ “yêu nước” còn được nhắc lại như sau “giằng xé giữa tình yêu con với tình yêu nước”, “có lòng tự trọng sẽ có lòng yêu nước”, “là mình trong quan hệ với cộng đồng, đất nước”…quanh đi quẩn lại cũng không ngoài chi tiết bà Hiền đồng ý cho con đi bộ đội đánh giặc.
Còn theo chúng tôi, câu trả lời là “đáng ngờ”: Về việc đồng ý cho con đi bộ đội, có bà mẹ nào trên đất nước Việt Nam lại không xử sự như thế, nói chung nó đã quá phổ biến đến mức nếu ai cứ vin vào đó để chứng minh lòng yêu nước của bản thân thì đúng là “không còn gì để nói”. Hơn nữa, ai cũng biết là dù bà có đồng ý hay không thì con bà vẫn đi bộ đội.
Gia đình bà Hiền không tản cư kháng chiến, vì không thể sinh cơ lập nghiệp nơi khác được, và bà chẳng có hành động gì giúp đỡ kháng chiến trong suốt 9 năm ròng rã. Khi hoà bình lập lại, vì khó khăn, nhà trước có chủ trương trưng mua, trưng dụng một số nhà cửa của giai cấp tư sản, gia đình bà có hai dinh cơ và bà đã nhanh chóng bán đi một ngôi nhà để bảo toàn túi tiền của mình. Khi nhà nước có chủ trương không nuôi người hầu, người ở trong nhà, xuất phát từ lí tưởng nhân đạo không còn cảnh người bóc lột người, thì bà vẫn không chấp hành, đơn giản bởi vì bà đã quá quen với lối sống có người hầu hạ. Bà Hiền làm thế được đánh giá là khôn ngoan, vậy những người dân góp vàng, góp tiền trong Tuần lễ Vàng, Quỹ Độc lập, những người bỏ ra hàng ngàn cây vàng giúp đỡ Chính phủ, những người dân “xe chưa qua, nhà không tiếc”, đào hầm nuôi giấu cán bộ bất chấp chết chóc, tù đày…là “dại” ư? Xin nói thêm bà Hiền là người không mấy thiện cảm, mặn mà với Chính phủ, chế độ mới.
Cho nên đánh giá bà Hiền là người “yêu nước” là khiên cưỡng và phi lịch sử.
2.2. Bà Hiền có phải là người có trái tim nhân ái?
SGV hầu như không khai thác phương diện này, đơn giản bởi vì nhân vật không có bất cứ biểu hiện gì chứng tỏ là người có tâm hồn nhạy cảm, có trái tim nhân ái, biết rung động, yêu thương, chia sẻ trước niềm vui hay nỗi đau của của con người. SGV ca ngợi bà Hiền khôn ngoan, sáng suốt trong hôn nhân khi “chọn bạn trăm năm là một ông giáo cấp Tiểu học hiền lành, chăm chỉ”. Hỡi ôi, bà Hiền khôn ngoan quá, nhưng cũng tỉnh táo, lạnh lùng quá! Ai đến với hôn nhân cũng cần cân nhắc, song hôn nhân chân chính, hạnh phúc phải xuất phát từ tình yêu, sự đồng điệu, giao cảm về tâm hồn, sự dấn thân, chia sẻ chứ không phải được bắt đầu từ một quyết định đầy toan tính như thế. Làm thế không xấu nhưng có gì hay ho để mà khen!
Sau khi người ở về quê và mất, hàng năm, người chồng đều sắm sửa các thứ quà quê: gạo, đậu xanh, miến và rượu lên biếu gia đình bà Hiền. Nếu bà có lòng nhân ái thì nên từ chối các thứ quà ấy, hoặc chỉ nhận một chút có tính tượng trưng. Như thế mới là cách ứng xử lịch thiệp, có văn hoá, xuất phát từ tình yêu thương con người. Mặt khác cũng không thấy bà Hiền giúp đỡ gì gia đình người đầy tớ cũ ấy.
Từ đầu đến cuối truyện, người đọc không hề thấy ở bà Hiền có một giọt nước mắt khi con đi bộ đội, không hề thấy niềm vui nghẹn ngào nghi con lành lặn trở về, không hề thấy một chút ngậm ngùi khi nhắc đến người chồng quá cố, thiếu vắng những hành vi từ thiện, chia sẻ với người nghèo khổ xung quanh! Đành rằng những chi tiết ấy có vẻ “công thức”, “sáo mòn” song sự thiếu vắng ấy khiến độc giả nghĩ đến một tính cách cứng rắn, lạnh lùng, ít tình cảm.
Một nhân vật không có gốc rễ yêu nước và nhân ái sâu vững, liệu có xứng đáng trở thành biểu tượng của thủ đô ngàn năm văn hiến? Chúng ta thường nói Hà Nội “linh thiêng và hào hoa”, cái “linh thiêng” của Hà Nội chính là sự kết tinh truyền thống yêu nước suốt hàng ngàn năm lịch sử.
 
L

leejunki18

3.Giáo dục điều gì cho học sinh qua hình tượng nhân vật bà Hiền?
Một trong những tiêu chí quan trọng để lựa chọn tác phẩm văn học đưa vào SGK là tính giáo dục: giáo dục về tư tưởng, đạo đức, lối sống mà quan trọng nhất là lòng yêu nước, tình yêu thương con người. Thông qua vẻ đẹp của hình tượng nhân vật, học sinh có được sự rung động sâu xa, thấm thía, từ đó tâm hồn trở nên phong phú, cao đẹp hơn.
Chúng tôi đã dạy tác phẩm này trong chương trình thí điểm, và khổ nhất là không sao rung động được trước hình tượng nhân vật chính, và học sinh thì cứ kêu ca “sao không thấy thiện cảm gì với nhân vật”, “không thấy gì hay”! Thế nhưng SGV (thí điểm, bộ 2) thì cứ một mực ca ngợi nhân vật là người “thiết tha yêu nước”, “tiêu biểu cho bản sắc Hà Nội nghìn năm văn hiến”…Quả đúng là rất khó khi gò ép tư duy, cảm xúc, với những định hướng mang tính áp đặt, suy diễn. Có thể do chúng tôi kém cỏi, chưa thấy được chỗ “diệu” của tác phẩm, rất mong các bậc cao minh chỉ giáo.
Một trong những dẫn chứng “có sức nặng” nhất để tác giả SGK khẳng định bà Hiền là một người tiêu biểu cho bản sắc văn hoá Hà Nội nghìn năm là lối sống “lịch lãm, sang trọng”: nhà ở rộng rãi, ăn mặc sang trọng, bàn ăn có khăn ăn trắng, lọ hoa, bát úp lên đĩa, đũa bọc trong giấy bản, cách bài trí phòng khách kiểu cách mấy chục năm không thay đổi, mỗi tháng tổ chức mỗi bữa ăn theo lối quý phái với bạn bè…Điều đáng lưu ý đó là “nếp nhà” quen thuộc của bà Hiền, dù trong thời kì nào, trong nạn đói khủng khiếp 1945 “xác người chết đói ngập đường phố” hay trong thời kháng chiến gian khổ… xung quanh mọi người sống thế nào cũng mặc, vẫn là “mình”, vẫn giữ “bản lĩnh”, “phong cách” của mình!
Ai cũng biết về qui luật của sự hài hoà: có những cái, những việc trong hoàn cảnh này là phù hợp, là tốt, nhưng trong hoàn cảnh khác đôi khi lại trở nên xấu, thậm chí đáng lên án.
Nghĩ thật bất công cho nhân vật Hoàng trong truyện ngắn “Đôi mắt” của Nam Cao. Vốn là người yêu nước (tản cư kháng chiến, tôn kính Cụ Hồ, muốn góp sức cho cách mạng…) nhưng lại bị “đánh” cho “tơi tả” bởi anh ta mặc dù đi tản cư nhưng vẫn giữ nếp sống sang trọng, “quí phái” như ăn mía ướp hoa bưởi, ngủ màn trắng tinh, chăn đệm thơm phức, đọc sách Tam quốc…Cũng là những người đó, mới phê phán anh Hoàng nào là “ích kỉ,” “lạc lõng”, “xa rời quần chúng”, “thiếu cái tâm”, “coi kháng chiến không phải là việc của mình”…thì giờ đây họ lại ngợi ca bà Hiền, nhân vật có lối sống, cách ứng xử tương tự là “lịch lãm, sang trọng, kết tinh văn hoá Hà Nội nghìn năm”! Xin hãy đọc lại những cuốn “Bài văn chọn lọc” hay “Bài văn mẫu” xuất bản cách đây một vài năm sẽ thấy rất rõ. “Rồi ra thay bậc đổi ngôi. Dám xin gửi lại một lời cho minh”. Liệu khi học sinh hỏi về so sánh cách đánh giá giữa hai nhân vật, về mục đích giáo dục lòng nhân ái, chia sẻ với Tổ quốc, với con người trong gian khó, hoạn nạn thì giáo viên chúng tôi biết trả lời ra sao?
Các tác giả SGK còn chứng tỏ trình độ “tán” của mình khi ca ngợi bà Hiền biết “kế hoạch hoá gia đình” sau khi đã sinh được 5 con! Và họ cho rằng đó là “một quyết định khác người”, với quan niệm không tin “Trời sinh voi sinh cỏ”, thể hiện “tình yêu sáng suốt của người mẹ giàu tự trọng…”. Thật “nhất quán”, bà Hiền đúng là một nhân vật “giàu lòng tự trọng” và “sáng suốt” từ đầu đến cuối, trong bất cứ hoàn cảnh nào!
Về mặt nghệ thuật, để chứng minh cho “sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người” của Nguyễn Khải thể hiện qua tác phẩm, sách bài tập viết: “Văn học Việt Nam suốt thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ đã chủ yếu trình bày con người từ nhãn quan giai cấp, lấy lợi ích giai cấp làm tiêu chuẩn soi ngắm con người (các tác phẩm Vợ chồng A Phủ, Đối mặt, Rừng xà nu, Mảnh trăng cuối rừng, Những đứa con trong gia đình…là ví dụ tiêu biểu)(…) Vẻ đẹp của “một người Hà Nội” toát lên từ điểm nhìn thế sự, hướng tới khẳng định con người ở góc độ văn hoá” (trang 31). Theo chúng tôi, các tác giả SGK đã nhầm lẫn, hay cố tình đánh đồng khái niệm “giai cấp” và “công dân” hay “dân tộc”. Chính các vị trong SGK đã viết: “Phản ánh và phục vụ cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, thế giới nhân vật trong văn học (1945-1975-TQĐ) bao gồm đủ mọi tầng lớp nhân dân (…).Tất cả đều được quan sát và thể hiện chủ yếu ở tư cách công dân, ở phẩm chất chính trị, tinh thần cách mạng” (Khái quát văn học Việt Nam từ cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ XX. Ngữ văn 12 nâng cao, tập 1, 2008, trang 5). Xin hỏi trong truyện “Mảnh trăng cuối rừng” và “Rừng xà nu” thì nhãn quan giai cấp được thể hiện như thế nào? Các chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến chẳng phải thuộc giai cấp tiểu tư sản đó sao, nhưng vẫn trở thành một biểu tượng đẹp đẽ của người chiến sĩ, và cao hơn là cả dân tộc trong buổi đầu đánh Pháp!
Xin thưa các tác giả SGK rằng, dù ở thời nào, hay quan niệm gì về con người thì hình tượng nghệ thuật cũng không thể tách rời hai giá trị yêu nước và nhân đạo, chỉ có là cách biểu hiện, tiếp cận có khác biệt mà thôi. Không thể nhân danh “đổi mới” để xa rời những giá trị thiêng liêng, cao cả, bền vững muôn đời, có tính nhân loại đó được.
Còn chờ gì nữa mà không chuyển “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải sang phần đọc thêm hay đưa hẳn ra khỏi SGK?
Kính mong các đồng nghiệp quan tâm trao đổi.

Trần Quang Đại
Giáo viên trường THPT Trần Phú, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh
ĐT: 0982 236 201 email: quangdaiht@gmail.com
 
B

b0yl0v3

Hjx hjx ! Cái nè bạn có copy ở đâu hok vậy, nếu ko thì mình thật phục bạn đó, ngồi vừa nghĩ vừa đánh chữ mà vjk đc từng ấy thì đúng là Pro rùi :p
 
M

money_22

“Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, dù có là tiểu thuyết hay truyện ngắn, cốt truyện thường không đóng một vai trò nào đáng kể. Nhà văn tập trung chú ý vào thân phận con người, tính cách nhân vật và đã huy động vào đấy tâm hồn đa cảm dồi dào ấn tượng tươi mới và xúc động về cuộc sống, bút pháp chân thực và một giọng văn trữ tình trầm lắng ấp áp” (Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi mới cách nhìn về con người, T.C Văn học, 1993, số 3, tr.20). Có thể nói Chiếc thuyền ngoài xa là một biểu hiện của xu hướng tìm tòi khám phá trong văn của Nguyễn Minh Châu, trở về với đời thường, với mảnh đất miền Trung cằn cỗi và cơ cực, đau đáu đi tìm câu hỏi cho những phận người trong cuộc sống đời thường trăm đắng ngàn cay. Trên tinh thần quyết liệt đổi mới, Nguyễn Minh Châu đã lấy con người làm đối tượng phản ánh thay cho hiện thực đời sống. Mặc dù không phủ nhận văn chương gắn với cái chung, với cộng đồng nhưng Nguyễn Minh Châu còn muốn thể hiện một quan niệm văn chương trước hết phải là câu chuyện của con người, với muôn mặt phức tạp phong phú với tất cả chiều sâu.

Hiện thực của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa không phải là bức tranh hoành tráng của mảnh đất chiến trường xưa A So từng ghi dấu bao chiến công, cũng không phải là những con người tạc dáng đứng hào hùng của mình vào lịch sử. Nhân vật Phùng trở về với mảnh đất từng chiến đấu, một người lính năm xưa giờ là phóng viên ảnh trở về ghi lại những vẻ đẹp cuộc sống đời thường cho bộ ảnh lịch quê hương đất nước, phản ánh cuộc sống lao động khoẻ khoắn tươi rói của những con người dựng xây đất nước, đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của màn sương buổi sáng bổ sung cho tấm ảnh lịch hoàn chỉnh (!). Thế nhưng, những gì anh chứng kiến đã khiến anh và những người bạn của mình nhận ra một sự thật gắn với cuộc sống của những người dân chài lam lũ: “Cuộc sống cứ lênh đênh khắp cả một vùng phá mênh mông. Cưới xin, sinh con đẻ cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm giềng không có. Quê hương bản quán cả chục cây số trời nước chứ không cố kết vào một khoảnh đất nào”. Từ cuộc sống ấy, những bi kịch tiềm ẩn khiến con người phải ngỡ ngàng. Một câu chuyện đơn giản nhưng đã chứa đựng những phát hiện mới mẻ hàm chứa quan niệm văn chương hướng về con người của Nguyễn Minh Châu. Nếu chỉ nghĩ suy một cách xuôi chiều đơn giản, cuộc sống khi có ánh sáng cách mạng sẽ đổi đời cho số phận người lao động, sẽ xoá tan những bi kịch đè nặng lên kiếp người. Thế nhưng Nguyễn Minh Châu đã chỉ rõ cho chúng ta : cách mạng không phải giải quyết bi kịch trong một sớm một chiều, con người vẫn phải đối diện với những bi kịch đời mình, dung hoà với nó. Cách lý giải về con người của Nguyễn Minh Châu còn ẩn chứa những suy ngẫm về số phận dân tộc phải trải qua những khổ đau để đối diện với hiện thực bao thách thức.

Người nghệ sĩ nhiếp ảnh đi tìm những vẻ đẹp đích thực của cuộc sống, ngỡ như anh đã phát hiện ra một khung cảnh thật đáng yêu đáng ca tụng, hướng người xem về cái đẹp có thể làm quên đi những phiền não cuộc sống: “Qua khuôn hình ánh sáng, tôi đã hình dung thấy trước những tấm ảnh nghệ thuật của tôi sẽ là vài ba chiếc mũi thuyền và một cảnh đan chéo của những tấm lưới đọng đầy những giọt nước, mỗi mắt lưới sẽ là một nốt nhạc trong bản hòa tấu ánh sáng và bóng tối, tượng trưng cho khung cảnh bình minh là một khoảng sáng rực rỡ đến mức chói mắt, trong khoảng sáng đó sẽ hiện lên trong tầm nhìn thật xa những đường nét của thân hình một người đàn bà đang cúi lom khom, sải cánh tay thật dài về phía trước kéo tấm lưới lên khỏi mặt nước, và phía sau lưng người đàn bà, hình một ngư phủ và một đứa trẻ đứng thẳng trên đầu mũi thuyền, dùng lực toàn thân làm đòn bẩy nâng bổng hai chiếc gọng lưới chĩa thẳng lên trời.” . Và những người dân vùng biển ấy hiện lên thật đáng yêu, đáng ca ngợi: cuộc sống lao động đầm ấm khoẻ khoắn, những con người gặp gỡ thật đáng yêu…Tất cả những ấn tượng ấy sẽ không bị phá vỡ nếu như không có sự xuất hiện của chiếc - thuyền – ngoài – xa. Người đàn ông xuất hiện cùng với người đàn bà trong khung cảnh nên thơ đã nhanh chóng phá vỡ đi cảm giác thăng hoa nghệ thuật bằng trận đòn dây lưng quật thẳng tay vào người vợ không thương xót. Có lẽ khó ai hình dung cảnh tượng ấy lại diễn ra trong bối cảnh cuộc sống mới, nó hoàn toàn đối lập với điều chúng ta hằng xây dựng cho cuộc sống này “người yêu người, sống để yêu nhau” (Tố Hữu). Điều bất công diễn ra nhức nhối trước mắt người lính từng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng con người đã làm nên một cơn giận bùng phát. Bản thân anh nghĩ về người đàn ông kia như “gã đàn ông “độc ác và tàn nhẫn nhất thế gian”, còn người phụ nữ xấu xí mặt rỗ kia đích thị là nạn nhân đáng thương nhất của nạn bạo hành trong gia đình. Hành động tấn công gã đàn ông khiến cho anh ngộ nhận mình là anh hùng: “Tôi nện hắn bằng tay không, nhưng cú nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng. Tôi đã chiến đấu trong mấy ngày cuối cùng chiến tranh trên mảnh đất này. Bất luận trong hoàn cảnh nào tôi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đánh”. Nhưng phản ứng của người đàn bà trước ông chánh án đã khiến anh choáng váng: “Quí tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...”. Hoá ra, người cần được thông cảm lại là những quan toà cách mạng có lòng tốt nhưng “các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Người đàn bà khốn khổ ấy đã không chối bỏ người đàn ông đích thực của mình, dù trong lòng đau đớn khi hàng ngày phải chịu những trận đòn, phải chứng kiến cảnh hai cha con đối xử với nhau như kẻ thù, phải chấp nhận cuộc sống đương đầu nơi gió bão.Có người đã nhận định: Chiếc thuyền ngoài xa là hình tượng có ý nghĩa biểu tượng, như vẻ đẹp của một bức tranh toàn bích, nhưng đàng sau hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp là cuộc sống đầy khắc nghiệt, dữ dội và những số phận con người vật vã trong cuộc mưu sinh. Hoá ra hành trình tìm kiếm hạnh phúc không hề đơn giản : người đàn ông kia dù cục súc nhưng trên chiếc thuyền phải có lúc có đàn ông, hạnh phúc đơn giản khi cả nhà quây quần trong bữa ăn trên chiếcthuyền khiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng tất cả. Hành trình của gia đình kỳ lạ kia vẫn tiềm ẩn những nguy cơ: đứa con yêu mẹ sẵn sàng đánh nhau với bố, thủ dao găm tìm dịp trả thù, những trận đòn tàn khốc có thể làm cho người đàn bà kia gục ngã bất cứ lúc nào…Thế nhưng trong cuộc sống nghèo khổ, chật vật và ngày ngày phải nuôi đủ cho mười miệng ăn trên chiếc thuyền ọp ẹp, người đàn bà ấy là hiện thân của một sự hy sinh vô bờ bến.Tình yêu chồng con được nhìn nhận từ cuộc đời trăm đắng ngàn cay có vẻ đẹp riêng khiến cho “một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển”. Sự vỡ lẽ ấy chính là sự phá vỡ những quan niệm giản đơn về tình yêu, hạnh phúc, về lòng nhân ái, sự khoan dung…mang giá trị nhân bản sâu sắc. Những kết hợp ấy trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đem đến cái nhìn đa diện về số phận con người.

Nếu như trước kia, trong văn học 1945 – 1975, khi đề cập đến số phận con người thì bao giờ các nhà văn cũng đề cao vào khả năng con người vượt qua nghịch cảnh và những tác động của môi trường, của xã hội mới sẽ giúp con người tìm thấy hạnh phúc. Khi diễn tả sự vận động của tính cách con người, các nhà văn cũng thường nói về sự vận động theo chiều hướng tích cực, từng bước vượt lên hoàn cảnh, hồi sinh tâm hồn. Cách minh họa tư tưởng ấy không tránh khỏi có phần giản đơn và phiến diện. Nguyễn minh Châu đã không đi theo con đường mòn đó. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn đã nói về những nghịch lý tồn tại như một sự thật hiển nhiên trong đời sống con người. Bằng thái độ cảm thông và sự hiểu biết sâu sắc về con người, ông đã cung cấp cho ta cái nhìn toàn diện về cái đẹp cuộc sống, hiểu cả bề mặt lẫn chiều sâu. Nguyễn Minh Châu đã từng phát biểu: “Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người” (Phỏng vấn đầu xuân 1986 của báo Văn nghệ), “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người vhà cuộc đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực” (Ngồi buồn viết mà chơi). Tư tưởng ấy được thể hiện trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa như một minh chứng cho tấm lòng hướng về con người, khả năng giải mã những mặt phức tạp của cuộc đời. Bức thông điệp trong tác phẩm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống là nhận thức thấm thía : “cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.”(Lê Ngọc Chương- Chiếc thuyền ngoài xa, một ẩn dụ nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu). Kết thúc tác phẩm, người nghệ sĩ đã hoàn thành kiệt tác của mình đem đến cho công chúng những cảm nhận về vẻ đẹp tuyệt mỹ của tạo hoá, thế nhưng mấy ai biết được sự thật nằm sau vẻ đẹp tuyệt vời kia? Phần kết của tác phẩm để lại nhiều suy ngẫm: “Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.”.Cuộc sống vốn vậy, vẫn đẹp tươi, vẫn êm ả, nhưng nếu không có tấm lòng để nhận ra những uẩn khúc số phận thì những vẻ đẹp như màu hồng hồng của ánh sương mai kia cũng trở nên vô nghĩa, người nghệ sĩ phải nhận ra sự thật ẩn khuất sau màn sương huyền ảo kia, phải tiếp cận sự thật để nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống và con người.

( Từ internet)
 
H

haibang_le

Xuân Quỳnh viết bài thơ “ Sóng” vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ.Và trong cuộc kháng chiến ấy Xuân Quỳnh đã hiểu ra rằng thiên nhiên vũ trụ, biển và sóng là hiện thân sinh động của sự sống mãnh liệt, vĩnh hằng. Phải chăng vì thế, qua ngòi bút nhiều nhà thơ, biển và sóng đã trở thành những biểu tượng quen thuộc diễn tả sự dâng đầy, nỗi khát khao, niềm sục sôi mê đắm của sức sống, của tình yêu. Sóng của Xuân Quỳnh cũng nằm trong trường hợp ấy. Thế nhưng qua trái tim yêu của người phụ nữ này đựơc mang trong một bài thơ lấp lánh với một vẻ đẹp riêng và ngót 30 năm nay, từ lúc ra đời, từng làm thổn thức trái tim bao người trẻ tuổi, trẻ lòng. Âu đó cũng chứng tỏ cái quy luật muôn đời của giá trị nghệ thuật: cùng vận dụng một chất liệu nhưng nếu nghệ sĩ nào gửi trọn vào đấy càng nhiều máu thịt của tâm hồn, của cuộc đời mình thì tác phẩm càng có sức sống lâu bền.

Bài thơ là một khúc nhạc nói về tâm trạng, tình yêu mãnh liệt của người con gái khi yêu. Hãy đến với bài thơ bằng nhạc điệu, bài thơ là âm điệu của một cõi lòng bị sóng khuấy động, đang rung lên đồng điệu đồng nhịp với sóng biển. Rạo rực đến xôn xao, khát khao đến khắc khoải, có một hình tượng sóng được vẽ lên bằng âm điệu, một âm điệu dập dồn, chìm nổi, miên man như hơi thở chạy suốt cả bài.

Sắc điệu trữ tình của bài thơ được gợi lên từ hình tượng sóng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình xôn xao trong lòng người con gái đang yêu khi đứng trước biển ngắm nhìn những con sóng vô hồi, bất tận. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, đó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của nữ sĩ, lúc thì hòa nhập, lúc sự phân thân của “em” - người con gái đang yêu một cách say đắm. Sóng đã khơi gợi một hồn thơ phong phú, hồn nhiên, sôi nổi. Thông qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã có một cách nói rất hay để diễn tả tâm trạng của người con gái.

Đến với Sóng, ta bắt gặp một tâm hồn phụ nữ dạt dào và chủ động trong tình yêu. Không còn phải dè dặt, bóng gió như phần đông phụ nữ thời trước, không tự trói buộc lòng mình, người phụ nữ ở đây đã mạnh dạn, chủ động giãi bày một tình yêu đắm say, sáng trong và chung thuỷ. Nhân vật trữ tình - người phụ nữ đang yêu ở đây là sóng- sóng khao khát, sóng tìm đến và trở về với bờ "dù muôn vời cách trở" chứ không phải bờ lặng yên và đón nhận.



Sóng biến hoá, sóng vỗ liên hồi, triền miên và bất tận:

“Dữ dội và dịu êm
ồn ào và lặng lẽ”

Trạng thái của sóng cũng là tâm trạng khi yêu, là khát vọng to lớn, mạnh mẽ về một tình yêu chân thành. Hành trình của sóng từ sông ra đại dương:

“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”

Ra nơi mênh mông dạt dào, đến nơi biển rộng trời cao, sóng mới được vẫy vùng, mới thực sự tìm thấy mình trong sức sống mạnh mẽ với những khát khao to lớn. Sóng đã dược tác giã chọn làm biểu tượng của tình yêu . Miêu tả sóng biến hoá con sóng đó lên để nói lên sự mãnh liệt của tình yêu, cũng để nói lên cái phức tạp, đa dạng, khó hiểu của tình yêu. Cũng giống như sóng biển, tình yêu là một hiện tượng kỳ diệu của con người. Con sóng “ngày xưa” và con sóng “ngày sau” vẫn thế - triền miên, bất tận. Cũng như tình yêu mãi mãi là khát vọng của tuổi trẻ, của đôi lứa, cuả anh và em , của tuổi trẻ rực lửa ,của

“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”.

Con sóng tìm đến biển, đến đại dương là để tự hiểu mình ,để đựơc cảm thấy cái tự do của tình yêu ,để đươc thỏa cái ham muốn cái bồi hồi trong tâm hồn của Sóng. Cũng như em “khát” được đến bên anh, đến với một tình yêu đẹp để hiểu rõ hơn về tâm hồn em về con người đích thực của em. Người con gái hỏi sóng hay đang tự hỏi chính mình:

“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”

Có lẽ cái giây phút giao duyên của đôi lứa.Đựơc đánh dấu bằng câu hỏi: “Khi nào ta yêu nhau ” nhưng tìm được một câu trả lời thật khó, bởi tình yêu là một hiện tượng, một thứ tình cảm khó có thể cắt nghĩa được. Câu thơ đó đã diễn tả đúng nỗi niềm điển hình của những trai gái đang sống trong tình yêu đẹp. Có lẽ vì vậy mà trong bài thơ tình số 21 của thi hào Tagor đã viết rằng:

“Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy
Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu”

Sóng vỗ “dữ dội - dịu êm” , “ồn ào - lặng lẽ”, sóng “dưói lòng sâu” “sóng” trên mặt nước”, sóng nhớ bờ, đó là biểu hiện của tình yêu và của sự nhớ nhung và mong chờ. Yêu chân thành tha thiết, nhớ bồi hồi triền miên. Nỗi nhớ ấy day dứt, dày vò, choán đầy cả không gian, thấm trong chiều sâu, bề rộng, trải trong chiều dài thời gian:


Con sóng dưới lòng sâu.
Con sóng trên mặt nước.
Ôi con sóng nhớ bờ.
Ngày đêm không ngủ được.
Lòng em nhớ đến anh.
Cả trong mơ còn thức.

Thật tự nhiên và thơ mộng, hình ảnh con sóng nhớ bờ nên ngày đêm sóng vỗ, sóng thao thức với thời gian và đại dương.Thật hạnh phúc cho người con trai nào được nhớ đến như vậy ! Nhớ đến mức ấy chắc không ít, nhưng lại ít có người phụ nữ dám tường tận đi hết cõi lòng mình, dám cả gan phơi trải như thế mà không sợ bị những lời gièm pha của người đời quả thật chúng ta cảm thấy tình yêu này thật mãnh liệt!Và có lẽ chúng ta đều có thể cảm nhận được rằng lối cấu tứ cùng những hình ảnh thơ theo phong cách mới mẻ như thế này chỉ có thể xuất hiện trong không khí dân chủ của thời đại xã hội mới. Nhìn từ phía khác, đó cũng là một minh chứng sinh động cho sức mạnh của tình yêu. Một tình yêu mãnh liệt khiến con người ta tự nhiên vượt khỏi các thói quen, những giới cách của ước lệ.
 
Top Bottom