DownLoad tất cả tác phẩm VH 12

L

leejunki18

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

1.Sóng-Xuân Quỳnh



Xuân Quỳnh viết bài thơ “ Sóng” vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ.Và trong cuộc kháng chiến ấy Xuân Quỳnh đã hiểu ra rằng thiên nhiên vũ trụ, biển và sóng là hiện thân sinh động của sự sống mãnh liệt, vĩnh hằng. Phải chăng vì thế, qua ngòi bút nhiều nhà thơ, biển và sóng đã trở thành những biểu tượng quen thuộc diễn tả sự dâng đầy, nỗi khát khao, niềm sục sôi mê đắm của sức sống, của tình yêu. Sóng của Xuân Quỳnh cũng nằm trong trường hợp ấy. Thế nhưng qua trái tim yêu của người phụ nữ này đựơc mang trong một bài thơ lấp lánh với một vẻ đẹp riêng và ngót 30 năm nay, từ lúc ra đời, từng làm thổn thức trái tim bao người trẻ tuổi, trẻ lòng. Âu đó cũng chứng tỏ cái quy luật muôn đời của giá trị nghệ thuật: cùng vận dụng một chất liệu nhưng nếu nghệ sĩ nào gửi trọn vào đấy càng nhiều máu thịt của tâm hồn, của cuộc đời mình thì tác phẩm càng có sức sống lâu bền.

Bài thơ là một khúc nhạc nói về tâm trạng, tình yêu mãnh liệt của người con gái khi yêu. Hãy đến với bài thơ bằng nhạc điệu, bài thơ là âm điệu của một cõi lòng bị sóng khuấy động, đang rung lên đồng điệu đồng nhịp với sóng biển. Rạo rực đến xôn xao, khát khao đến khắc khoải, có một hình tượng sóng được vẽ lên bằng âm điệu, một âm điệu dập dồn, chìm nổi, miên man như hơi thở chạy suốt cả bài.

Sắc điệu trữ tình của bài thơ được gợi lên từ hình tượng sóng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình xôn xao trong lòng người con gái đang yêu khi đứng trước biển ngắm nhìn những con sóng vô hồi, bất tận. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, đó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của nữ sĩ, lúc thì hòa nhập, lúc sự phân thân của “em” - người con gái đang yêu một cách say đắm. Sóng đã khơi gợi một hồn thơ phong phú, hồn nhiên, sôi nổi. Thông qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã có một cách nói rất hay để diễn tả tâm trạng của người con gái.

Đến với Sóng, ta bắt gặp một tâm hồn phụ nữ dạt dào và chủ động trong tình yêu. Không còn phải dè dặt, bóng gió như phần đông phụ nữ thời trước, không tự trói buộc lòng mình, người phụ nữ ở đây đã mạnh dạn, chủ động giãi bày một tình yêu đắm say, sáng trong và chung thuỷ. Nhân vật trữ tình - người phụ nữ đang yêu ở đây là sóng- sóng khao khát, sóng tìm đến và trở về với bờ "dù muôn vời cách trở" chứ không phải bờ lặng yên và đón nhận.



Sóng biến hoá, sóng vỗ liên hồi, triền miên và bất tận:

“Dữ dội và dịu êm
ồn ào và lặng lẽ”

Trạng thái của sóng cũng là tâm trạng khi yêu, là khát vọng to lớn, mạnh mẽ về một tình yêu chân thành. Hành trình của sóng từ sông ra đại dương:

“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”

Ra nơi mênh mông dạt dào, đến nơi biển rộng trời cao, sóng mới được vẫy vùng, mới thực sự tìm thấy mình trong sức sống mạnh mẽ với những khát khao to lớn. Sóng đã dược tác giã chọn làm biểu tượng của tình yêu . Miêu tả sóng biến hoá con sóng đó lên để nói lên sự mãnh liệt của tình yêu, cũng để nói lên cái phức tạp, đa dạng, khó hiểu của tình yêu. Cũng giống như sóng biển, tình yêu là một hiện tượng kỳ diệu của con người. Con sóng “ngày xưa” và con sóng “ngày sau” vẫn thế - triền miên, bất tận. Cũng như tình yêu mãi mãi là khát vọng của tuổi trẻ, của đôi lứa, cuả anh và em , của tuổi trẻ rực lửa ,của

“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”.

Con sóng tìm đến biển, đến đại dương là để tự hiểu mình ,để đựơc cảm thấy cái tự do của tình yêu ,để đươc thỏa cái ham muốn cái bồi hồi trong tâm hồn của Sóng. Cũng như em “khát” được đến bên anh, đến với một tình yêu đẹp để hiểu rõ hơn về tâm hồn em về con người đích thực của em. Người con gái hỏi sóng hay đang tự hỏi chính mình:

“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”

Có lẽ cái giây phút giao duyên của đôi lứa.Đựơc đánh dấu bằng câu hỏi: “Khi nào ta yêu nhau ” nhưng tìm được một câu trả lời thật khó, bởi tình yêu là một hiện tượng, một thứ tình cảm khó có thể cắt nghĩa được. Câu thơ đó đã diễn tả đúng nỗi niềm điển hình của những trai gái đang sống trong tình yêu đẹp. Có lẽ vì vậy mà trong bài thơ tình số 21 của thi hào Tagor đã viết rằng:

“Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy
Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu”

Sóng vỗ “dữ dội - dịu êm” , “ồn ào - lặng lẽ”, sóng “dưói lòng sâu” “sóng” trên mặt nước”, sóng nhớ bờ, đó là biểu hiện của tình yêu và của sự nhớ nhung và mong chờ. Yêu chân thành tha thiết, nhớ bồi hồi triền miên. Nỗi nhớ ấy day dứt, dày vò, choán đầy cả không gian, thấm trong chiều sâu, bề rộng, trải trong chiều dài thời gian:


Con sóng dưới lòng sâu.
Con sóng trên mặt nước.
Ôi con sóng nhớ bờ.
Ngày đêm không ngủ được.
Lòng em nhớ đến anh.
Cả trong mơ còn thức.

Thật tự nhiên và thơ mộng, hình ảnh con sóng nhớ bờ nên ngày đêm sóng vỗ, sóng thao thức với thời gian và đại dương.Thật hạnh phúc cho người con trai nào được nhớ đến như vậy ! Nhớ đến mức ấy chắc không ít, nhưng lại ít có người phụ nữ dám tường tận đi hết cõi lòng mình, dám cả gan phơi trải như thế mà không sợ bị những lời gièm pha của người đời quả thật chúng ta cảm thấy tình yêu này thật mãnh liệt!Và có lẽ chúng ta đều có thể cảm nhận được rằng lối cấu tứ cùng những hình ảnh thơ theo phong cách mới mẻ như thế này chỉ có thể xuất hiện trong không khí dân chủ của thời đại xã hội mới. Nhìn từ phía khác, đó cũng là một minh chứng sinh động cho sức mạnh của tình yêu. Một tình yêu mãnh liệt khiến con người ta tự nhiên vượt khỏi các thói quen, những giới cách của ước lệ.
 
L

leejunki18

Bất cứ bài thơ nào, đặc biệt là thơ tình yêu, cũng chỉ có sức sống thực sự khi ấm nóng một cuộc đời, một dấu ấn, một giọng điệu riêng. Sóng thể hiện tình yêu của lớp người phụ nữ mới ngày nay và vẻ sắc độc đáo của tâm hồn thơ Xuân Quỳnh. Phải chăng cuộc đời sớm mất mát, nhiều bất hạnh éo le đã khiến cho Xuân Quỳnh luôn khao khát tình thương, tình yêu, lại vừa tạo ở tác giã một nghị lực, một ý thức suy ngẫm, trăn trở, một quan điểm sống của riêng mình :

Sông không hiểu nổi mình.
Sóng tìm ra tận bể,

Sóng bắt đầu từ gió.
Gió bắt đầu từ đâu

Trong chiều sâu tâm hồn người phụ nữ đang yêu vẫn có băn khoăn, vẫn có ý thức trăn trở để tìm đến cái cội nguồn của tình yêu , của sự cảm thong , sẽ chia. Mê đắm mà tỉnh táo, biết nghĩ, có trách nhiệm với tình yêu của mình - Đó là nét đặc biệt đáng quý của trái tim yêu dạt dào trong Sóng. Có lẽ bởi vậy ngay từ lúc mở đầu bài thơ, Xuân Quỳnh đã phát hiện ra sự tương hợp giữa tâm hồn một người con gái đang yêu với trạng thái hay chứa đựng những đối cực của sóng: "Dữ dội và dịu êm, ồn ào và lặng lẽ". (Từ đó bài thơ cứ nhịp nhàng phát triển theo hàng loạt đối sánh trên nhịp ngắt của thể thơ năm chữ gợi lên hình tượng những con sóng). Sóng và sức mạnh của sóng là nỗi bí ẩn muôn đời cũng như quy luật của tình yêu, một quy luật không thể nào cắt nghĩa. Trong băn khoăn truy tim ngọn nguồn của tình yêu, nhà thơ đã nghĩ - nghĩ nhiều về biển lớn, về anh, em, về cuộc đời. Có điều, tìm và nghĩ không phải vì nghi ngờ, không phải để nghi ngờ mà để hiểu sâu sắc hơn và yêu mê đắm hơn. Con sóng tới bờ qua muôn vời cách trở bao giờ cũng là con sóng bền bỉ, mãnh liệt, con sóng biết quý trọng hạnh phúc tình yêu hơn tất cả. Trước đó mấy năm, Xuân Diệu cũng đã dùng hình tượng biển xanh, con sóng, bờ cát trắng để bộc lộ một tình yêu nồng nàn, vĩnh cửu. Con sóng trong bài thơ Biển cũng là một hình tượng ẩn dụ và nhịp điệu của sóng cũng là nhịp điệu của trái tim, của tâm hồn người đang yêu:

Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ, thật êm
Hôn êm đềm, mãi mãi
Đã hôn rồi, hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt...

Từ đầu đến cuối, Biển của Xuân Diệu chỉ bộc lộ một tình yêu khi lặng lẽ mơ màng, khi êm đềm, khi ào ạt trong khao khát "ngàn năm không thoả". Bên cạnh sự dữ dội và dịu êm, ồn ào và lặng lẽ, bên cạnh nỗi khát khao mãnh liệt và niềm mong ước hoá thân vào biển lớn tình yêu vĩnh hằng, Sóng của Xuân Quỳnh còn mang theo ý thức suy ngẫm, trăn trở, mang theo niềm hạnh phúc sau khi vượt qua muôn trùng cách trở. Một tình yêu như vậy, phải chăng càng đáng quý, nâng niu? Cho dù Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu. Cũng giống như bên đợi thuyền, thuyền nhớ bến, lúc nào lòng người con gái cũng bồi hồi nhớ thương:

“Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”.

Thật tự nhiên và thơ mộng, con sóng nhớ bờ nên ngày đêm sóng vỗ, sóng thao thức với thời gian và đại dương. “Còn thức” tức là lúc nào em cũng nhìn thấy rõ hình bóng anh, ánh mắt anh... Một tình yêu cuồng nhiệt, say mê. Con sóng khao khát được đến bờ để được vỗ về, ve vuốt:

“Hôn thật khẽ thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi”

(Xuân Diệu)

Để rồi:

“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”

“Còn thức” tức là lúc nào em cũng nhìn thấy rõ hình bóng anh, ánh mắt anh ... Một tình yêu cuồng nhiệt, say mê. Con sóng khao khát được đến bờ để được vỗ về, ve vuốt:

“Hôn thật khẽ thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi”

(Xuân Diệu)

Cũng như “em” muốn được gần bên anh, được hòa nhịp vào trong tình yêu với anh. Tình yêu của người con gái thật mãnh liệt, nồng nàn. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ, cũng như anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để sống trong hạnh phúc trọn vẹn của lứa đôi. Tình yêu thật mãnh liệt, nồng nàn. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ, cũng như anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để sống trong hạnh phúc trọn vẹn của lứa đôi.


“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng nhỏ
Con nào cũng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

Người con gái đã bày tỏ lòng mình một cách chân thành, say đắm, thắm thiết .Chân thật và thủy chung ,nồng nàn và say đám, nhẹ nhàng và sẻ chia là đặc tính của tình yêu là nguyên nhân tạo nên sức mạnh của tình yêu sức mạnh mà không bất cứ thế lực nào có thể khuất phục sức mạnh đã cho tình yêu cuộc sống trường tồn vĩnh cũư.Tình yêu chân chính không hề chịu sư chi phối của bất kì một thế lực nào cho dù là đồng tiền là địa vị là danh lợi .Tình yêu có thể thay đổi một con người có thể làm họ tốt lên cũng có thể hủy hoại tất cả , có thể lấy đi tất cả của một con người cho dù anh ta có cố gắng níu kéo đi chăng nữa và khi người ta đã có đượ tình yêu thì chỉ có một hứơng một phương mà thôi như một câu nói rằng : “Nếu các bạn hỏi tôi nứơc nào đẹp nhất? Thì tôi xin trả lời rằng nước đẹp nhất chính là nước mà ngừơi yêu tôi đang ở !” Tác giã cũng đ4 đề cập đến vấn đề này bằng :

“Dẫu xuôi về phương Bắc...
Hướng về anh một phương”.

Sóng đã bày tỏ nỗi lòng của người con gái, khát vọng được sống hết mình trong một tình yêu đẹp, sắt son thủy chung. Người ta thường nói xuôi vào Nam, ngược ra Bắc; nhưng ở đây, trong nỗi nhớ chất đầy nhà thơ lại dùng ngược lại. Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn không có giới hạn.

Cuối cùng sóng đã nói hộ nhà thơ nỗi khát vọng được sống trọn vẹn trong tình yêu. Tình yêu lứa đôi đẹp đẽ, nồng nàn như trăm ngàn con sóng nhỏ giữa đại dương mênh mông, muốn được hoà nhịp vào biển lớn của tình yêu cộng đồng:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

Cả bài thơ, nếu kể đến nhan đề, thì tác giả đã mười một lần nhắc đến từ “sóng”. Sóng vỗ như tâm tình xôn xao. Sóng cho ta nhiều ấn tượng về âm điệu của sóng, cũng như giọng điệu tâm tình, nhịp điệu của bài thơ. Thơ hồn nhiên, liền mạch về cảm xúc, trong sáng trong cách diễn đạt của tác giả. Sóng vỗ trên đại dương mênh mông cũng chính là sóng vỗ trong lòng người con gái.

Từ hình tượng “sóng” Xuân Quỳnh cho ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Với tình yêu chân thành, thắm thiết, người phụ nữ muốn sống hết mình, sống trọn vẹn trong tình yêu đẹp. Yêu là nhớ ngày mong đêm, người phụ nữ khát khao được hòa nhập gần gũi trong tình yêu ấy. Họ yêu thật nồng nàn, say đắm, thủy chung.

“Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”

Đọc xong bài thơ Sóng ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con người luôn thủy chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ nước nhà.
 
L

leejunki18

2 .Đất nước-nguyễn Khoa Điềm

Nhà thơ nhà văn Nguyễn Khoa Điềm không có nhiều tác phẩm nhưng những tập thơ của ông luôn được độc giả đón nhận và yêu thích.Trong đó không thể không nhắc đến trường ca “Mặt đường khát vọng” vô cùng nổi tiếng mà ta thường biết đến thông qua bài thơ “Đất Nước”.Bài thơ này được trích từ chương V của trường ca.Đây đuợc xem là chương hay và sâu sắc nhất. Tác giả chia đoạn thơ thành 5 khổ, mỗi khổ ứng với một luận điểm,nhưng đều nhằm một mục đích đó là làm sáng tỏ tư tưởng: “Đất nước này là Đất Nước Nhân dân”.Chính luồng tư tưởng này đã thôi thúc tuổi trẻ các tỉnh Miền Nam tham gia chiến đấu giành độc lập cho nước nhà.Không những thế, nó đã khơi dậy niềm tự hào dân tộc của nhân dân ta.Bên cạnh đó, Nguyễn Khoa Điềm trình bày rất nghệ thuật nhiều cảm nhận, lý giải mới về đất nước. Từ đó, ta hiểu thêm tính chính luận - trữ tình của thơ ông nói riêng và thơ chống Mỹ nói chung.

Câu thơ đầu của đoạn rất đỗi nhẹ nhàng,bình dị nhưng lại vô cùng hàm súc:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa..”mẹ thường hay kể”

.Bốn từ “ngày xửa ngaỳ xưa” sao quá đỗi quen thuộc với chúng ta.Nó xuất hiện trong những câu chuyện cổ tích bà kể,trong những lời ru tha thiết của mẹ mỗi khi đêm về.Từ lâu nó đã như là một yếu tố không thể thiếu dể tạo nên không gian riêng của nàng Tấm,Hoàng Tử,của Mai An Tiêm…Nay,nó đã đi vào văn chương Việt Nam tạo nên một định nghĩa rất bất ngờ trong thơ Nguyễn Khoa Điềm.Trong Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt,đất nước hiện ra thông qua hình ảnh “Vua chúa” và “sách trời”:

“Nam quốc sơn hà Nam Đế cư

Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư”

(Nam Quốc Sơn Hà)

Hay như trong “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” của nhà thơ Nguyễn Đỉnh Chiểu:

“Một mối xa thư đồ sộ,há để ai chém rắn đuổi hươu;hai vầng nhật nguyệt chói loà đâu dung lũ treo dê bán chó”

(Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc)

Những từ như “ mối xa thư đồ sộ” hay “ hai vầng nhật nguyệt chói loà” đã trang trọng hoá đất nước.Nó thể hiện sự kì vĩ và cao cả nhưng cũng tạo một khoảng cách thiêng liêng của con người đối với Đất Nước.Nhưng với Nhuyễn Khoa Điềm thì lại khác.Nhà thơ đã xoá bỏ khoảng cách đó.Đất nước đã hoá thân vào những câu chuyện cổ tích hay những câu ca dao rất đỗi quen thuộc và hiện ra thật bình dị và gần gũi.

“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Tứ thơ này làm sống lại nhiều câu tục ngữ, ca dao và truyện Trầu cau bi thương, tình nghĩa. Qua hình ảnh “miếng trầu”, Nguyễn Khoa Điềm “nhân dân hóa” thơ mình và có thêm một bằng chứng về đất nước hình thành từ xa xưa.Và Đất Nước cứ lớn dần lên cùng các truyền thống như trồng tre,trồng lúa,đánh đuổi giặc ngoại xâm.

“Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”

Tác giả đã dành một lời ngợi ca ,một sự trân trọng đối với tình nghĩa vợ chồng khi nói đến “cha mẹ”.Sự thuỷ chung son sắt trải bao gian khó nhọc nhằn được ông đề cao.Vì cuộc sống bấp bênh,đủ mọi khó khăn vất vả ,chỉ có “gừng cay” và “muối mặn” chứ ít khi ngọt ngào.Tuy nhiên “cha mẹ” vẫn dành cho nhau sự yêu thương là một điều rất đáng quý.Ở câu thơ này,thay vì dùng chữ “yêu” tác giả lại chọn từ “thương” để đưa vào.Bởi vì ông muốn thơ của mình giản dị và gần với văn học bình dân hơn,gần với nhân dân hơn.Cũng như tác giả mượn hình ảnh “gừng cay muối mặn” từ câu ca dao:

“Tay nâng chén muối đĩa gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”

để thể hịên tình cảm vợ chồng.

Rồi đến khi “Cái kèo cái cột thành tên” thì dân tộc ta đã bước sang một sự phát triển mới.Ngành nông nghiệp lúa nước ra đời giúp cho cuộc sống nhân dân bớt cơ cực mặc dù cũng phải “một nắng hai sương” theo từng hạt gạo.

Câu cuối của khổ thơ này,tác giả đúc kết và khẳng định lại một lần nữa về sự ra đời cùa Đất Nước:

“Đất Nước có từ ngày đó…”

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã khai thác và sử dựng triệt để vốn văn hoá dân gian sẵn có,sáng tạo lại khiến cho người đọc cảm thấy rất gần gũi và bất ngờ.Trong suốt quá trình phát triển của Đất Nước,ta dều thấy bóng dáng của những con người. Đó là cơ sở vững chắc để tác giả tiếp tục triển khai tư tưởng Đất Nước này là đất Nước Nhân dân ở 3 khổ thơ sau.

Một không gian khác được tác giả mở ra vô cùng khéo léo khi ông tách đôi 2 âm tiết “Đất Nước”.

“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

Trình tự “nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”, tưởng như tình cờ mà không sao đảo ngược. Nếu thay đổi dưới dạng : Đất là nơi em đến trường, Nước là nơi anh tắm, cảm hứng thơ sẽ tan biến. Dòng viết trên thành một câu văn xuôi rất đỗi bình thường.

Văn hoá dân gian là của nhân dân.Để khẳng định tư tưởng của mình tác giả đã vận dụng chất liệu dân gian vào trong văn thơ của mình.”Đất nước là của nhân dân” nên việc đưa chất trữ tình của dân gian tạo được hiệu quả cao trong việc xây dựng hình tượng đất nước,qua đó ta thấy được sự sáng tạo cũng như độc đáo trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm.Câu thơ :” Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” là một ví dụ.Hẳn ta chưa quên câu ca dao rất đỗi ngọt ngào:

“Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai

Khăn thương nhớ ai

Khăn chùi nước mắt…”

Vận dụng ý từ câu ca dao trên,tác giả đã viết nên dòng thơ đậm chất dân gian nhưng không kém phần độc đáo,tạo nên một phong cách rất riêng của nhà thơ.

Hai câu thơ tiếp theo hình tượng Đất Nước được biến hoá vô cùng sinh động :

“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Con chim phượng hoàng và cá ngư ông là hai con vật linh thiêng được nhân dân ta thờ phụng, nay đưa vào trong văn thơ của Nguyễn Khoa Điềm rất gần gũi.Giữa người và thần dường như không hề có sự ngăn cách,tất cả như hoà vào nhau bình đẳng.Một lần nữa , nhà thơ đã đưa Đất Nước từ của thần linh trở thành Đất Nước của nhân dân.Và chính tư tưởng đó đã giúp tác giả khám phá Đất Nước trên những khía cạnh khác nhau.Mở đầu là “Thời gian đằng đẵng”.Xuôi theo dòng lịch sử,Nguyễn Khoa Điềm ghi lại những truyền thuyết,phong tục dân gian vốn rất quen thuộc với chúng ta.

“Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Hàng năm ăn đâu ở đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

Song song với quá trình tách - hợp, là sự hài hòa trong mối quan hệ: “anh” - “em” thành “ta” và “Chim về”, “Rồng ở” tạo nên mối tình Lạc Long Quân - Âu Cơ. Qua các câu thơ, tác giả cho ta thấy: đất nước bắt đầu hình thành, “lớn lên” như những mối tình thân thiết, yêu thương.Dây là quãng thời gian thấm đẫm cội nguồn,thể hiện ước muốn ngược dòng thời gian trở về cội nguồn,lịch sử hình thành Đất Nước.Nó khoác lên “Đất Nước” một vẻ đẹp lạ lùng,lấp lánh chất huyền thoại.Đất Nước không đơn thuần chỉ là núi song.Đó là nơi Lạc Long Quân và Âu Cơ yêu nhau,đó là nơi dân mình được sinh ra và đoàn tụ. Từ đó, đất nước thành không gian của mọi người,của cộng đồng.
 
L

leejunki18

Bên cạnh đó,tác giả còn đánh thức tình cảm tổ tiên tình yêu quê hương đất nước.Thấm thía nhất là hai câu thơ:

“Hàng năm ăn đâu ở đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

Mùng 10 tháng 3 hàng năm , người Việt ta có phong tục Giỗ Tổ Hùng Vương để tôn vinh những ông vua có công dựng nước.Nhà thơ sử dụng 2 chữ “cúi đầu” với vẻ tôn kính và ngưỡng mộ.Nó như một bàn tay khẽ chạm vào tiềm thức của mỗi người con yêu nước,dù ở phương nào cũng phải biết thờ phụng ông bà tổ tiên mình.Nguyễn Khoa Điềm đã rất ý nhị trong việc khơi gợi lòng yêu Đất Nước trong mỗi con người.

Qua khổ thơ thứ hai, đất nước được cảm nhận như sự thống nhất hài hòa giữa cái hàng ngày và vĩnh hằng, trong mỗi cá nhân và toàn dân tộc, trong quá khứ, hôm nay và mai sau. Từ suy ngẫm trên, Nguyễn Khoa Điềm kết luận:

“Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

Khi hai đứa cầm tay

Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất nước vẹn tròn, to lớn

Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang Đất Nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng”

Trong mỗi chúng ta đều có bóng hình của Đất Nước , gắn bó rất chặt chẽ.Thế nên chúng ta phải biết giữ gìn và bảo vệ nó.Đất Nước trọn vẹn khi dân mình biết chở che cho nhau,đoàn kết lại.Lúc ấy Đất Nước sẽ vô cùng mạnh mẽ,bất khuất.Nhà thơ mong muốn thế hệ sau này cũng sẽ yêu quý Đất Nước ,phát triển nó như những gì thế hệ trước đã và đang làm.Kết lại khổ thơ,tác giả nhắn nhủ đến mọi người:

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và chia sẻ

Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời…”

Đó không chỉ là mong muốn của riêng nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm mà đó còn là những gì tổ tiên ,ông bà trông đợi nơi ta,những người con của thế hệ sau sẽ cố gắng thực hiện.Từ “phải” như là một mệnh lệnh.Nhưng đó là mệnh lệnh của trái tim,của ý thức trong mỗi chúng ta.

Ở khổ thơ thứ 3,tư tưởng “đất nước nhân dân” còn được thể hiện qua cách cảm nhận sâu sắc, độc đáo về phương diện địa lý.

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước nhựng núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên những hòn Trống mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao hồ để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học tró nghèo góp cho Đất Nước núi Bút, non Nghiên

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình,một ao ước,một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuôc đời đã hoá núi sông ta…”

Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái rồi Hạ Long... chỉ thành thắng cảnh khi gắn liền với đời sống văn hóa dân tộc, được cảm thụ qua tâm hồn quần chúng và lịch sử đất nước. Theo lối quy nạp, từ những dẫn chứng cụ thể, nhà thơ đi đến nhận xét tổng quát:

“Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuôc đời đã hoá núi sông ta…”

Trong không gian địa lý, trên khắp ruộng đồng gò bãi, Nguyễn Khoa Điềm đều thấy dấu tích nhân dân để lại... Chính diều này đã thể hiện mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân và đất nước.

Bốn nghìn năm đối với Nguyễn Khoa Điềm không chỉ là thời gian.Với con mắt sắc sảo của mình,nhà thơ còn nhìn thấy những điều tưởng chừng như rất bình dị nhưng lại vô cùng quan trọng.

“Em ơi em

Hãy nhìn rất xa

Vào bốn nghìn năm Đất Nước

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái,con trai bằng tuổi chúng ta

Cần cù làm lụng

Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái trở về nuôi cái cùng con

Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

Nhiều người đã trở thành anh hùng

Nhiều anh hùng cả anh va em đều nhớ

Nhưng em biết không

Có biết bao người con gái ,con trai

Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”

Nếu ở khổ 2 và 3 là cái nhìn gần, thời hiện tại thì ở đây là cái nhìn xa, nhìn về quá khứ , theo dòng thời gian trở về buổi đầu dựng nước.Trong “Bình Ngô Đại Cáo”,Nguyễn Trãi đã tổng kết lịch sử bằng các triều đại:

“Từ Triệu,Đinh,Lý,Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán,Đường,Tống,Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”

Nhưng Nguyễn Khoa Điềm không làm như vậy. Ông nhấn mạnh vai trò của những người trẻ tuổi vô danh.Những người đã giữ gìn, truyền lại cho con cháu mọi giá trị tinh thần, vật chất. Không chỉ bảo vệ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên xã tên làng qua các cuộc đi xa mà họ còn quyết tâm đánh giặc bảo vệ quê hương Đất Nước.Bằng cách này,tác giả đã trả lại Đất Nước cho những người chủ chân chính,những người đã góp bao công sức trong thầm lặng xây dựng nên Đất Nước.Đây là một cách nhìn rất mới trong thơ văn yêu nước,củng cố thêm cho tư tưởng của tác giả.

“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ truyền lửa qua mỗi nhà,từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã,tên làng trong mỗi chuyến di dân

Họ đắp đập be bờ cho ngừơi sau trồng cây hái trái”

Đại từ “họ” được lặp đi lặp lại ,đặt ở đầu câu làm nổi bật vai trò của nhân dân,những ai đã làm ra sản phẫm vật chất,tinh thần cua Đất Nước.Hàng loat dộng từ như “ giữ”,”truyền”,”gánh” được tác giả sử dụng để tạo nên hình tượng người dân thật lực lưỡng,khỏe mạnh không hề mệt mỏi trong công cuộc dựng xây và bảo vệ Tổ Quốc.Nhân dân đã đem cả cuộc đời đóng góp ,phát triển và bảo tồn mọi giá trị vật chất cũng như tinh thần cho con cháu.Vậy nên nói “Đất Nước là của Nhân dân “ chẳng hề sai.

Thơ của Nguyễn Khoa Điềm là một thế giới nên thơ,mộc mạc và rất dân dã.Nó lấp lánh những câu ca dao,những câu chuyện cổ tích khi xưa.Cũng chính nhờ điều đó mà ta thấy nhân dân hiện diện xuyên suốt toàn bài thơ.Từ nền văn hoá dân gian ấy,tác giả khám phá ra vẻ đẹp tâm hồn,tính cách người Việt Nam chung thuỷ,có nghĩa có tình nhưng lại rất cứng rắn trước quân thù.

“Dạy anh biết “yêu em từ thưở trong nôi”

Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội

Biết trồng tre đợi nagỳ thành gậy

Đi trả thù mà không sợ dài lâu

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò,kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm năm dáng sông xuôi…”

Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” đã có quá trình phát triển lâu dài nhưng chỉ đến văn học Việt Nam hiện đại,nhận thức ấy mới đạt tới đỉnh cao,mang một sắc thái mới lạ và thuýêt phục.

“Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”

Hai câu thơ , hai vế song song, đồng đẳng là một cách định nghĩa mới về đất nước. Đỉnh cao của tính chính luận và cảm xúc trữ tình hội tụ trong câu: “Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân”. Chân lý ấy thể hiện đầy đủ trong ca dao. Bởi vậy, ngoài việc nhấn mạnh qua từ “để”, tác giả còn láy lại điệp khúc “Đất Nước của ca dao thần thoại”. Đây là kết quả tất yếu của một thời đại nhân dân thực sựlàm chủ đời mình,làm chủ Đất Nước.

Qua đoạn thơ, ta thấy sự vận dụng sáng tạo văn học dân gian của Nguyễn Khoa Điềm. Ông ít lặp lại nguyên văn mà thường sử dụng từng ý, từng hình ảnh thơ của người xưa. Giọng chính luận - trữ tình phù hợp với nội dung tác phẩm. Thực ra, tư tưởng đất nước nhân dân đã hình thành từ lâu. Nguyễn Khoa Điềm chỉ nâng cao tầm tư tưởng ấy và diễn đạt nó bằng ngôn từ, giọng điệu mới, độc đáo. Ông tạo được một đoạn thơ hiện đại đậm đà bản sắc dân gian. Bởi vậy, thơ Nguyễn Khoa Điềm vừa quen vừa lạ và có sức thuyết phục cao.
 
L

leejunki18

3.Rừng Xà nu-Nguyễn Trung Thành

Ỷ nghĩa tựa đề:

Những cánh rừng xà nu bạt ngàn ở Tây Nguyên là hình ảnh gắn bó mau` thịt giữa tác giả và những kỉ niệm sâu sắc trong cuộc đời chiến đấu và viết văn tại chiến trường Tây Nguyên.

Rừng xà nu là một sang tạo nghệ thuật dộc đáo của nhà văn.Rừng xà nu la một hình ảnh mang tính biểu tượng cho con người tây nguyên anh hung, ma cụt hể trong tác phẩm là dân làng Xô Man với những người con ưu tú : cụ Mết , Tnú, Dít, Heng…..Bức tranh thiên nhiên rừng xà nu thật hung vĩ với sức sống mãnh liệt ,sinh sôi nảy nở không ngừng ,bất chấp đạn đại bác của giặc bán phá mỗi ngày.Qua bức tranh thiên nhiên ấy, tác giả muốn khẳng định con người Tây Nguyên quýet vượt qua đau thương, quật khởi theo đảng làm cách mạng.

Nguyễn Trung Thành la nhà văn có sở trường viết truyện Tây nguyên . Vùng dất ấy đã rất quen thuộc đối với ông từ những ngày viết Đất nước đứng lên thời chống Pháp . Nay trở lại vùng đất ấy để viết về những người con Tây Nguyên chống Mĩ tác giả đã gặp lại cái màu xanh bạt nàgn của những rừng xà nu chạy dài đến chân trời . Tôi yêu say mê cây rừng xà nu tù ngày đó ông đã kể lại như vậy . Cho nên cây xà nu trở thành ấn tượng mạnh mẽ và gợi cảm hứng sang tác cho ông; không những thế , đã gợi cả cốt truyện và bố cục: Bắt đầu đến dưới ngòi bút , gần như không hề tinh trước , là một khu rừng xà nu, những cây xà nu.(Nguyễn Ngọc-Về một truyện ngắn –rừng xà nu ). Tên truyện cũng hình thành ; Rừng xà nu.

Như vậy là ,từ một ấn tương manh gợi cảm hứng ban đầu , tên truyện Rừng xà nu đã mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Đây là một loại cây hung vĩ và cao thượng , man dại va trong sạch , mỗi cạy cao vút , vạm vỡ , ứa nhựa , tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rõi mênh mông , tửong nhu đã sống tự ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau , từng cây , hàng vạn , hàng triệu cây vô tận. . Nguyễn Trung Thành đã miêu tả cây xà nu như thế và ta hiểu vì sao ông chọn cây xà nu, rừng xà nu làm biểu tượng cho nhân dân Tây Nguyên chống Mĩ trong truyện ngắn này . Không thể có cây nào phản ánh hùng hồn và sinh động cho phong trào chống Mĩ của họ bằng rừng xà nu chạy dài vô tận . Rừng xà nu , cái tên truyện ấy đã trở thành ,ột biểu tượng đẹp , tượng trưng cho khát vọng tự do , khát vọng giải phóng , cho phẩmc hát anh hung và súc sống mãnh liệt của dân làng Xô Man , nhân dân Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước . Tên truyện đã cô đúc chủ đề của tác phẩm , mang ý nghĩa khái quát cao , lại giàu chất lãng mạn – chất thơ hung vĩ của núi rừng Tây nguyên . Bản than tên truyện đã là một sang tạo nghệ thuật của nhà văn , đem đến sự hấp dẫn cho người đọc.

II)Mở bài:

Rừng xà nu , truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn TRung thành và của văn học thời chống Mĩ , tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975.Chủ đề của tác phẩm gắn liền với tên truyện độc đáo và gợi nhiều hấp dẫn cho ngừơi đọc:Rừng xà nu.

Truyện kể về câu chuyện làng Xô Man đánh Mĩ nhưng vì sao Nguễyn Trung Thành lại đặt tên là rừng xà nu?Tên ấy có nguôn gốc ra sao, đã gợi gắm điều gì qua truyện ngắn chống Mĩ này?

III) Phân tích hình tượng cây xà nu:

Nguyễn Trung Thành đã chọn một loại cây rất gàn gũi với đời sống của đồng bào Tây Nguyên làm biểu tượng cho sức sống mãnh liệt và phẩm chất anh hung của dân làng Xô man , nhân dân Tây Nguyen trong công cuộc chống Mĩ cứu nước :cây xà nu.

A. NÉT ĐẶC SẮC CỦA TRUYỆN LÀ CÁCH TẢ “RỪNG XÀ NU” VÀ “CÂY XÀ NU”

Trong truyện , Nguyễn Trung Thành đã hai mươi làn nói đến rừng xà nu ở nhiểu góc độ khác nhau : nhụa xà nu , ngọn xà nu , đồi xà nu , khói xà nu , lửa xà nu , dầu xà nu …và khái quát , bao trùm tất cả là rừng xà nu .

Cây xà nu sinh sôi nảy nở nhanh , mạnh , bạt ngàn: sinh sôi nảy nở khỏe….. ham ánh sáng mặt trời , trãi dài ra đến hết tầm mắt … nối tiếp tới chân trời.

Cây xà nu có sức sống mãnh liệt : cạnh một cây mới ngã gục , đã có bốn năm cây con mọc lên , ngọn xanh rờn , hình nhọn mũi tên lao thảng lên bầu trời .Có những cây mới nhú khỏi mặt dất , nhọn hoắt như những mũi lê . Đạn đại bác không giết nỏi chúng , nhũng vết thương của chúng chóng lành như trên thân thể cường tráng .

Chất sử thi của truyện ngắn được tạo bởi hình tượng cây xà nu . nó được khai thác từ nhiều góc dộ lăp đi lặp lại nhiều lần : đồi xà nu (bốn lần ) , rừng xà nu (năm làn ) với hàng vạn cây ưỡn tấm nguc lớn của mình ra , che chở cho làng…

B.RỪNG XÀ NU BIỂU TƯỢNG CHO CON NGƯỜI – DÂN LÀNG XÔ MAN NÓI RIÊNG , ĐỒNG BÀO TÂY NGUYÊN NÓI CHUNG.

Hình tượng cây xà nu đẹp tượng trưng cho thế hệ trẻ của làng Xô man, bất khuất , gắn bó với cách mạng như Mai , Dít , Tnú …

Hình ảnh cụ Mết tiêu biểu cho sức sống quật khởi của làng Xô Man , người nuôi giữ ngọn lửa khát vọng tự do , gắn bó với Đảng , với cách mạng cũng được ví nhủ một cây xà nu lớn.

Cả rừng Xô Man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng … là hình ảnh “ đồng khởi “ mãnh liệt của dân làng Xô Man.

Rừng cây nu và con ngừơi làng Xô Man tuy hai mà một , mang ỳ nghĩa biểu tượng rất cao đẹp và sâu sắc.
 
L

leejunki18

Phân tích nhân vật

A.Tnú:

Trứơc hết Tnú rất gắn bó với cách mạng . Từ nhỏ Tnú đã từng nuôi giấu cán bộ và hoàn thành xuất sắc công tác giao lien . Khi bị giặc bắt , Tnú dũng cảm chịu đựng những đòn tra tấn của giặc . Sau khi vượt ngục , anh cùng cụ Mết tiếp tục lãnh đạo dân làng Xô man mài giáo , mài rựa chiến đấu chống kẻ thù .

Tnú tha thiết thương yêu bản làng . Sau ba năm chiến dấu trở về làng , anh nhớ rõ từng hàng cây , từng con đường , từng dòng suối , bối hồi xúc động khi nghe tiếng chày chuyên cần rộn rã của những ngừơi đàn bà và những cô gái Strá của mẹ anh ngày xa xưa , của Mai , của Dít , từ ngày lọt long anh đã nghe tiếng chày ấy rồi.

Anh thương yêu vợ con tha thiết . Chứng kiến cảnh kẻ thù man rợ dung cây sắt đập chết mẹ con Mai , nỗi đau thương của Tnú dâng lên tột đỉnh. Anh lao vào lũ giặcc với một tiếng thét dữ dội và anh dang hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai.

Càng đau thương , Tnú càng căm thù giặc . Vợ con bị giết , long căm hận biến đôi mắt Tnú thành hai cục lửa lớn.

Khi bi giặc bắt mười đầu ngón tay Tnú bi đốt , anh không kêu lên một tiếng nào. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi.

Yêu thương , căm thù biến thành hành động. Tnú thét len một tiếng… Chính nỗi đau xé long của Tnú đã khiến cho anh và đồng bào anh dứt khoát đứng lên tiêu diệt cả một tiểu đội giặc hung ác . Rieng Tnú ra đi lực lưỡng , quyết tiêu diệt mọi kẻ thù tàn ác để bảo vệ bản làng , giải phóng quê hương . Chinh trong thực tế chiến đấu mà nhân vật vươn lên nhậnn thức đó , hiểu biết sâu sắc về kẻ thù và nâng long căm th2 cá nhân lên thành căm thù chung của cà dân tộc.

B.Cụ Mết

Cụ mết tiêu biểu cho truyền thống của làng Xô Man.Lịch sử chiến đấu của làng , qua lời kể của cụ Mết , thấm sâu vào tim óc các thế hệ .Cu là cầu nối giữa quá khứ và hiện đại , là pho sử sống của làng .

Tấm long cụ Mết đối với cách mạng trứơc sau như một. Cụ đã từng nói:”Cán bộ là Đảng , Đảng còn , núi nước này còn.”.Trong những năm đen tối , cụ cùng dân làng Xô Man , từ thanh niên , ông già bà già , đến lũ trẻ đi nuôi và gác cho cán bộ : năm năm chưa hề có một cán bộ bị giặc bắt hay giết trong rừng này.

Cụ Mết là linh hồn của làng Xô Man . Chính cụ đã lãnh đạo dân làng đồng khởi. Hình ảnh ông cụ mắt sang và xếch ngược , ngực căng như một cây xà nu lớn, cất tiếng nói vang vang nhu một trang sủ thi anh hung :”thế là bắt đầu rồi .Đốt lửa lên!...

Từ ngày ấy , làng Xô Man trở thành làng chiến đấu . Đó là phần đóng gáp không nhỏ của cụ Mết vào công cuộc giải phóng quê hương , bản làng.

C.DÍT

Dít là nhân vật tiêu biểu cho những cô gái Tây Nguyên thời chống Mĩ , trưởng thành từ những đau thương và quật khởi của dân làng . Trong thời gian dan làng Xô Man chuẩn bị chiến đấu , rồi bi địch bao vây , cụ Mết và Tnú dẫn đám thanh niên vào rừng . Chỉ có con Dít nhỏ , lanh lẹn, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên.Khi bị giặc bắt Dít bi chúng dọa bắn , đạn chỉ sượt qua tai , sém tóc cày đất quanh hai chân nhỏ … đôi mắt nó thí vẫn nhìn bọn giặc bình thản…

Ngày Mai bi giặc đánh chết và Tnú ra đi , trong khi mọi người , cả cụ già , đều khóc ví cái chết của Mai thì Dít vãn lầm lì , không nói gí cả , Mắt ráo hoảnh , Tất cả chi tiết trên thể hệin tính cách kien cường ,sức chịu đựng phi thường của Dít , biết dồn nén đau thương để nung nấu long căm thù . Như những ngừoi con bất khuất của Làng Xô Man , Dít căm thù . Nhu những con ngừơi bất khuất của làng Xô Man ,Dít căm thù trên cơ sở nhận thức rõ bản chất của kẻ thù , để quyết tâm chiến đấu tiêu diệt chúng.

Khi Tnú về thăm làng , Dít đã là bí thu chi bộ vừa là chính trị viên xã đội. Như Ngày nào , đôi mắt Dít mở to , bình thản, trong suốt khi gặp lai tnú . Dù trong long rất đỗi vui mừng , Dít vẫn thực hiện trách nhiệm kiểm tra giấy về phép của anh. Rồi từ chỗi gọi tnú là đồng chí ,Dít chuểyn sang gọi là anh , xưng em thật tự nhêin , như ngừoi em gái nhỏ của mai và Tnú ngày xưa và tỏ bày tình thâm thiêt :”sao anh về có một đêm thôi? …Bọn em đứa nào cũng nhắc anh mãi”.

D.bé HENG

Ngày Tnú ra đi lực lưỡng, bé Heng mới đứng đến ngan bụng anh, chưa biết mang củi , chỉ mới đeo cái xà_lét nhỏ xíu theo ngừơi lớn ra rẫy .Ngày Tnú về phép ,bé Heng trưởng thành với cách ăn mặc và trang bị ra vẻ một người lính , một chiến sĩ du kích của bản làng .Làng Xô Man giờ đây trở thành làng chiến đấu , và con đường vào làng [hải qua hai các dốc chằng chịt hầm chông, hố chông ngăn địch.Bé Heng đã góp phần không nhỏ vào việc thiết lập công sự này nên tỏ ra rất hãnh diện.

Nếu cụ Mết xứng đáng với hình ảnh cây xà nu đại thụ giữa rừng xà nu bạt ngàn xanh tẫhm thì bé Heng tượng trưng như cây xà nu mới lớn ngọn xanh rờn , hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời ,sẽ phát triễn đến đâu chưa ai biết được.

V)KẾT BÀI:

Nghệ thuậ miêu tả nhân vật của Nguyễ Trung Thành mang những nét độc đáo riêng đượm khí vị Tây Nguyên anh hung. Nếu xà nu tượng trưng cho các thế hệ dân tộc Tây Nguyên kiên cường thì các nhân vật cụ Mết , Tnú, Dít, bé Heng là hình ảnh những cây xà nu đại diẹn cho các thé hệ nối tiếp nhau của dân làng Xô Man,được khắc họa thật sinh động

Qua Rừng xà nu , ta hiểu biết và yêu mến them đất nước và con ngừoi Tây Nguyên . Họ đã đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp chiến đấu chung để giải phóng dân tộc.
 
L

leejunki18

4.Người lái đò sông Đà-Nguyễn Tuân

I/GIỚI THIỆU VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM:

Nguyễn Tuân là cây bút tiêu biểu cho nền văn xuôi lãng mạn thời kỳ phát triển cuối cùng trước Cách mạng tháng Tám. Sau Cách mạng tháng Tám , ông là một trong những nhà văn hăng hái “lột xác” từ bỏ cái cũ để đến với cách mạng và quần chúng cách mạng . Nguyễn Tuân là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc gắn liền vớI những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc , những thú vui tao nhã của người xưa . Văn Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp của sự tổng hòa văn hóa . Nàng văn của ông thật quảng giao đón du khách từ bốn phương trờI kiến thức : lịch sử , địa lý , quân sự , võ thuật , điện ảnh , hộI họa , điêu khắc , âm nhạc … Những kiến thức liên nghành đa dạng ấy tạo bề dày uyên bác trong vốn tri thức của nhà văn , nâng cho đôi cánh tài hoa bay bỗng . Chính vì thế , văn của Nguyễn Tuân còn là sản phẩm của một trí tuệ mẫn tiệp , vốn văn hóa sâu rộng , lịch lãm , từng trảI , thái độ nghiêm túc trong tìm tòi nghiên cứu .Trường hợp sông Đà là vậy . PhảI là Nguyễn Tuân và có lẽ chỉ có Nguyễn Tuân mớI không ngạI nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch sông , truy tìm tới tận nơi gốc tích khai sinh của sông Đà , biết chỗ phát nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đông , có thể kể tên vanh vách năm mươi trong số bảy mươi ba con thác dữ lớn nhỏ, nằm lô nhô suốt một dải sông từ Lai Châu đến chỗ biên giớI Việt_Trung về đến chợ bờ . Trong kho từ vị Việt , ngôn ngữ mang bản tính nguyên thủy của 1 vật liệu tĩnh , lạnh , khá ổn định . Tài năng của ngườI nghệ sĩ là biết vung cây gậy thần biến nó thành chất liệu động và nóng , phập phồng sự sống . Nổi trội trong các tài năng , văn Nguyễn Tuân là thứ ngôn từ nóng giẫy sự sống . Nhà văn độc đáo ấy luôn luôn độc đáo trong sự uyên bác, con người tài hoa , tài tình hiếm ai bì kịp ấy cũng đồng thờI là con ngườI luôn luôn có những hiểu biết khôn lường , khôn sánh về những gì được nói tới ở văn mình . Nguyễn Tuân còn là một bản ngã văn chương không hề giống vớI một ai , và cũng không thể có một ai mong bắt chước . Những điều đó đều được thể hiện rất rõ nét qua tập tùy bút “ Sông Đà ” mà tiêu biểu và đặc sắc nhất là tác phẩm “ Người lái đò sông Đà ” . Những trang viết trong “ Người lái đò sông Đà ” đẹp còn vì tác giả đã in cái bản ngã độc đáo ấy vào sông nước Đà giang, đã thêm cái vẻ đẹp rất chủ quan của tâm hồn và tưởng tượng vào cái vẻ đẹp rất khách quan của dòng sông , để dần dần làm cho dướI ngòi bút tuôn chảy một con sông Đà mang dấu ấn thật riêng của nhà văn , một con sông Đà đã được chinh phục và chi phốI bởI thứ quyền năng riêng của ngườI cầm bút mà Nguyễn Tuân vốn có nhiều hơn ai hết - quyền năng của ngôn từ .


II/ NHỮNG NÉT ĐẶC SẮC TRONG TÁC PHẨM:


Nhan đề “Người lái đò sông Đà” ùa vào ta một liên tưởng kép : Nguyễn Tuân xưng tụng ông lái đò tài hoa trí dũng trên dòng sông thiên nhiên bạo liệt , còn ngôn ngữ Nguyễn Tuân lạI hùa nhau xưng tụng tác giả của nó như một ông lái bậc thầy con thuyền chữ trên một dải sông văn không kém thác ghềnh . Nguyễn Tuân đã giớI thiệu đến chúng ta hình ảnh đầy sinh động về sông núi miền Tây Bắc cũng như những con ngườI Tây Bắc dũng cảm ngoan cường . Bài ca lao động và bài ca ngôn từ song hành trong một áng kí lạ . Chính Nguyễn Tuân đã hạ bút ngay từ khúc dạo đầu :

“ Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu ”


Dòng sông từng một thời là nỗi đau của một đất nước bị rách đôi đã là đề tài cảm hứng cho biết bao các tác phẩm nghệ thuật . Thế nhưng dù đã có bao người khắc , vẽ , và kể chuyện về sông Đà , làm thơ và ca hát với sông Đà thì có lẽ vẫn chưa ai vượt hơn được Nguyễn Tuân trong việc biến vùng sông nước ấy thành nghệ thuật , thành một gợi cảm mênh mang trong “ Người lái đò sông Đà ” . Câu đề từ của Nguyễn Tuân vừa thâu tóm lấy cái thần sông Đà , vừa tóm luôn cái thần chữ của mình . Một mặt “ bắc lưu ” là sư cưỡng lạI “ đông tẩu ” , cái riêng độ đáo là sự cưỡng lạI sức sói mòn của cái chung nhàm cũ . Mặt khác , “ bắc lưu ” chỉ tồn tạI trước “ đông tẩu ” , cái riêng độc đáo chỉ tồn tạI trước cái chung của nó đồng nghĩa vớI cái cao hơn sự khác lạ là cái sáng tạo . Sông Đà , con sông độc lạ thật thích hợp vớI một ngòi bút độc lạ . Nguyễn Tuân đã lay con sông vô tri thức dậy , tướI vào linh hồn nó , và ông khai sinh dòng sông nghệ thuật của minh bằng một cái tên đủ in luôn tính nết vào nó : “hung bạo và trữ tình” . Tính cách sông Đà là một hệ thống những phẩm chát đốI chọI nhau nhu nước vớI lửa , và phảI từ những nghịch lí nghịch âm ấy , con sông mớI có đủ điều kiện phô bày hết vẻ phức tạp phong phú , đầy hấp dẫn của mình .


Nguy hiểm nhất là những cái hút nước “ giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu ” , “ không thuyền nào dám men lạI gần những cái hút nước ấy , thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông , y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngòai bờ vực” , “ vô ý là bị những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống ” … Cái thuyền bị con sông nuốt vào bụng , gợI cảm giác lạnh ngườI : ” thuyền trồng ngay cây chuốI ngược rồI vụt biến đi , bị dìm và đi ngầm dướI lòng sông đến mươi phút sau mớI thấy tan xác ở khủynh sông dướI ” . NgườI ta nói văn Nguyễn Tuân là thứ văn ham cảm giác mạnh , có lẽ vì thế mà cái hút nước hiểm nguy kia trở thánh một đam mê dướI ngòi bút của ông . Ông tiếp tục gây áp lực lên hệ thần kinh ngườI đọc bằng cách bắt họ phảI tự chiêm nghiệm cảm giác lạ lùng này : “ Tôi rất sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả , đã dũng cảm ngồI vào một cái thuyền thúng tròn vành rồI cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà , - từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tớI một cột nước cao đến vài sảI . Thế rồI thu ảnh . Cái thuyền xoay tít , những thước phim màu cũng quay tít , cái máy lia ngược contre-plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây tòan bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khốI đúc dày , khốI pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả ngườI quay phim cả ngườI đang xem . Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xóay tít đáy , truyền lại cho ngườI xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồI giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn . ” Tiếp theo đó là những con thác-tâm điểm dữ dộI của sông Đà : ” tiếng thác nước nghe như là óan trách gì , rồI lạI như là van xin, rồI lạI như là khiêu khích , giọng gằn mà chế nhạo ”, “ rống lên như một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa , đang phá tuông rừng lửa , rừng lửa cùng gầm thét vớI đàn trâu da cháy bùng bùng ” . Nguyễn Tuân đã lấy lửa tả cái vốn đốI lập vớI nó la nước , lấy rừng để tả sông khiến ta có được cái nhìn tổng quan hơn và thú vị hơn về sự tương giao sức mạnh của các lực lượng tự nhiên . Những hòn đá như những khuôn mặt mà : ” mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược , hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này ” . Thậm chí, đá như những chiến binh “ bệ vệ oai phong lẫm liệt ” , “ một hòn đá ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏI cái thuyền phảI cưng tên tuổi trước khi giao chiến “ . Những hòn đá bày “ thạch trận trên sông ” , đẩy con thuyền vào tình trạng nguy nan nhất . Nhà văn như một trinh sát tinh tường, đã vẽ lại cái sơ đồ “ thạch trận ” ấy của quân - tướng - đá Sông Đà : “ đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền ” , ” đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông ” , quyết tâm “ phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng và thủy thủ ngay ở chân thác ”. Người đọc như được tác giả đặt lên con thuyền đang vun vút , phang phang xuống thác để cảm thấy quanh minh nước thác hò reo bốn mặt và những hòn đá ngỗ ngược phía trước như nhất tề “ nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền ” .


Cảm giác hình gắn với cảm giác âm nên ám ảnh của văn Nguyễn Tuân càng mạnh . Ở đây , ngườI đọc lại hứng khởi nhận ra một đặc điểm khác của văn Nguyễn Tuân: những câu văn của ông thường liên kết trong một tính liên hòan giàu giá trị thẩm mỹ , có hả năng thôi miên người đọc trong một chuỗI dây chuyền liên tưởng ngỡ như vô tận . Để diễn tả một dòng sông dữ tợn và hung hãn như thế , Nguyễn Tuân đã sử dụng rất nhiều phép so sánh và nhân hóa : tiếng thác “ rống ” trở thành tiếng trâu mộng “ lồng lộn ” , tiếng rừng lửa “ gầm thét ” . Sức mạnh hoang dã của thiên nhiên qua miêu tả của Nguyễn Tuân như một trận động rừng , động đất hay núi lửa thời tiền sử . Sông Đà như lòai thủy quái vớI những nanh vuốt nơi mặt ghềnh , hút nước và thạch trận dữ hiểm , được nhà văn ví như “ kẻ thù số một của con ngườI ” . Và đọng lại cuối cùng trong lòng người đọc là một sông Đà được nhìn như một hung thần , gây cảm giác hãi hùng về cuộc quyết đấu dữ dội giữa con người và thiên nhiên đã diễn ra nơi đây hằng bao thế kỷ .
 
L

leejunki18

Bên cạnh một Đà giang hung bạo , Nguyễn Tuân còn cho ta thấy một sông Đà trữ tình , hiền hậu : “ cái dây thừng ngoằn ngòeo ” dưới chân người ngồi trên tàu bay nhìn xuống , “ tuôn dài như một áng tóc trữ tình , đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trờI Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân ”. RồI lại “ như một cố nhân ” trong nỗI niềm du khách , như “ cái miếng sáng lóe lên ” trong trò chiếu gương con trẻ , như một “ bờ tiền sử ”, như “ một nỗI niềm cổ tích ngày xưa ” … Những so sánh biến hóa không trùng lặp , luôn gây men bằng những đột ngột , ngườI đọc sửng sốt vì những so sánh lạ lẫm , gây đứt quãng liên tưởng , để rồI thán phục nhận ra không thể so sánh hay hơn , đúng hơn , và cứ thế bị thôi miên vào mê hồn trận của hững so sánh ăm ắp tràn bờ …. Vẻ đẹp ngôn ngữ của Nguyễn Tuân không đơn thuần là thứ trời cho . Nhà văn phảI lao động cật lực , trong đó có khổ công quan sát . Liệu đã mấy ai có đủ công phu quan sát những biến đổI tinh vi đến thế của sông Đà , với “ mùa xuân dòng xanh ngọc bích , chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm , Sông Lô ”, “ mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa , lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về ” , giữa hai mùa ấy là cái “ nắng tháng ba Đường thi ”… Sông Đà giàu ám ảnh trở thành nỗi nhớ thật da diết của con ngườI .


Con sông ấy là hình ảnh thiên nhiên mà Nguyễn Tuân đã từng muốn “ trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một ” , nhưng thiên nhiên ấy cũnng chính là kẻ tôn vinh số một giá trị của con ngườI . Một sông Đà góc cạnh như thế ắt cần đến một đối tượng giao tiếp tương xứng cỡ ông lái đò . NgườI lái đò kia sẽ là ai nếu con tuyền của ông không phảI vật lộn với “ dòng thác hùm beo đang hồng hộ tế mạnh trên sông đá ” ? Có thể người ấy sẽ mang một vẻ đẹp nào đó của ông ngư, ông chài, ông lái … nhưng sẽ không thể trở thành đối tượng của một khúc hùng ca . Trái lạI , chính cái hùng vĩ của sông của thác , của sông nước Đà giang sẽ đưa con ngườI dám đương đầu và chiến thắng thần đá thần sông lên hàng oai linh tối thượng . Người xưa vẫn coi “ cưỡi con gió mạnh , đạp đầu sóng dữ ” là biểu tượng cho một lý tưởng sống anh hùng . Và người lái đò ở đây đã sống cuộc sống mà phải “chiến đấu” hàng ngày trên “ chiến trường” ghềnh thác của con sông dữ. Trong văn học có nhiều cách để gây ấn tượng vớI ngườI đọc . Nguyễn Tuân muốn trình bày một ngườI lái đò gắn bó máu thịt vớI dòng sông Đà , để con ngườI ấy có thể kể về sông Đà như “kể về lòng bàn tay mình” vậy . Người lái đò trong tác phẩm là một ngườI “ đã thôi làm đò cũng đôi chục năm nay ” , nhưng công việc ấy ,cuộc sống ấy đã ăn sâu vào đờI sống , vào tâm hồn , vào cung cách của ông . “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khùynh khùynh gò lạI như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng … nhỡn giớI ông vòi vọI như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù ” . Cái cuống lái ấy không hề “ tưởng tượng ” tí nào mà nó đã nhập vào đờI sống của ông, trở thành một “ điệu bộ ” không thể thiếu được đốI vớI suốt quãng đờI còn lạI của ngườI lái đò . Sự gắn bó của ngườI lái đò vớI nghề lái đò mật thiết đến mức , dù cái công việc “ lái đò ” thật đã ngưng nhưng cái hình thức của công việc ấy , cái tinh thần của công việc ấy vẫn tiếp tục “ lái đò ” trong đờI sống của ông . Mặc dù tác giả miêu tả sự gắn bó của ông lão vớI dòng sông , vớI nghề lái đò hết sức độc đáo như vậy nhưng nếu không có những điểm nhấn khác , rất có thể ngườI đọc sẽ nhầm ông lão lái đò này vớI bất kì ông lão lái đò nào khác trên những dòng sông khác . Nhưng đây là dòng sông Đà vớI ngườI lái đò trên dòng sông hùng vĩ này . Thế cho nên, ngườI lái đò có một đặc điểm rất độc đáo là khi lái đò ông chỉ muốn “ cắm thuyền ở chợ Bờ “ , nơi mà con sông Đà bắt đầu chảy êm ả , đoạn sông “ hết ghềnh hết thác ” là ông cũng hết hứng thú vớI công việc ngay vì “ chạy thuyền trên khúc sông không có thác , nó dễ dạI tay , dạI chân và buồn ngủ ” . Câu văn này có tính triết lý rất cao . Những khó khăn - ghềnh thác của cuộc sống càng làm cho con ngườI lớn mạnh và chăm chỉ hơn . Sự êm ả , phẳng lặng đôi khi khiến con ngườI ta nhụt chí và tự ru ngủ mình . Ông lái đò dường như luôn luôn đam mê đốI mặt vớI những khó khăn , hiểm nguy . Đó là một tính cách mạnh mẽ và anh hùng . Cái tính cách mạnnh mẽ ấy không phảI ông , và hầu hết chúng ta , có được ngay từ khi mớI lọt lòng mẹ . Tính cách ấy , ý chí ấy được hun đúc dần dần qua những khó khăn , vất vả của cuộc đờI . Ông lái đò thể hiện sự hình thành “ tính cách ” của mình qua “ trí nhớ ông được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở . Sông Đà, đốI vớI ông lái đò ấy , như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thộc đến cả những cái chấm than chấm câu và những đọan xuống dòng ” . Mặc dù là ngườI rất tỉ mỉ khi dùng từ nhưng ở câu văn này , Nguyễn Tuân đã quá dễ dãi khi dùng hai từ “ tất cả ” đi gần liền nhau trong một câu văn mà không tạo thêm ấn tượng nào cả . Tuy nhiên , ở câu văn mô tả nghề lái đò tiếp sau , Nguyễn Tuân lạI cho thấy khả năng dùng từ lão luyện của mình : ” Làm cái nghề vận tảI đường nước này thật là vất vả , ngườI cứ dựng đứng lên mà luôn tay luôn chân luôn mắt luôn gân và luôn tim nữa ” . Công việc đòi hỏI tòan bộ sức lực , tòan bộ ý chí , tòan bộ tình cảm mơ ước . Đó là đòi hỏI tất yếu không chỉ của nghề lái đò mà còn là sự đòi hỏI của bất cứ việc gì , để đạt được thành công , chúng ta cũng phảI “ luôn tay luôn chân luôn mắt luôn gân và luôn tim nữa ”.
 
L

leejunki18

Cuộc sống của ngườI lái đò sông Đà là một cuộc chiến đấu hằng ngày . VớI ngừơi chiến sĩ trên chiến trường , giờ phút ác liệt nhất là lúc đánh gíap lá cà , lúc công đồn , hạ lô cốt đốI phương . VớI ngườI lái đò Sông Đà , đó hính là lúc leo ghềnh , vượt thác . Miêu tả cuộc chiến đấu này , Nguyễn Tuân đã tung ra một độI quân ngôn ngữ thật hùng hậu , đa dạng , biến ảo thần kì vớI liên tục những phép tu từ vô cùng sinh động : so sánh ngầm , nhân hóa , cường điệu … Câu chữ tuôn chảy ào ạt , điệp điệp trùng trùng , gốI lên nhau , nốI theo nhau dâng lên cao , hạ xuống thấp , rồI lạI lên cao , lên đến cao trào … Hình tượng dòng sông , ngọn thác , con ngườI cứ nhấp nhô , sôi sục trong dòng chảy của văn chương , cứ dạt dào , ào ạt trong thanh âm của chữ nghĩa , như một dàn giao hưởng khổng lồ , như một dàn giao hưởng khổng lồ , như một bức tranh hòanh tráng . Nhà văn đã dụng tâm diễn tả cuộc chiến giữa ông lái đò vớI dòng sông theo hướng thọat đầu tưởng như hai bên không cân sức . Để tiếp ông khách không vừa này , sông Đà “ bày thạch trận trên sông ” vớI một thế trận bài bản theo kiểu binh pháp Tôn Tử : cửa tử , cửa sinh , đánh vu hồI , đánh du kích , đánh mai phục , đánh giáp lá cà … Quanh con ngườI đơn độc , “ mặt nước hò la vang dậy … , ùa vào mà bẻ gãy cán chèo . Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gốI vào bụng và hông thuyền . Có lúc chúng độI cả thuyền lên . Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trờI thanh la não bạt ” , sóng thác còn “ đánh đến miếng đòn độc hiểm nhất , cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ ngườI lái đò ” , “ đánh hồI lùng , đánh đòn tỉa , đánh đòn âm vào chỗ hiểm … ” Vậy mà đốI địch lạI , ông đò có những gì ? Một chiếc thuyền mỏng mảnh , trên đó , con ngườI thật nhỏ bé biết bao giữa luồng thác đang giận dữ , hai tay ghì níu lấy mái chèo , “ hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái ” , “ mặt méo bệch đi ” do “ cố nén vết thương ” . Thế nhưng , ba lớp trùng vi của một “ thạch trận ” đầy cửa tử đã không ăn chết được một con thuyền đơn độc hết chỗ lùi . Các dũng tướng ngày xưa , nếu vào đúng cửa sinh và đánh thốc ra đúng cửa sinh là đốI phương tan tành thế trận . Ông đò của Nguyễn Tuân cũng thế . Giữa cái thế giớI của độc dữ và nham hiểm , thế giớI đầy sức mạnh man dạI và lập lờ cạm bẫy , con ngườI vẫn đủ khả năng tìm thấy luồng sinh . NgườI lái đò của Nguyễn Tuân không có phép màu . Ông cũng không có được sức lực như Thủy Tinh . VớI tư thế của kẻ đã nắm chắc “ binh pháp của thần sông thần đá ” , ông lái đò nhỏ bé sừng sưng hiện lên như một viên tướng trí dũng song tòan trước con thủy quái khổng lồ kia . Cái kinh nghiệm đò giang sông nước , lên xuống thác ghềnh , cái trí tuệ của ngườI lao động đã khiến cho ông lái , dù trong tay vẫn có cây chèo , vẫn có thể phá thành vượt ảI như một chiến tướng bách thắng trong sự nghiệp đấu tranh chống thiên nhiên . Để miêu tả cuộc giao tranh giữa ngườI và thác dữ , Nguyễn Tuân đã vốc tớI ngót 300 động từ để đủ sức ganh tài cùng cơn cuồng nộ Đà giang và trí lực ông lái phi thường . Tần số động từ đậm đặc nhất là ở trường đọan hỗn chiến giữa ngườI và sông nước khiến ngườI đọc nghẹt thở . Cơn cuồng phong động từ xô lên cùng cơn thịnh nộ sông Đà : “ rống lên , nhổm cả dậy , vồ lấy , đánh khúyp , reo hò , thúc , độI , túm , lật ngửa , bóp chặt … ” . Phía ông lái , động từ cũng hợp sức tạo nên thế cưỡI hổ tung hòanh : “ nắm chặt , ghì cương , bám chắc , phóng nhanh , lái miết , đè sấn , chặt đôi , phóng thẳng , chọc thủng … ” . Hai hệ thống động từ đốI chọI , tương phản gay gắt , nhưng vẫn thấy nổI lên thế chủ động , lấn lướt của ông lái đò . Quả là một bức tranh chiến trận hào hùng , ngôn ngữ Nguyễn Tuân hả hê tụng ca con ngườI trong cuộc quyết đấu vớI thiên nhiên để giành sự sống . Trong cuộc chiến gian nguy ấy , con ngườI đã “ không một chút nghỉ tay nghỉ mắt , phảI phá luôn vòng vây thứ hai và thay đổI chiến thuật ” . Nếu chỉ có ý chí kiê cường không thôi thì chưa đủ . Con ngườI phảI có tri thức , có kinh nghiệm để thấu hiểu những khó khăn ấy . ĐốI vớI ông lái đò , ông đã quá “ thuộc ” những ghềnh thác trên dòng ông hiểm trở này . Điều đó tạo cho ông niềm tin vượt qua được những thử thách ấy … ” nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồn rồI , ông đò ghì chương lái , bám chắc lấy luồng nước đúng mà phónh nhanh vào cửa sinh , mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy ” , rồI ” đứa thi ông tránh mà rảo bơi chèo lên , đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến ” . Sự điềm tĩnh , hành động dứt khóat mà ông lái đò vượt qua thế trận của thác nước và đá ngầm , chính là cái điềm tĩnh của một ngườI có tri thức , có kinh nghiệm đứng trước khó khăn của cuộc đờI .


ĐốI vớI ngườI lái đò , hiểm nguy trên dòng sông cũng chính là một phần trong cuộc sống của ông . Khi vượt qua gian nguy , “ sông nước lạI thanh bình . Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá , nướng ống cơm lam , và tòan bàn tán về cá anh vũ , cá đầm xanh … Cũng chẳng thấy ai bàn thêm một lờI nào về cuộc chiến thắng vừa qua ” . Nhà văn như muốn nghỉ ngơi sau chặng đường dài cùng nhân vật của mình đua trah tài trí vớI thiên nhiên hung dữ . Song qua giọng văn nhẹ nhàng , ta lạI thấm thía thêm một vẻ đẹp của ngườI lái đò . ĐốI vớI ngườI lái thuyền , vượt qua ngọn thác không phảI là điều gì quá đặc biệt , không phảI là chiến thắng bởI vì “ khi chưa vượt thác ” ông đã “ biết trước sẽ vượt qua nó an tòan ” . Đó chính là tính cách đặc biệt của ngườI lái đò . Ông có được niềm tin ấy vì ông - ngườI lái đò “ đã nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước sông Đà ” .Và chính vì “ cuộc sống của họ ngày nào cũng chiến đấu vớI sông Đà dữ dộI , ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác , nên nó cũng không có gì la hồI hộp đáng nhớ … ” . Cái phi thường đã trở thành bình thường. Phẩm chất chiến sĩ đã hòa quyện vớI phong thái tài tử , nghệ sĩ .



III/ KẾT LUẬN :


Đọc “ Người lái đò sông Đà ” , suy ngẫm về nhân vật ông đò , chúng ta nhớ đến nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm “ Chữ ngườI tử tù ” Nguyễn Tuân sáng tác trong giai đọan trước Cách mạng tháng Tám 1945 , dù họ vẫn có nhiều nét riêng biệt . Họ xuất hiện trong hai thờI kì khác nhau của lịch sử đất nước , song cả hai đều giống nhau ở chất nghệ sĩ , chất chiến sĩ , vẻ đẹp thăng hoa của con ngườI trong vị trí xã hộI, trong công việc cụ thể .


Có ngườI đã nghĩ một cách khá lí thú rằng Nguyễn Tuân cũng giống như chính dòng Đà giang ấy , không muốn , không chịu để văn mình phảI lụy thói thường mà sẵn sàng phiêu du theo những hướng chảy chưa ai từng trảI qua để mong tìm ra niềm vui lạ . Cũng có thể nghĩ thêm rằng , về mặt nào đó , Nguyễn Tuân cũng giống vớI chính ông lái đò mà nhà văn đã quay phim , đã tạc khắc , đã thể hiện trong bản giao hưởng ngôn ngữ nên thơ và hòanh tráng của mình . Cũng như ngườI lái đò nọ chăm chú miết mái chèo cho con thuyền vút theo thật đúng dòng tim của luồng sinh , nhà văn , giữa sự chống chéo ngổn ngang rắc rốI của những dòng thác ngôn từ và ý tưởng , đăm đăm để cố tìm cho ra một “ luồng sinh ” cho nguồn cảm hứng tuyệt vờI . Ngôn ngữ cũng có những mặt giống như thác đá lòng sông , lập lờ nhiều cửa tử để đánh lừa ngườI viết . Có thể nói Nguyễn Tuân cũng đã bỏ ra một công phu xứng vớI công phu của ông đò mà ông miêu tả để chèo lái con đò văn cập bến bờ cái đẹp . Có thể coi Nguyễn Tuân là ngườI đã nắm vững “ binh pháp ” của ngôn ngữ . VớI một ý thức ngôn từ mớI mẻ , hiện đạI , Nguyễn Tuân đã truyền hồn cho chữ , chữ truyền hồn cho dòng sông , và dòng sông truyền cảm xúc cho ngườI đọc . Nhưng tác giả “ Người lái đò sông Đà ” cũng không phảI là con ngườI duy mĩ . Ta trọng sự tinh tế của ông trong cảm thức về cái đẹp . Nhưng qua thiên tùy bút , ta hiểu rằng cái còn đáng trọng hơn nữa của ông vẫn là tình yêu thiết tha thiên nhiên đất nước , là sự tôn kính công sức lao động của con ngườI .
 
L

leejunki18

5.Việt Bắc-Tố Hữu

Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4-10-1920, quê làng Phù Lai, xả Quảng Thọ, huyện Quàng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế

Thơ của ông luôn có sức thu hút to lớn với những thế hệ người đọc qua mấy chục năm, chính là ở niềm say mê lý tưởng và tính dân tộc đậm đà trong nội dung và hỉnh thức thơ cuả ông.

Nói thơ của ông mượt mà truyền thống dân tộc, bởi lẽ, ngay từ lúc ấu thơ,tâm hồn Tố Hũu đã được vun đắp, ấp yêu trong những câu ca dao, tục ngữ của cha , những bài dân ca xứ Huế, những giọng hò tha thiết, ngọt ngào của mẹ và trong cái nôi quê hương thơ mộng đất Huế, giàu văn hóa, bản sắc dân tộc, đã hình thành nên một hồn thơ của truyền thống, của quê hương- hồn thơ Tố Hữu.

Bước vào tuổi thanh niên đúng vào những năm cao trào cách mạng, Tố Hữu nhanh chóng bị lôi cuốn vào phong trào đấu tranh, gặp gỡ may mắn và đẹp đẽ với lý tưởng cách mạng. Do đó đã dịnh hình ở Tố Hữu phẩm chất tốt đẹp của người chiến sĩ cách mạng. Vũ khí của chiến sĩ là súng, nhưng ở Tố Hữu bằng cả ngòi bút, bởi vì đối với ông thơ và cách mạng đã hòa là một, trong thơ có lý luận chính trị sắc bén , trong cách mạng có tiếng nói ân tình thủy chung của người con xứ Huế Tố Hữu .

Sống giữa quê hương luôn biến động , hồn thơ Tố Hữu được trui rèn và thường vang ứng nhạy bén, dạt dào cảm hứng trước những bước ngoặc lịch sử , nên con đường thơ cũng đồng hành, gắn bó với những giai đoạn ấy .

Vì thế ta dễ hiểu lý do Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc, rút ra từ tập thơ cùng tên, là một đỉnh cao, một tác phẩm xuất sắc trong thời kì kháng chiến chống Pháp.Việt Bắc được sáng tác tháng 10 năm 1954 khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, Trung ương Đảng và chính phủ quyết định rời căn cứ từ Việt Bắc về Hà Nội. Đây là lúc giao thời giữa lịch sử và lòng người.Trong không khí hân hoan của cuộc sống mới, Tố Hữu hướng tâm hồn mình vào một nỗi niềm khác. Ông tự hỏi rằng liệu trong thời đại mới, con người có dễ dàng quên đi những năm tháng chiến đấu gian khổ, vĩ đại đã qua, liệu chúng ta có dễ dàng thoả mãn bằng lòng với hiện tại mà mờ phai quần chúng đã hi sinh đổ máu.Trong lúc giao thời ấy nhưng lại nhạy cảm với tâm hồn thơ Tố Hữu, Việt Bắc xuất hiện như một tiếng nói ân tình, tha thiết của tác giả với nhân dân kháng chiến, cũng là sự ngụ ý với tất cả mọi người.



Việt Bắc, bài thơ truyền thống, hình thức gần gũi nhưng nội dung có sự tìm tòi sáng tạo của tác giả.


Cả đoạn trích liên tục với những câu thơ 6,8 trải dài nên cấu tứ gần với thể loại ca dao dân ca.Và hình thức thể hiện chỉ ca dao, dân ca mới có, dó là lối đối đáp của kẻ ở người đi, chân thành, tha thiết không kém lối dao duyên của nam nữ, của những người yêu nhau. Thêm vào đó là giọng điệu ngọt ngào tâm tình, nhạc điệu theo cấu trúc 4/4 xoáy sâu vào lòng người đọc những ân hưởng du dương cuả văn học dân tộc. Cho nên Việt Bắc rất gần gũi, dễ nhớ, dễ thuộc.Việt bắc quả là một tác phẩm mang đậm tính nghệ thuật dân tộc.

Nhưng nếu chỉ có thế thì xem ra Tố Hữu không có gì là đổi mới, sáng tạo về nghệ thuật.Nhưng khi xét cái hay của tác phẩm, ta không chỉ đơn thuần thưởng thức tác phẩm ở hình thức, cấu trúc thơ mà còn ở cái hồn, chính là nội dung tác phẩm.Với Việt Bắc, thoạt nhìn cứ tường đây là cuộc tâm tình giữa những cá thể nhưng đọc kĩ, ta phát hiện ra cái riêng tâm tình ấy đã hoá thành cái chung, một vấn đề hết sức to lớn không của riêng ai, đánh động vào không ít tâm hồn người đọc: đó chính là mối ân tình gắn bó thuỷ chung giữa chiến sĩ cách mạng và nhân dân vùng kháng chiến.

Đến đây đã thể hiện được tài năng cách mạng hoá, chính trị hoá thơ Tố Hữu.Nhưng cách mạng hoá,chính trị hoá ở đây không phải là đưa thơ vào chỗ khô khan, tuyên truyền mà với Tố Hữu đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống dân tộc và tư tưởng tiến bộ , nhạy cảm.Cho nên đọc việt bắc ta cảm nhận được sự thân quen, gần gũi nhưng lại có cảm giác bừng tỉnh, mới mẻ, sâu sắc.



Đoạn trích mở đầu với cuộc chia ly thấm đẫm sự lưu luyến, thương tiếc:


Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay


Đại từ “mình-ta” được lặp đi lặp lại nhiều lần, không biết tự khi nào “mình” và “ta” đã gắn bó gắn bó gần gũi, keo sơn như vậy. “Ta”-nhân dân Việt Bắc thiết tha cất tiếng hỏi người ra đi:

Mình về mình có nhớ không?

tựa như nỗi niềm của ngưởi con gái luyến tiếc, không đành lòng chia tay người yêu. “Mình” ra đi liệu có khắc cốt ghi tâm ơn tình, ân nghĩa của “ta”.Cho nên câu hỏi có sự lắng đọng sâu sắc, từ thắm trong tâm hồn “ta” mong chờ ở mình sự chung thuỷ, nhớ thương như tình cảm của “ta” đối với “mình”.

Đáp lại sự thiết tha của người ở lại, người ra đi cũng tha thiết nên nỗi không cất thành lời.Tấm lòng luôn hướng về những kỉ niệm, sự yêu thương, gắn bó cùng thời gian, người ra đi mang bên mình một nỗi bâng khuâng, bước đi không đành, bồn chồn, không dứt khoác.

Trong giây phút này, bất kì lời nói nào cũng không tỏ hết nỗi lòng của kẻ đi người ở, chỉ biết nắm tay nhau thật chặt, truyền cho nhau cảm xúc, cảm giác, truyền cho nhau câu trả lời thầm kín để ngươì ở lại tin rằng, dù mai sau, dù có ở đâu chăng nữa,tấm lòng này vẫn chung thuỷ, sắt son hướng về nơi ân nghĩa tình người.

Đoạn trích mở đầu thật xúc động, sâu lắng, dù không có câu trả lời của người ra đi nhưng ta lại nhận ra một mạch ngầm tri âm hiện hữu. Điều đó nói lên rằng ta và mình vốn thương nhau, gắn bó như ruột thịt, không cần nói vẫn hiểu nhau.

Chỉ bằng những câu thơ đầu tiên đã thể hiện tài năng tột cùng của tác giả khi thể hiện hình thức thơ. “Mình” và “ta” , tựa như hai cá thể đang đối thoại nhưng thật ra là sự độc thoại của chính tác giả.Tố Hữu,cũng là chủ thể trữ tình, phân thân để dễ dàng bày tỏ tâm trạng, cảm xúc.Cuộc đối thoại vốn chân tình, sâu lắng như vậy chắc hẳn tấm lòng của tác giả còn da diết, không đành hơn nữa.Qua đó cho ta thấy một điều, mối tình giữa nhân dân vùng kháng chiến và chiến sĩ cách mạng trong sáng, hoà quyện, không thể tách rời.


Vẫn lời tha thiết của người ở lại, khổ hai mở ra một Việt Bắc đắng cay,sục sôi ý chí, ơn nghĩa , keo sơn:


Trong gian khổ của những năm đau thương chiến đấu, sự khắc nghiệt cuả thiên nhiên, vật chất thiếu thốn không làm lung lay ý chí con người, “mình” và “ta” đùm bọc, gắn bó, gian khó bao nhiêu thì tinh thần lên cao, quyết tâm trả thù bấy nhiêu:

Mình đi có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?


Một tấm lòng, một ý chí, “ta” và “mình” đã cùng vượt qua bao khổ đau để đến với một niềm tin vào ngày mai, tấm lòng ấy đậm đà, toả sánh như ánh nắng chiếu sáng những âm u, của “những mây cùng mù”, của những “hắt hiu lau xám”


Mình đi,có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son


Tiểu đối “hắt hiu lau xám” với “đậm đà lòng son” làm cho câu bát có cấu trúc đẹp , hài hoà khiến cho màu son của tấm lòng Việt Bắc như càng hắt sáng lên trên nền lau xám nghèo khó,mang đến sự xao xuyến mãi.

Những cấu trúc câu 4/4 liên tục rõ ràng, mạch lạc, mang đến nhạc điệu êm ả, khiến cho câu thơ như một bài hát ,của sức mạnh, sự nhắc nhở và niềm tin.



Qua bao câu hỏi thiết tha của người ở lại, giờ đây người ra đi mới cất tiếng, khẳng định một tấm lòng trước sau như một:


Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước , nghĩa tình bấy nhiêu


Đọng trong tâm trí người ra đi là ánh trăng, là nắng chiều:

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Là từng bản khói bên bếp lửa thân quen, nhớ từng củ sắn lùi, những bữa ăn đạm bạc nhưng ấm cúng:

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về

Thương nhau , chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nữa, chăn sui đắp cùng

Và từng rừng tre nứa bao bọc, che chở chiến sĩ trước quân thù

Hay cảm động xót xa trước hình ảnh người mẹ địu con trên đồng nắng gắt bẻ từng bắp ngô:

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô

Ôi, bao nhiêu gian khổ, nhưng những đắng cay ấy lại làm nên một tinh thần đoàn kết, cứng rắn, luôn yêu đời :

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo

Bây giờ xa rồi, tưởng chừng như tâm hồn mình đứng lại, chợt lắng nghe hay là tưởng tượng, âm thanh cuả tiếng mõ, tiếng cối đều đều, cứ chạm sâu vào tâm can, như gọi người ra đi trở lại:

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa

Bởi vậy mới biết tấm chân tình của chiến sĩ và nhân dân Việt nam sấu sắc đến nhường nào
 
L

leejunki18

Nếu khổ thơ trên chỉ là đơn thuần nhớ về con ngưòi vùng Việt Bắc thì khổ thơ sau đây thể hiện chiều sâu vượt bậc của Tố Hữu khi nâng cao giá trị của con người, cùng với thiên nhiên đã làm nên một vẻ đẹp lung linh của vạn vật nơi này:


Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung


Tố Hữu ví người như hoa, cũng phải, bởi “người ta là hoa đất”, đó là những người dân lao động cần cù, trẻ, khẻo,tinh thần cao.Nhưng nếu chỉ có vậy thì không hết được dụng ý của tác giả.Tố Hữu đã mở bừng ra một bức tranh thiên nhiên Việt Bắc tươi sáng, với bốn mùa xuân, hạ, thu ,đông, đó là một bức tứ bình đạt tới độ hài hào , cân xứng:muà đông rực màu đỏ hoa chuối giữa nền rừng xanh mênh mông; muà xuân tinh khiết bởi màu trắng hoa mơ;muà hè rực lên sắc vàng rừng phách; mùa thu huyền ảo ánh trăng soi.Trình độ miêu tả thiên nhiên của Tố Hữu đã đạt đến trỉnh độ điêu luyện và có thể sánh với vẻ đẹp cổ điển trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.

Ở đây còn có sự sáng tạo ngôn ngữ độc đáo:


Ve kêu rừng phách đổ vàng


Âm thanh đánh vào thính giác vậy mà mắt như thấy được sắc vàng loan cả khu rừng.Tiếng ve, một âm thanh tiêu biểu, vô tình thôi nhưng khi cất lên đã đánh thức, làm bừng tỉnh vạn vật.Nghe mà như thấy, Tố Hữu đã thực sự hoà quyện mình vào từng con suối dòng sông nơi đây.Chỉ có ai có sự gắn bó tha thiết, sâu sắc mới có khả năng này.

Thiên nhiên này càng đẹp bởi có hoa , có người.Thiên nhiên và con người đan cài làm nên sự duy nhất, vĩnh cửu của Việt Bắc nơi đây. Đó chính là dụng ý của tác giả khi cứ một câu thơ tả cảnh lại xen một câu thơ tả người, mang đến cho bài thơ nét trữ tình, ngọt ngào.




Nhớ về Việt Bắc là nhớ cảnh, nhớ người, nhưng quan trọng nhất là nhớ về kháng chiến - một Việt Bắc kháng chiến thật hào hùng. Vẻ độc đáo của một Việt Bắc đứng lên là hình ảnh cả núi rừng đánh giặc:

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng.


Chữ “rừng” rải kín những câu thơ, rải kín đất Việt Bắc, tạo thế hiểm của trường thành lũy thép vây bọc quân thù.

Nhưng ở Việt Bắc, đẹp nhất là hình ảnh toàn dân kháng chiến. Thực tiễn cách mạng lúc này đòi hỏi phải miêu tả khí thế của đám đông trên nền không gian lớn, do vậy cái bút pháp thủ thỉ “mình – ta” kia phải nhanh chóng vươn tới hình thức tráng ca :


Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên


Từ tiết tấu ngân nga dìu dặt như lời ru ở những đoạn thơ trên

Nhớ gì/ như nhớ / người yêu

Trăng lên đầu núi/ nắng chiều lưng nương,

đến đây tác giả phá vỡ tính cân xứng để tạo ra một tiết tấu khác, phi đối xứng

Quân đi / điệp điệp trùng trùng…

Dân công / đỏ đuốc từng đoàn…

Nghìn đêm / thăm thẳm sương dày…

Làm giọng thơ trở nên gắt, mạnh, dồn dập như âm hưởng bước hành quân vũ bão. Hệ thống từ vựng mở căng cường độ diễn tả : nát đá, thăm thẳm, bật sáng…, hình ảnh kì vĩ ( hình ảnh bộ đội, dân công nườm nượp những nẻo đường kháng chiến ), ý thơ mở ra một tương lai tươi sáng:

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên…

Tất cả tạo một bức tranh sử thi hoành tráng để ca ngợi sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, của nhân dân anh hùng.

Ở khổ thơ cuối đoạn trích, hình thức hỏi – đáp đã trở nên hết sức tinh tế và sâu sắc:


Ở đâu u ám quân thù

Nhìn lên Việt Bắc : Cụ Hồ sáng soi

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền


Màu sắc trữ tình đã chuyển sang lí trí trong những câu thơ mang dáng vẻ của chân lí, châm ngôn. Việt Bắc thành đầu mối quy tụ tư tưởng , tình cảm của cả dân tộc, là điểm chốt lại bài thơ. Việt Bắc trở thành biểu tượng chung cho sức mạnh kháng chiến, cho linh hồn cách mạng, cho ý chí toàn dân.Việt Bắc bình dị thành Việt Bắc thiêng liêng.

Thơ ca cách mạng đã tìm được vẻ đẹp của mình trong thành công của bài thơ Việt Bắc. Tiếng thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu với hình thức cấu tứ đậm tính dân tộc, do vậy giọng lục bát điêu luyện, ngọt ngào của thơ Tố Hữu vừa nói được những vấn đề rất lớn của thời đại mới, vừa chạm được vào chỗ thẳm sâu trong truyền thống ân nghĩa thủy chung của tâm hồn con người Việt Nam.
 
L

leejunki18

6.Tiếng hát con tàu-Chế Lan Viên

I. Mở bài


Chế Lan Viên là một trong những nhà thơ kiệt xuất của phong trào thơ hiện đại Việt Nam. Trải qua 50 năm miệt mài lao động nghệ thuật và sáng tác, Chế Lan Viên để lại cho đời một kho tàng thơ đậm chất triết lý và có sự biến đổi qua nhiều giai đoạn. Nếu như trước cách mạng, thơ ông hướng về một thế giới siêu thực, bí ẩn và từ chối cuộc đời thì ánh sáng của cách mạng đã đưa ông trở lại với cuộc sống cùng những sáng tác hướng về cuộc đời, về nhân dân, về cách mạng. Đánh dấu cho sự thay đổi này là tập thơ “Ánh sáng và phù sa ‘’, mà “ Tiếng hát con tàu ‘’ là một trong số những bài tiêu biểu cho tập thơ đó.

Bài thơ là lời kêu gọi mọi người đi đến xây dựng những vùng đất xa xôi của Tổ quốc, cũng như thể hiện sâu đậm tình cảm của tác giả đối với quê hương nói chung, và miền đất Tây Bắc nói riêng.


II. Thân bài


Tác giả:
Chế Lan Viên tên thật là Nguyễn Ngọc Hoan, ông sinh năm 1920 tại Quãng Trị, nhưng ông đã trải qua phần lớn thời ấu thơ và trưởng thành ở miền quê thứ hai, Bình Định. Ông làm thơ từ rất sớm. Tập thơ đầu tay “Điêu tàn ‘’ xuất bản khi ông vừa mười bảy tuổi, đạt thành công vang dội đã đưa ông vào hàng ngũ những nhà thơ tiêu biểu của phong trào mới. Ông từng tham gia kháng chiến, làm báo và đi khắp mọi miền đất nước. Trong suốt cuộc đời mình, ông nhiều năm ở cương vị ban lãnh đạo hội nhà văn Việt Nam, tham gia những diễn đàn quốc tế về văn học. Chế Lan Viên mất vào năm 1989. Sau đó bảy năm, tức năm 1996, ông được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học-nghệ thuật (đợt I ).


Hoàn cảnh sáng tác:
Trong những năm sáu mươi, miền Bắc tưng bừng không khí nhộn nhịp đi dựng xây những miền đất tươi đẹp của tổ quốc, đặc biệt là miền Tây Bắc. Trên tinh thần đó, nhà thơ sáng tác nên “ Tiếng hát con tàu ‘’.


Ý nghĩa tựa đề:
Thực ra, vào thời điểm ấy thì vẫn chưa có con tàu nào để lên Tây Bắc. Do đó, ‘’ con tàu ‘’ ở đây là hình ảnh lãng mạn, tượng trưng cho ý nguyện đi đến dựng xây Tây Bắc cùng mọi miền đất nước. “ Tíếng hát ‘’ ở đây có thể là bài vè, câu hò, bài thơ mang âm điệu tươi vui, giục giã mọi người lên đường về Tây Bắc.


Phân tích:
Khổ đề từ: Lời đề từ cho một tác phẩm , ngoài việc mở đầu cho tác phẩm thì nó còn nêu bật nội dung ẩn chứa bao quát trong bài. Và “ khổ đề từ ‘’ trong “ Tiếng hát con tàu ‘’ cũng không phải là ngoại lệ:
“ Tây Bắc ư, có riêng gì Tây Bắc

Khi lòng ta đã hóa những con tàu

Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát

Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu ‘’

Khổ thơ bắt đầu bằng một câu hỏi tu từ “ Tây Bắc ư, có riêng gì Tây Bắc ‘’, mà nội dung là khẳng định tấm lòng yêu nước của tác giả hướng về khắp mọi miền đất xa xôi, hẻo lánh của tổ quốc, chứ nào có riêng gì Tây Bắc.

Mạch thơ tiếp tục bằng hai sự hóa thân của chủ tể tác giả:

“ Khi lòng ta đã hóa những con tàu ‘’

và “ Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu ‘’

“ Con tàu ‘’, như đã nói ở trên, là hình ảnh lãng mạn, tượng trưng cho ước nguyện đi khắp mọi miền của tổ quốc. Và một khi “ Tâm hồn ta là Tây Bắc ‘’, tức là tác giả đã tự khẳng định mục tiêu đến của mình là những miền đất xa xôi của tổ quốc-Tây Bắc. Cả hai sự hóa thân này đều làm toát lên một điều rằng: tác giả-, đại diện cho cả một thế giới trẻ thanh niên và văn nghệ sĩ đều đang hướng về những miền đất xa xôi diệu vợi của quê nhà.

Tâm trạng này rất khác so với tâm trạng tự cô lập mình trong những tác phẩm trước đây của tác giả Chế Lan Viên, khi mà ông tuyệt vọng thốt lên rằng:

“ Với tôi tất cả đều vô nghĩa

Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau ‘’

Tác giả đã nhìn thấy trong đất nước một tương lai tươi sáng hơn, với tiếng hát vang khắp “ tổ quốc bốn bề ‘’.


Lời kêu gọi lên đường:
Và để biến suy nghĩ thành hành động thực tế, ông đã mời gọi rằng:

“ Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng ‘’

Sau đó ông lại thuyết phục rằng:

“ Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội

Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi

Ở ngoài kia, tàu đối những vành trăng ‘’

Dường như, ông tự hỏi và cũng tự động viên mình, nhân vật “ anh ‘’ lên đường về Tây Bắc. Và lý do lớn nhất để đi là do “tàu đói những vành trăng ‘’, tức là ông muốn ra đi để tìm cảm hứng nghệ thuật.

Mạch thơ lại tíếp tục với:

“Đất nước mênh mông, anh nhỏ hẹp.

Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi ‘’

Một lý lẽ mới được đưa ra, đó là “ảnh ‘’ nên đi để nhìn thấy đất nước, để nhìn thấy những miền đất lạ trước đây chưa biết đến. Ý tưởng này y hệt với ý đưa ra trong:

“ Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp

Giâc mơ con đè nát cuộc đời con ‘’

( Người đi tìm hình đất nước) - của chính tác giả.

Và một lần nữa, nguyện vọng ra đi tìm cái đẹp của nghệ thuật chân chính lại được nhắc đến:

“ Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép

Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia ‘’

Kết hợp với những câu ở khổ trên, hai câu thơ này đã cho ta thấy nhận thức của tác giả về cái đẹp nghệ thuật&vẻ đẹp của sự lao động, hy sinh, cống hiến, giống như Bác đã từng nói: “ Lao động là vinh quang ‘’.




Nỗi nhớ của tác giả:
· Mìền núi Tây Bắc:

Mạch thơ đột nhiên chuyển sang trầm lắng, nhớ nhung, đầy sự hoài cảm:

“ Trên Tây Bắc, ôi mười năm Tây Bắc,

Xứ thiêng liêng, rừng núi đã anh hùng ‘’

Hai câu thơ tồn tại song hành với nhau thành một cặp câu cảm thán, không thể tách rời nhau, hệt như hai chiếc của một đôi đủa vậy. “ Mười năm ‘’ ở đây là chỉ thời gian diễn ra cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trong tâm trí tác giả, Tây Bắc là miền đất linh thiêng, rừng núi Tây Bắc, tượng trưng cho chính con người Tây Bắc cũng thật anh hùng. Tây Bắc tồn tại trong hồn Chế Lan Viên, hệt như là một miền đất với nhiều giá trị thiêng liêng, cao quý. Nếu Chế Lan Viên nhớ Tây Bắc bằng nỗi nhớ da diết, nể trọng thì Quang Dũng lại nhớ rừng với những hồi ức đẹp:

“ Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lái hoa về trong đêm hơi ‘’

( Tây tiến )

Mạch thơ tiếp tục với:

“ Nơi máu rỏ, tâm hồn ta thấm đất

Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân ‘’

Chế Lan Viên nhớ Tây Bắc vì đây là nơi “ máu rỏ ‘’, tức là nơi mà ông và đồng đội đã từng chiến đấu. Và mảnh đất bị tàn phá ngày xưa đã tự hồi phục lại, khi mà nó “ chín trái đầu xuân ‘’.

Nhớ về cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ gian khổ, nhà thơ lại xúc động, bồi hồi thổ lộ:

“(ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa

Nghìn năm sau còn đủ sức soi đường ‘’

Tác giả tự ví cuộc kháng chiến rực rỡ, sục sôi như “ ngọn lửa ‘’- ngọn lửa

niềm tin sắt đá của người chiến sĩ vào chiến thắng ngày mai, ngọn lửa yêu nước bừng cháy trong lòng của mỗi con người Việt Nam. Và sức mạnh của ngọn lửa đó đủ soi đường cho bao thế hệ mai sau, hệt như kim chỉ nam của chân lý lòng yêu nước, hệt như Tố Hữu đã nói “Mặt trời chân lý chói qua tim” ( Từ ấy ).

· Nổi nhớ người dân Tây Bắc:

Hai câu thơ chuyển ý:

“ Con đã đi nhưng con cần vượt nữa,

Cho con về gặp lại mẹ yêu thương ‘’

đã sử dụng cách xưng hô mới, thân mật hơn bằng từ “ con ‘’ và “ mẹ ‘’.

Ở đây, “ con ‘’ và “ mẹ ‘’ đều là nhân vật trữ tình, khi tác giả bày tỏ tình cảm của mình qua đoạn đối thoại. “ Mẹ ‘’, theo cảm nhận của một số người, là đại diện cho cả mìền núi và nhân dân Tây Bắc yêu thương của tác giả.

Nhớ Tây Bắc, trước tiên là nhớ đến người dân nơi đây:

“ Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ,

Cỏ gặp giêng hai, chim én gặp mùa ‘’
 
L

leejunki18

Niềm vui trùng phùng của tác giả được so sánh với những hoàn cảnh vô cùng quen thuộc của núi rừng, nơi thân thương gắn liền với cuộc sống của người Tây Bắc: nai, cỏ, chim én. Tất cả chúng đều đang ở trạng thái phát triển tốt nhất, mạnh mẽ nhất, sung mãn nhất. Bởi vì nơi nào trong rừng có thể làm nai ta thảnh thơi, thoải mái bằng suối cũ. Cỏ trên đồi có bao giờ xanh hơn cỏ “ giêng hai ‘’, và đàn én nào vui vẻ, ríu rít bằng đàn én “ gặp mùa ‘’. Rõ ràng, tâm hồn nhà thơ chỉ thực sự nẩy nở khi ông về với nhân dân. Hơn thế nữa, tác giả tự xem nhân dân như nguồn sống duy nhất của mình:

“ Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa,

Chiếc nôi ngừng bỗng cánh tay đưa ‘’
Nhân dân là nguồn sống chủ yếu của tác giả, giống như một đứa trẻ con thì không thể nào lớn lên mà thiếu sữa mẹ. “ Chiếc nôi ‘’ cuộc đời tác giả chợt như ngừng lại, không vận động nữa thì nay lại gặp một động lực mới: “ cánh tay đưa ‘’ để nó lại tiếp tục lắc lư, vận động, đóng góp cho đời. Tác giả tự nhận ra được sự khác biệt trong hồn mình từ trước và sau khi giác ngộ cách mạng. Nếu như trước đó, ông, đại diện cho cả một thế hệ văn nghệ sĩ đương thời lâm vào tình trạng:

“ Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp,

Giấc mơ con đè nát cuộc đời con ‘’
( Người đi tìm hình đất nước-Chế Lan Viên )

bị tù túng trong một lối sống khuôn khổ, chật hẹp, không tự tìm ra được con đường giải thoát cho mình; thì giờ đây, ánh sáng cách mạng chiếu sáng hồn ông, định hướng cho ông đi. Cái cảm giác nhận thức ra được chân lý cách mạng đó hệt như Tố Hữu đã viết:

“ Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim ‘’
( Từ ấy)
Sau khi nhận thức được tầm quan trọng của nhân dân đối với cuộc đời mình, tác giả dần trở nên yêu mến nhân dân hơn. Đầu tiên, tác giả nhớ đến người anh miền núi làm nhiệm vụ du kích. ‘’ Anh ‘’ của tác giả sáng bừng lên trong chiếc áo nâu sòng của gia đình nghèo khó:

“ Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn,

Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con ‘’

Thông thường chiếc áo nâu này được xem như là vật tùy thân của bác nông dân cực khổ bên con trâu và những luống cày. Nhưng ở đây, áo nâu là của anh du kích miền núi. Nó đã rất cũ, được “ vá rách ‘’ nhiều lần chứ cũng không phải là chiếc áo mới còn thơm mùi thuốc nhuộm. Thậm chí, nó còn là chiếc áo của người anh miền núi nghèo. Nhưng đằng sau cái vẻ nghèo tồi tàn đó là cả một vẻ đẹp ngời sáng của tình người. Chiếc áo là bạn đồng hành của anh khi anh “ công đồn ‘’, bảo vệ buôn làng, hoặc khi anh lên nương cày cấy, làm việc….. Và chiếc áo cũ kỹ ấy rực sáng tình người khi nó được trao cho tác giả vào đêm cuối cùng trước ngày ông lên đường, bởi người anh nghèo, anh dũng của ông đã trao cho ông món tài sản lớn nhất, giá trị nhất của mình.

Nếu anh của tác giả là một người dân quân trung nghĩa, thì “ con ‘’ của ông lại là một đứa trẻ anh dũng, dù còn nhỏ tuổi nhưng “ con ‘’ đã vô cùng gan dạ khi nhận nhiệm vụ giao liên:

“ Con nhớ em con, thằng em du kích ‘’

trong chính hoàn cảnh khó khăn, giặc bắt bớ lung tung, để mỗi bước chân con là mỗi bứoc cân trọng:

“ Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ ‘’

,

ấy thế mà em vẫn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao:

“ Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc,

Mười năm tròn, chưa mất một phong thư ‘’.

Chính tác giả Chế Lan Viên còn cảm thấy thán phục vô cùng khi nói về người em của mình với những đức tính: gan dạ, thông minh trốn tránh kẻ thù, và trên hết là một tinh thần trách nhiệm bền bỉ, khi em đã làm tròn nhiệm vụ suốt mười năm, một khoảng thời gian không ngắn trong quãng đời thơ ấu của em. Nếu phải so sánh thì em còn gan dạ hơn cả chú bé trong bài thơ:

“ Chú bé loắt choắt

Cái xắc xinh xinh…. ‘’

khi vào nhiệm vụ trong hoàn cảnh hiểm nghèo:

“Đường quê vắng vẻ,

Đạn bay vèo vèo,

Ba lô chú bé,

Nhấp nhô trên đồng ‘’.

Tây Bắc cho Chế Lan Viên một người anh trung nghĩa, một người em gan dạ và cả một người mẹ nuôi quân dạt dào tình cảm yêu thương tác giả:

“ Con nhớ mế, lửa hồng soi tóc bạc,

Năm con đau, mế thức một mùa dài “

Người mẹ miền núi này đã đem hơi ấm của tình mẫu tử ruột thịt mà ấp ủ, chở che cho người con không huyết thống Chế Lan Viên một cách tận tình. Chính tình yêu cao cả, bao dung nhu lòng mẹ của “ mế ‘’ đã giúp Chế Lan Viên và bao nhiêu chiến sĩ cách mạng khác vượt qua những khó khăn, những chặng đường gian khổ, những phút giây hoạn nạn, đau đớn. Cảm động trước ân tình đó, nhà thơ đã thốt lên rằng:

“ Con với mế không phải hòn máu cắt,

Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi ‘’

Đó là lời nói đầy tình cảm của người con đối với “ mế ‘’, người mẹ nuôi, người ân nhân của mình. Nhưng đó cũng đồng thời là một lời thề, một lời hứa báo đền ơn đức, công lao của “ mế ‘’.

Xuyên suốt ba khổ thơ trên, tác giả đã dùng giọng văn tự nhiên hệt như lời người con kể chuyện cho mẹ Tây Bắc nghe. Những đại từ nhân xưng được sử dụng một cách thân mật, chứng tỏ người dân Tây Bắc như chính những thành viên trong gia đình mình:

“ Con nhớ anh con, người anh du kích ‘’

“ Con nhớ em con, thằng em liên lạc ‘’;

hay như “ Con nhớ mế, lửa hồng soi tóc bạc…’’

Điệp từ “ con nhớ ‘’ cùng kết hợp với giọng thơ tha thiết cùng cách xưng hô thân mật tạo nên một âm điệu, một tiết tấu ngân nga làm rung động hàng triệu con tim đọc giả của bao thế hệ. Đồng thời, những trạng ngữ chỉ thời gian, chỉ sự bền vững, dài lâu và có ý nghĩa ngày một thăng tiến hơn “ suốt một đời ‘’, “ mười năm tròn ‘’, “ trọn đời ‘’ như tô đậm thêm tình cảm của tác giả. Nhịp thơ cứ thế mà tăng dần lên, đưa cảm xúc của tác giả ngày một thăng hoa đến đỉnh cao của xúc cảm. Ta dễ dàng nhận thấy được một sự tương đồng trong việc xây dựng cảm xúc thăng hoa như trên qua bài “ Giải đi sớm ‘’ thứ II của Hồ Chí Minh.

“ Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng,

Bóng tối đêm tàn, sớm sạch không,

Hơi ấm bao la toàn vũ trụ,

Người đi, thi hứng bỗng thêm nồng ‘’

Trích “ Nhật ký trong tù ‘’


* Nổi nhớ miền núi Tây Bắc:

Dịch học nói rằng: “Theo lẽ tự nhiên của trời đất, cái gì cực thịnh rồi cũng sinh biến”. Do đó, khi tình cảm của tác giả đối với nhân dân đã lên đến đỉnh điểm rồi thì bây giờ, ông bắt đầu nhớ đến cảnh vật miền núi Tây Bắc:

“ Nhớ bản sương giàng, nhớ đèo mây phủ ‘’

Hình ảnh buôn làng mờ ảo, ẩn hiện trong làn sương sớm, hay những ngọn núi thấp thoáng sau bóng mây là những hình ảnh đẹp, nên thơ, hữu tình. Vẻ đẹp của nó thấm vào trong chính tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ.

Thế rồi, giọng thơ trở nên đậm tính triết lý, theo đúng phong cách thơ của Chế Lan Viên:

“ Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương,

Khi ta ở, chỉ là nơi đến ở,

Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn ‘’

Đó là một trong những câu thơ được đánh giá là hay nhất của Chế Lan Viên khi đã làm toát lên được quy luật tất yếu của cuộc sống: những miền đất nơi ta từng đi qua, ở đó, sinh hoạt, làm việc tại đó đều là một phần quan trọng của tâm hồn ta, là một mảng tình yêu thương không bao giờ chia cắt được.

Khi ta đến, đất lạ lẫm, khắc nghiệt. Khi trong quá trình sinh hoạt, làm việc, ta dần gắn bó với đất qua những hoạt động thường ngày, để rồi tất cả những cái bình thường ấy chợt cộng hưởng thành nổi nhớ da diết cào xé tâm hồn khi ta rời xa đất.

Chính Nguyễn Khoa Điềm cũng đã thừa nhận rằng tình yêu đất nước, cái tạo nên đất nước là những thứ bình dị nhất, bình thường nhất của cuộc sống hàng ngày:

“Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể

Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn:

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương, xay, giả, giần sàng ‘’

( Đất nước )


* Nổi nhớ nguời yêu:

Trong tâm trạng xúc động đó, tác giả chợt nhớ người yêu:

“ Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét

Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng

Như xuân đến, chim rừng lông trở biếc

Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương ‘’
Cảm giác nhớ em, người con gái miền Tây Bắc, được tác giả thể hiện như là một điều tất yếu của cuộc sống, hợp quy luật vô cùng. Anh không thể không có em, như mùa đông không thể không rét, như cánh kiến không rời hoa vàng, và như một quy luật tất yếu, chim rừng thay lông ngày đầu xuân.

Tình yêu ấy thiết tha, mặn nồng và bền bỉ. Cô gái là lẽ sống của chàng trai và ngược lại, họ cùng xây một chuyện tình đẹp như chuyện cổ tích. Tình yêu nồng thắm của họ sẽ không bi lụy như bản tình ca buồn “ Romeo và Juliet ‘’ nổi tiếng của Shakespeare, mà tràn đầy nhựa sống, khát vọng xây dựng, cải tạo những miền đất mới, bởi tác giả đã một lần nữa khẳng định triết lý:

“ Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương ‘’

như để định hướng cho cuộc tình mình, khẳng định lòng mình luôn trung thành với cách mạng, với nhân dân, với nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó cho mình cùng đồng đội.

Mạch thơ tiếp tục với những hồi tưởng về cô gái:

“ Anh nắm tay em giữa mùa chiến dịch

Vắt xôi nuôi quân em dấu giữa rừng

Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch

Bữa xôi đầu còn còn tỏa nhớ mùi hương ‘’
Người yêu của tác giả là cô sơn nữ dịu dàng, yêu cách mạng, chịu thương chịu khó băng rừng để tiếp tế lương thực cho bộ đội. Có thể nói đây là hình mẫu lý tưởng về người yêu, người vợ của đại đa số tầng lớp thanh niên thời bấy giờ.


d. Không khí lên đường rộn rã:


Người ta thường nói “ học phải đi đôi với hành ‘’. Ở đây tác giả vừa thể hiện tình cảm thắm thiết của mình đối với Tây Bắc và biến suy nghĩ thành hành động: ông lên đường về Tây Bắc.

Hai khổ thơ kế cho ta về một hình ảnh về một sân ga tấp nập người lên xuống, khi mà tiếng còi tàu trong gió nghe như lời giục giã:

“ Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?

Tình em đang mang tình mẹ mong chờ ‘’

Thế rồi con tàu dần chuyển bánh, để lại bao người vụt qua làn gió rúc mạnh bên tai:

“ Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng ‘’

và những cảnh quen thuộc dần vụt đi:

“ Mùa nhân dân giàng lúa chín rì rào

Kẻ người mà đi, vịn tay mà đến

Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao ‘’
Khổ thơ kế tiếp:

“ Nhựa nóng mười năm nhân dân máu đổ

Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ

Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa

Nay trở về, ta lấy lại vàng ta ‘’

Hai từ “ nhựa nóng ‘’, “ vàng ta ‘’ được lặp lại liền mạch hai lần tạo mọi sự nối tiếp dài trong dòng tư tưởng, gợi cho ta cảm giác sự nối tiếp nhau lên đường của con tàu về Tây Bắc, đi xây tổ quốc.

Khổ thơ cuối là một chuỗi những hình ảnh lãng mạn: cơn mơ, con tàu mộng tưởng, uống trăng…., thể hiện một quan niệm mới về vẻ đẹp nghệ thuật của tác giả. Chính ông đã nhận ra rằng vẻ đẹp thực sự của cuộc sống là vẻ đẹp của lao động, của sự cống hiến cho quê hương, nước nhà. Đó là bước chuyển đổi lớn của hồn thơ Chế Lan Viên nói riêng, và cả giới văn nghệ sĩ đương thời nói chung.


III. Kết bài

“ Tiếng hát con tàu ‘’ trích từ tập “Ánh sáng và phù sa ‘’ của Chế Lan Viên vừa

đóng vai trò như một câu hò giục giã kêu gọi mọi người lên đường xây dựng những miền đất xa xôi của tổ quốc như Tây Bắc, đồng thời cũng là bản tình ca nồng nàn về tình người, tình yêu miền đất Tây Bắc của tác giả. Được viết dựa trên những rung động cảm xúc thật sự của tác giả, bài thơ đã trở thành một hành khúc bất tử trong lòng nhiều thế hệ người Việt Nam chúng ta.
 
L

leejunki18

7.Vợ nhặt-Kim Lân

Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài. Ông sinh ngày 1/8/1920, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng , huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh.Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm. Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn bắt đầu từ năm 1941. Tác phẩm của ông được đăng trên các báo “Tiểu thuyết thứ bảy” và “Trung Bắc chủ nhật”. Một số truyện (“Đứa con người vợ lẽ”, ” Đứa con người cô đầu”, ”Cô Vịa”…) mang tính chất tự truyện, nhưng đã thể hiện được không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông dân. Ông được dư luận chú ý nhiều hơn khi đi về đề tài độc đáo: tái hiện sinh hoạt văn hoá phong phú ở thôn quê (đánh vật,chọi gà,thả chim…). Các truyện: ”Đôi chim thành”, ”Con mã quái”, ”Chó săn”… kể lại một cách sinh động những thú chơi lành mạnh, qua đó thể hiện một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng _những người sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, tài hoa. Sau Cách mạng tháng tám, Kim Lân tiếp tục làm báo, viết văn. Ông vẫn chuyên về truyện ngắn và vẫn viết về làng quê Việt Nam _mảng hiện thực mà từ lâu ông đã hiểu biết sâu sắc. Những tác phẩm chính: ”Nên vợ nên chồng” (tập truyện ngắn 1955), ”Con chó xấu xí” (tập truyện ngắn 1962). Trong cả hai giai đoạn sáng tác, tuy viết không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim Lân cũng có những tác phẩm hay. Là một cây bút vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Nói như Nguyên Hồng, ông là nhà văn một lòng đi về với “đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn (Bước đường viết văn NXB Văn học Hà Nội 1971). (SGK Văn học 12)

Với một tâm hồn luôn hướng về cuộc sống và con người nông thôn, Kim Lân luôn đặt ra những vấn đề xã hội làng quê rất tự nhiên và gần gũi ,dễ đi vào lòng người đọc. Đặc biệt dựa trên bối cảnh nạn đói năm 1945, Kim Lân đã thể hiện tài năng của mình qua tác phẩm “Vợ Nhặt”_một tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân đạo, phản ánh cuộc sống nghèo khổ, cơ cực và khát vọng về hạnh phúc gia đình của người nông dân Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Qua đó bày tỏ tiếng nói chung của những ngừơi nông dân trong thời chiến và những ao ước giản dị của họ , tạo nên sự đồng cảm và suy nghĩ trong lòng người đọc .

Ngay trong tựa đề,Kim Lân đã gợi sự tò mò cho người đọc.Chuyện dựng vợ gả chồng là chuyện hệ trọng trong cả đời người,thế mà Kim lân lại dùng hình ảnh “Vợ Nhặt”,một sự gặp gỡ tình cờ và nhanh chóng tiến đến hôn nhân trong cái bối cảnh hiện thực của truyện ngắn là nạn đói mùa xuân Ất Dậu 1945,một trong những thời kỳ đen tối trong lịch sử.Kim Lân đã thổi vào tác phẩm thứ ánh sáng nhập nhoạng,mù mờ của một buổi tối chiều “chạng vạng”.Và thấp thoáng trong thứ ánh sáng đó là hình ảnh những con người “xanh xám như những bóng ma”,”nằm ngổn ngang khắp lều chợ”,”những cái thây nằm cong queo bên đường”,một cuộc sống đang mấp mé bên bờ vực thẳm giữa sự sống và cái chết,một không khí “vẩn lên cái mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác ngừơi”.Những yếu tố mở đầu cho tác phẩm đã gợi lên một không khí nặng nề,phản ánh được cuộc sống của người nông dân lúc bấy giờ mới khó khăn,cực nhọc đến dường nào,gây xúc động cho mỗi chúng ta khi ông cha ta đã trải wo những thời gian khó khăn, ăn “bo bo” thay gạo,chịu đói rét.

Trong khung cảnh đó,nhân vật Tràng hiện lên như một con người hoang sơ ngật ngưỡng bước đi trong ánh chiều tàn của một cuộc sống không ra cuộc sống.Tràng được Kim Lân miêu tả với diện mạo chung của người dân lúc bây giờ: hai con mắt gà gà,nhỏ tí,hai bên quai hàm bạnh ra,bộ mặt thì thô kệch,thân hình thì “vập vạp”,cùng với cái kiểu “ngửa mặt lên cười hềnh hệch”,”cái đầu trọc nhẵn”,”cái lưng to rộng như lưng gấu”,và cái áo nâu tàng vắt ở một bên tay,một hình ảnh hết sức hoang dã trong xã hội đói nghèo .Ngay cả nơi ở của Tràng cũng không kém phần hoang dã như thế: cành dong rấp cổng,tấm phên rấp che nhà,mảnh vườn lổn nhổn toàn cỏ dại,mà Tràng cũng chỉ là kẻ ngụ cư,loại người lúc bấy giờ bị coi khinh,ruồng bỏ,một thứ cỏ rác hương thôn.Và Kim Luân đã dùng sáng tạo nghệ thuật của mình,gây ra những bất ngờ cho người đọc ở đầu truyện :”Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy,một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa.”Một người đàn bà đã bước vào cuộc sống của Tràng.

Tràng có vợ.Người như Tràng mà có vợ.Cái “kẻ” mang bộ dạng giống như con gấu hoặc gốc cây xù xì,trần trụi ấy,lại trong một cuộc đời đang bị đẩy sát tới cái ranh giới phân chia giữa tồn tại và ko tồn tại thế kia,mà lại nhặt được “thứ” vốn biểu trưng cho hạnh phúc.Tràng có vợ một cách hiển hách,oanh liệt,cứ như một anh chàng tốt số, đào hoa: chỉ buông ra có một lời ỡm ờ tán tỉnh,mà “cô nàng” đã vội vã theo không.Tưởng đâu một truyện truyền kỳ về một thời thảm hại. Nhưng đó không phải là một chuyện cổ tích hay theo một mô tuýp chàng ngốc gặp tiên nữ,nhưng đây lại là một sự thật não lòng.Người vợ mà được Tràng nhặt về được trên đường đời thảm đạm cũng thuộc về một dạng người giống như Tràng.Chân dung của chị ta cũng là một bức ký họa khác với tự nhiên,với những đường nét tai hại cho người phụ nữ:”cái ngực gầy lép,khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”,..gầy xọp,rách mướt,” áo quần tả tơi như tảo đỉa”, đấy là hình ảnh người đàn bà đã làm đảo lộn cuộc đời Tràng.Nhưng khéo nhất là những dòng được viết,Kim Lân cho ta nhận thấy:cái người phụ nữ đói rách kia còn xa mới có thể coi là hiền thục;làm sao mà Kim Lân có thể tả cái đanh đá,cái trơ của người đàn bà lao động nghèo tài thế,sinh động đến là như thế.Kim Lân cũng rất tài tình khi tả vợ của Tràng rất cong cớn nhưng không nanh nọc,trơ trẽn.Và cũng chính cái cong cớn,sưng sỉa, đanh đá,trơ trẽn kia,nó có thể sinh ra từ dốt nát, đói nghèo,tâm tối chứ tuyệt không sinh ra từ cái ác,cái xấu xa.

Vậy là hai thân phận bọt bèo ấy đã dạt đến nhau qua những lời yêu đại loại như:”Rích bố cu,hở”,”Hà,ngon!Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”,”Làm đếch gì có vợ.Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.”. Đó là ngôn ngữ của tình duyên,hay cũng chỉ là bốn bát bánh đúc mà người đàn ông nổi hứng khao và người đàn bà cắm đầu ăn liền một chập,chẳng buông một lời trò chuyện gì.Bốn bát bánh đúc trong những ngày tháng đói kém,chúng đủ phép màu để làm hai con mắt trũng hoáy của người phụ nữ đói rách sáng lên.Có xót xa không,khi cái đói tuy mang lại nhiều đau khổ lại cũng có thể xe duyên cho một mối tình giữa hai tâm hồn cũng nghèo khó. Điều đó,ta nhận thấy dường như không có sự cách biệt giữa Kim Lân và người nông dân,nên ông mới có thể miêu tả người nông dân trong những năm nghèo đói mới chân thật đến như vậy,và những tình tiết có vẻ buồn cười thì bên dưới đó lại là những nỗi buồn và niềm thương cảm.Những trang viết về những con người “dưới đáy” thế này thì không làm ta khinh ghét họ mà xót thương và buồn cho họ vì họ không thể sống trong điều kiện tốt hơn trong cái xã hội mà được mọi người gọi là con người mà chính cái xã hội đó cũng đang từ bỏ họ, để mặc họ trong cái nghèo đói.Ở đây ,tác giả không phải nói về những nét thấp kém của con người bộc lộ qua nhân hình và nhân cách.Ngược lại ,với việc đặt nhân vật vào một khoảng sống mờ tối,lắt lay,nhà văn đã tìm ra một cơ hội song để biểu hiện nỗi bất diệt của niềm khao khát thèm được sống, được thương yêu và hy vọng.Niềm ao ước hạnh phúc đó không thể diệt trừ cái đói hay sự u tối của một tương lai không mấy sáng sủa và nó cũng không bị diệt trừ.Nó cứ âm thầm vươn lên từ đói khát,tối tăm và chính bởi thế mà nó trở nên cảm động và đáng qúy biết chừng nào.

Khi “nhặt” vợ về,Tràng không phải là không biết suy nghĩ:”thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bồng”.Nhưng rồi anh lại tặc lưỡi:”Chậc,kệ!”.Một quyết định có vẻ rất tầm thường với một sự việc hết sức trọng đại trong thời điểm bấy giờ.Nhưng ta có thể hiều rằng,cái tặc lưỡi đó đồng nghĩa với việc là Tràng đã đánh cuộc với đời,với cái nghèo đói, để sống “đầy đủ” cuộc sống bình thường như mọi người. Đó là khát vọng làm người mà một kẻ thô kệch,chất phác như Tràng vẫn có đã khiến Tràng liều lĩnh một phen.Và Tràng cũng đã được đền bù:”Trong một lúc,Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề,tăm tối hàng ngày,quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa từng ngày,và quên cả những tháng ngày trước mặt.Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn và ngừơi đàn bà đi bên.Một cái gì mới mẻ,lạ lắm,chưa từng tấhy ở người đàn ông nghèo khổ ấy,nó ôm ấp,mơn man khắp da thịt Tràng,tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng.”Qua đó,Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc những cảm xúc: Khác với những người có đầu óc bi quan thường nghi,sự đói khát,nghèo khổ không làm giảm đi giá trị của lòng người.Bao giờ cái hạnh phúc được thương yêu cũng qúy hơn tất cả,ngay cả khi người ta tưởng như rằng không còn cần gì hơn là một miếng cơm ăn.
 
L

leejunki18

Con người ai ai cũng mong có được hạnh phúc.Và Kim Lân,hạnh phúc, đến lượt nó,lại có thể làm thay đổi cả một con người như chính Tràng chẳng hạn.Tràng hôm nay đã không còn giống như Tràng của những ngày hôm qua.Anh Tràng hôm nay ngượng nghịu,khổ sở,tay nọ xoa xoa mãi vai kia,chỉ vì đi bên một người đàn bà ở một nơi vắng vẻ,muốn buông một câu tình tứ mà chịu không sao nói nổi.Rồi đến khi vợ hỏi,anh chàng to xác ấy lại trả lời một cách đến là vô cùng ngờ nghệch,ngây thơ:”Có một mình tui mấy u”. Ắt hẳn nhiều người sẽ cười Tràng,cũng đúng thôi,nhưng có ai đã từng sống qua mà không thấy: có những cái ngượng nghịu,cái ngẩn ngơ,những sự “khổ sở êm ái” chỉ đến với con người vào những phút giây thật là hạnh phúc.Cái xúc động mà Tràng đang có vào buổi lần đầu đi bên người vợ nhặt,ngẫm ra cũng không ít điều xót xa,cay đắng,nhưng ít nhất cũng là một thứ xúc động,lâng lâng,bồi hồi,biến người đàn ông thô nhám và chai sạn thành một đứa trẻ lớn tuổi hiền lành.

Cái chi tiết Tràng khoe chai dầu con trong tay cũng thế.Nó không chỉ là một sự việc buồn cười.Có lẽ cũng nên nhận ra dưới cái cười,một tiếng thở dài thương cảm cho những kiếp người mà cuộc đời khốn khổ đến mức việc mua có hai hào dầu là cũng đã là một cái gì hoang phí lắm,một cử chỉ có vẻ lãng mạn,ga-lăng lắm lắm.Nhưng dẫu sao thì Tràng đã có cái hãnh diện mà trước kia anh ta chưa từng có.cái hãnh diện được làm một người chồng, đuợc có một đêm tân hôn, được biết mùi vị tiêu hoang một chút để có lấy một lần sáng sủa trong cái thực tại mù mờ:”Hai hào đấy, đắt quá,có mà thôi chả cần.”,một lời nói nghe sao mà thật tội nghiệp,nhưng trong cái tội nghiệp đó là một niềm vui không tầm thường,bởi trong hoàn cảnh như thế của Tràng lúc ấy, được coi thường đồng tiền vì một đềiu gì đó lớn hơn, trong trẻo,qúy báu hơn đâu có thể cho là một niềm vui hạ cấp?”

Cũng có thể nghĩ như vậy về cái câu Tràng giới thiệu vợ mình với mẹ:”Kìa nhà tôi nó chào u.”.Kim Lân quả thật rất tài trong việc sử dụng những lời thoại ít chữ,văn xuôi hết sức,những câu văn không hề cầu kỳ,gọt giũa,mơ mộng,mà mang đậm phong cách làng quê và lại rất tình cảm chứa đọng trong từng câu nói.Người mà Tràng gọi là “nhà tôi” ấy,cái người con dâu đang thực hiện những nghi lễ đầu tiên ra mắt mẹ chồng tuy là chỉ nhặt được,chưa trải qua cưới hỏi,chưa gặp mặt qua một lần,chưa được mẹ chồng diện kiến “nhan sắc” của mình một lần nhưng những tiếng của Tràng gọi nghe thật nở ruột nở gan như một sự chứng nhận hẳn hoi,rành rọt trước mẹ Tràng,người đàn bà ấy và chính Tràng,một sự thật hiển nhiên:”Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?Hà!…”.Tuy sự xác nhận ấy có chút nặng nề nhưng cũng giúp Tràng có được một cuộc sống của con người bình thường:”Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.Hắn đã có một gia đình.Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy.Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng..Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người.” Đó cũng là những ao ước của những người nông dân luôn mong có được một gia đình hạnh phúc.Giống như nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao,từng có khát vọng cùng Thị Nở xây dựng gia đình,dù rằng đi làm thuê mướn cho người ta,cùng nhau mỗi ngày được thưởng thức “bát cháo hành” của vợ.Chính những cái ước mơ vô cùng giản đị như thế đã tạo nên nét đẹp trong tâm hồn người nông dân Việt,và Kim Lân đã đưa vào tác phẩm những điều tinh túy và tiếng nói đầy tính nhân bản ,tạo nên sự đồng cảm thiết tha cho người đọc.

Nói về người vợ của Tràng,người đã tìm ra một chốn để nương tựa thân phận người phụ nữ của mình trong cảnh đói nghèo,Kim Lân đã bộc lộ vài sự thất vọng thầm kín khi thấy cảnh tù túng nhà chồng chồng: một tiếng thở dài cố nén trong “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên” trước túp nhà rách nát và rúm ró;cách nhếch cười nhạt nhẽo và nét mặt bần thần khi bước vào nơi ở của anh chàng mới lúc ban ngày còn vỗ túi khoe “rích bố cu”;hai con mắt thoáng tối lại khi được bà lão đon đả mời ăn bát cám.và khi trên đường “rước dâu” dài dặc giữa xóm ngụ cư.cái cô nàng cong cớn và trơ trẽn hồi nào bỗng trở nên e dè ngượng ngập;và có khó chịu lắm trước những sự tò mò trêu cợt thì cũng chỉ dám càu nhàu trong miệng,khẽ đến mức ông chồng đi bên cũng không nghe thấy. Đôi mắt tư lự khi đặt bước trên con đường về nhà chồng,cả cái dáng điệu khép nép ngồi mớm ở mép giừơng và tiếng chào u lúng túng..tất cả những cái đó chỉ làm cho người đàn bà gầy nhom,xám xịt và rách rưới c1o được cảm giác m2inh đã là một nàng dâu thực sự,một bông hoa đã có chủ.Và chính Tràng cũng ngạc nhiên trước những thay đổi của nàng ta:”Tràng nom thị hôm nay khác lắm,rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.”Cuộc đời éo le và nhận hậu bao nhiêu dưới ngòi bút của Kim Lân khi chị vợ kia lại chịu đi theo một người đàn ông như Tràng ,xấu xí và xa lạ như để tránh sự cô đơn và nghèo đói.Thế mà khi đến nhà chồng thì nàng ta vẫn chẳng thoát được cái đói của cuộc đời.Nhưng bù cho điều đó nàng lại nhận được một món quà khác đó là tình thân,tình thương,một mái ấm gia đình,một nghĩa vụ phải biết lo lắng cho nửa kia của mình và cũng là điều mà Kim Lân muốn nói:dù đói khổ,khó khăn vất vả nhưng không thể thiếu trong cuộc sống tình thương yêu gia đình, điều đó mới có thể giúp ta cảm thấy được mình vẫn là một con người bình thường như bao người khác.

Kim Lân thật tài trong những câu đối thoại giữa vợ chồng Tràng.Nó lửng lơ,với những câu nói trổng không,dân dã,bình thường,nghe rất lạ lẫm đối với những cặp vợ chồng khác đến hay đối với hai người dân đói khổ bỗng thoáng chốc trở thành vợ chồng,ngay cả khi đi chung với nhau vẫn còn chưa hết ngượng ngùng.Và nó không chỉ thể hiện qua lời nói,mà còn qua cái củng vào trán cùng với một tiếng “dơ”,cái cười hì hì của gã đàn ông,và trước đó là cái lườm của chị vợ..giống như nhân vật Thị Nở của Nam Cao:”Một người đàn bà thật xấu khi yêu cũng lườm.”Nhưng đối với chị vợ của Tràng thì đó còn là một người đàn bà đói rách đang đong đưa con mắt để quên cái xấu,cái nghèo của mình mà nghĩ đến “tình yêu vợ chồng”.Một cái nét đẹp, đáng quý, đáng yêu, đáng buồn cho cái hạnh phúc của đời thường,nạn nhân của xã hội nghèo khổ,nắm bắt ngay những thời cơ để được yêu, để được biết thế nào là hạnh phúc, được hưởng thụ một lần trong đời và để được sống như bao ngừơi khác,và nếm được hương vị của gia đình.

Và một nhân vật được Kim Lân đưa vào ngay giữa truyện đó là bà cụ Tứ,mẹ của Tràng,một nhân vật làm nổi bật cái khát khao của hai chữ “gia đình” lúc bấy giờ.Bà cụ không hài hước như đôi vợ chồng Tràng,mà đó là một con ngừơi đã một kiếp phải sống trong nỗi đau,vất vả,nuôi con khôn lớn.Và cũng chính cái kinh nghiệm từng trải,lòng ám ảnh của một quá khứ nặng nề với nhiều nỗi đắng cay và những băn khoăn của người làm mẹ:”Bà lão nhớ đến ông lão,nghĩ đến đứa con gái út.Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dái dằng dặc của mình.Vợ chồng chúng nó lấy nhau,cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?”. Điều đó cho ta thấy rằng bà cụ Tứ về những nghịch cảnh éo le của việc hôn nhân, đặc biệt là một cuộc hôn nhân “vội vã” và trong cái thời điểm cũng chẳng ư là thích hợp.Và bà cụ cũng tự nghĩ rằng đó là một duyên kiếp không nên có:”Chao ôi,người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi,những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này.Còn mình thì…biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”.Nhưng sự tình đã rồi,trứơc mắt bà là ngừơi con dâu,mặt cúi xuống,”tay vân vê tà áo đã rách bợt”.Và rồi bà cụ Tứ cũng chuyển cách nghĩ về việc có vợ là một cơ may:”Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này,người ta mới lấy đến con mình.Mà con mình mới có vợ được…Thôi thì bổn phận bà là mẹ,bà đã chẳng lo lắng được cho con…”câu văn nghe thật cảm động nhưng có chút gì nhoi nhói,một chút tủi hờn,ai oán số phận,nén cái cảm giác bất đắc dĩ trứơc việc đã bày ra trứơc mắt,hoà với chút rưng rưng,xao xuyến một niềm vui.Qua đó ta càng lại thấy qúy trọng người mẹ chồng này hơn khi bà nói nhẹ nhàng với nàng dâu mới:”Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau,u cũng mừng lòng”,lột tả cái thần thái của tấm lòng vị tha cao cả,giấu đi những giọt nứơc mắt xót thương vì sợ gây cho người mình thương xót nhiều lo lắng:”Có đèn đấy à? Ừ thắp lên một tí cho sáng sủa…Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ.” Đó là thứ ánh sáng mờ trong đêm tối,một ánh sáng cho cái tương lai không ổ định,một thứ không biết lúc nào tắt,nhưng cũng là niềm hy vọng nhỏ nhoi của bà cụ Tứ dành cho vợ chồng Tràng.Có thể nói bà cụ Tứ là người có nhiều hy vọng nhất:từ cái việc đan cái phên ngăn riêng chỗ của vợ chồng đứa con trai cho kín đáo;rồi việc”khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà” và những ước mơ nghe thấy chạnh lòng “rồi may ra ông giời cho khá…Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.”Tuy đã gần đất xa trời nhưng bà không ước ao gì cao xa,bà chỉ ao ước cho con mình,cho gia đình ,cho thế hệ con cháu mai sau,vun vén những gì tốt đẹp nhất cho con cháu..Có ai ngờ rằng một bà cụ đang chờ về thế giới bên kia,lại có niềm hy vọng tràn trề không bị tàn lụi theo năm tháng và tuổi tác.

Tác phẩm luôn đề cập hai vần đề trái ngược nhau, đan xen thành một chỉnh thể nghệ thuật chung.Ta có thể thấy rõ khi nói về việc Tràng đưa vợ về nhà,cái nhìn của người dân xóm chợ khi “nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến”,:”Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên.Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát,tăm tối ấy của họ.”,rồi sau đó là “một người thở dài”,và sau tiếng cười rung rúc bất chợt nổi lên là sự nín lặng_nín lặng của nỗi buồn lo.Rồi lại trong lời bà cụ nói:”Cốt làm sao chúng mày hoà thuận là u mừng rồi.năm nay thì đói to đấy.Chúng mày lấy nhau lúc này,u thương quá…”.Và rõ nhất là những giờ phút hạnh phúc của đôi vợ chồng son trên cái nền âm thanh của tiếng ai hờ khóc người chết đói cứ tỉ tê lúc to lúc nhỏ,dai dẳng tận đêm khuya.Sự đan xen tình huống truyện ngây ngô của những ngừơi nông dân chất phác,bình thường với những ước mơ nhỏ nhoi giữa một thế giới ,một tương lai mở nhạt, một cuộc sống u ám, ranh giới giữa sự sống và cái chết.

Truyện mở ra là buổi chiều chạng vạng mặt người và khép lại trong “ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng loá”.Mở đầu là một anh Tràng cô đơn bước cao bứơc thấp trên con đường khẳng khiu dưới ánh chiều mờ của một gầm trời đầy đói khát,nhưng kết thúc là Tràng đã có một gia đình,mọi ngừơi đang xăm xắn quét tước,thu dọn nhà cửa cho quang qủe và cố làm cho nhau vui trứơc một bữa ăn loãng thếch và đáng chát,và cũng có len lỏi vào đó một nỗi tủi hờn trứơc việc phải ăn món ăn vốn không phải là của con người,rồi lại tiếng trống thúc thuế trên mảnh đất đầy người chết đói,xua đoàn quạ hốt hoảng vù bay,khiến nền trời thành đen vẩn.Song lại có câu chiện về phá kho thóc Nhật và hình ảnh lá cờ đõ phấp phới trong óc Tràng.Anh đã nhận thức được con đường để thoát nghèo đói là đấu tranh,hình ảnh lá cờ soi sáng anh đi đến lý tưởng đúng đắn nói riêng,và tinh thần đấu tranh của người nông dân đang thôi th1uc họ mạnh mẽ tháot khỏi kiếp nghèo và một ngọn lửa hy vọng rực cháy về một tương lai sáng sủa,một khát vọng tình yêu,hơi ấm gia đình,hoà bình và tự do.Qua đó Kim Lân đã gửi gắm tiếng nói chung của những người nông dân rũ bùn đứng dậy sáng loà,chiến đấu vì đất nứơc,vì để thoát khỏi số phận tối tăm trứơc mắt.Hình dáng người nông dân nổi bật trước lá cờ đỏ sao vàng,lá cờ lý tưởng cách mạng,lá cờ của niềm tin chiến thắng.Và qua đó nói lên một niềm tin,một hy vọng tràn trề về một chiến thắng,sự thoát khỏi cuộc sống cơ cực và hai từ “hoà bình” ,”tự do”.
 
L

leejunki18

Với vốn liếng ngôn ngữ giàu có và đặc sắc,mang đậm tính chất nông thôn,cái lối viết văn tưởng như dễ dàng mà không thể phỏng theo ,giản dị vô cùng mà vẫn ánh lên được chất hào hoa Kinh Bắc.những tâm trạng kín đáo nhất cũng phải hiện lên qua những cử chỉ hành động một cách tinh tế :tiếng gắt vô duyên vô cớ,một tiếng khẽ ho bình thừơng,những bứơc chân bứơc vội ra sân,thái độ điềm nhiên và miếng cám vào trong miệng…Nhưng cái đọng lại cúôi cùng là cái nhìn đời,nhìn đời đầy xót xa và thương yêu của nhà văn,là niềm tin mà ông muốn trao gửi đến tất cả chúng ta qua tác phẩm.Dù cuộc sống có bi thảm đến đâu đi chăng nữa thì chính cái cội nguồn nhân bản lưu giữ cho nâhn dân là bất diệt,và con ngừơi không có kháo khát chính đáng nào hơn là khao khát được sống như một con người, được nên ngừơ,có được mái ấm gia đình,một cuộc sống ấm no đầy đủ,tình yêu đôi lứa,niềm hạnh phúc trong cuộc sống và tình thương yêu giữa người với người,và để bảo vệ chính mình, để thoát khỏi sự áp bức, đói khổ,những ngừơi nông dân trở thành lá cờ đầu cho công cuộc bảo vệ đất nứơc.

Có thể nói,tác phẩm truyện ngắn “Vợ Nhặt” của Kim Lân là một sự tiếp nối của những tác phẩm văn chương hiện thực phê phán như của Nam Cao,Tô Hoài,…từ trứơc Cách mạng tháng Tám .Vẫn những mảnh đời éo le,bất hạnh,hay gặp những mảnh đời khó khăn trong những tình huống dở khóc dở cười,hay trong tác phẩm này,chúng ta lại thấy một cuộc sống của những ngừơi nông dân sau Cách mạng trong cái đói nghèo của một xã hội cần được phải cải thiện mới, đó là những người có một tâm hồn trong sáng,tràn đầy lòng yêu thương,luôn luôn ấp ủ trong tâm hồn mình những hy vọng, ước ao nhỏ bé ,hồn hậu.Chính Kim Lân đã đưa người đọc quay về một thời đen tối của nạn đói,qua đó ngừơi đọc đồng cảm ,xúc động cho những số phận, những mảnh đời bất hạnh sống.Người đọc còn nhận ra điều Kim Lân muốn gửi gắm đã nêu ở trên. Nhữnghình ảnh,chi tiết về anh Tràng cùng chị vợ trong cuộc hôn nhân “vội vàng”,e ấp,ngại ngùng trên đường về nhà và hình ảnh bà cụ Tứ trong hình ảnh một ngừơi mẹ,một ngừơi từng trải ,về những băn khoăn cho con cái thật sự làm đau đớn,chạnh lòng khi đọc đến những câu văn tha thiết,súc tích biết dường nàoBản thân tôi, khi đọc những dòng văn mà Kim Lân viết,tôi đã có rất nhiều cảm xúc,những cảm xúc tự hào về cha ông đã không vì nạn đói,nguy nan trứơc mắt mà từ bỏ để rồi xây dựng nên đất nứơc Việt Nam như ngày hôm nay,cảm xúc về những ngừơi nông dân bình dị nhưng lại chất chứa bên trong những niềm hy vọng nhỏ nhoi nhưng đầy nhiệt huyết. Tuy thời gian đã qua ,nhưng những hình ảnh về một thời đ1oi khổ,một thời chiến đấu của nhân dân ta vẫn còn hiện lại trong tôi như mới đây thôi. Điều đó càng làm tôi cảm thấy mình có trách nhiệm trong việc giữ gìn, bảo vệ và xây dựng đất nước mà chính những người nông dân,và ông cha ta đã gầy dựng.
 
L

leejunki18

8.Vợ chồng A Phủ-Tô Hoài

I. GIỚI THIỆU:

1. Tác giả:

a. Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 10-08-1920 ở làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội).

b. Ông nhanh chóng được người đọc chú ý, đặc biệt là truyện Dế mèn phiêu lưu kí.

c. 1960, gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc.

d. 1996, được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I).

e. Tác phẩm tiêu biểu: Dế Mèn phiêu lưu kí (1941), O chuột (1942), Nhà nghèo (1944), Truyện Tây Bắc (1953)…


2. Hoàn cảnh sáng tác:


Trước CM Tháng Tám Tô Hoài nổi tiếng với “Dế mèn ..”. Sau Cách mạng ông tiếp tục khẳng định tên tuổi mình qua tập “Truyện tây bắc”. Vợ chồng A Phủ là truyện thành công nhất trong ba truyện mà Tô Hoài viết về tây bắc. Tác phẩm mang đậm giá trị hiện thực - tố cáo và nhân đạo, dc thể hiên qua chất thơ, chất trữ tình sở trường của tô Hoài.


Tác phẩm được in trong tập “truyện Tây Bắc” xuất bản 1953 (đạt giải Nhất giải thưởng văn nghệ 1954-1955)

Tác phẩm ra đời khi Tô Hoài tham gia giải phóng Tây Bắc 1952. Vốn sống từ 8 tháng đi thực tế cùng tình yêu đất nước và con người Tây Bắc đã truyền cảm hứng cho Tô Hoài.


3. Tóm tắt truyện:

Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi trai gái ngừơi Mèo là Mị và A Phủ. Mị là một cô gái trẻ đẹp ở Hồng Ngài, bị bắt về làm vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra, để trừ món nợ truyền kiếp của gia đình. Lúc đầu suốt mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc. Mị định ăn lá ngón để tự tử nhưng vì thương cha nên không thể chết mà phải đành sống tiếp chuỗi ngày tủi cực trong nhà thống lí. Mị làm việc quần quật khốn khổ hơn trâu ngựa. Mùa xuân đến, nghe tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha, Mị nhớ lại hồi mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng lại bị A Sử bắt gặp và troi đứng trong buồng tối. Còn A Phủ là chàng trai nghèo, mồ côi, khỏe mạnh, lao động giỏi. Vì dám đánh lại A Sử, A Phủ bị bắt, bị đánh đập, bị phạt vạ, rồi trở thành đầy tớ không công cho nhà thống lí. Do có một lần A Phủ đi chăn bò để cọp vồ mất một con bò nên bi thống lí trói đứng ở góc nhà. Lúc đầu nhìn cảnh ấy, Mị thản nhiên nhưng rồi lòng thương người cùng cảnh ngộ trỗi dậy, Mị cắt dây, cởi trói cho A Phủ, rồi bỏ trốn theo A Phủ. Họ cùng nhau trốn lên Phiềng Sa cùng nhau tạo dựng cuộc sống. Ở đây họ bị bọn Tây càn quét, được cán bộ A Châu giác ngộ, A Phủ trở thành đội trưởng du kích. Mị cùng chồng và dân làng chuẩn bị chiến đấu đón bộ đội giải phóng quê hương.

- “Vợ chồng A Phủ “ gồm hai phần. Đoạn trích này thuộc phần một, lấy bối cảnh ở Hồng Ngài.
 
L

leejunki18

II. Phân tích tác phẩm:

- Mị - nhân vật trung tâm của câu chuyện “Vợ chồng A Phủ”. Mị là cô gái trẻ đẹp, con nhà lao động, có tấm lòng nhân hậu. Thế nhưng, số phận run rủi, nàng phải vào nhà Thống li PáTra làm vợ để trả món nợ hôn nhân từ đời cha mẹ nàng. Lẽ ra là cuộc đời sẽ tốt đẹp nhưng số phận không an bài như thế, nơi đây Mị bước sang một trang đời đầy tăm tối, tất cả như xô dạt về hướng lụi tàn, không gì cứu vãn được. . Mị . Mị trở nên câm nín vô hồn , vô cảm. Mị khóa chặt lòng mình: không giao tiếp, không trông chờ, không hy vọng, không phản ứng, Mị “lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Ý nghĩa của cuộc sống chỉ còn lại đơn thuần là những ngày dài lê thê chưa chết. Cứ thế Mị giam cầm mình trong căn buồng tăm tối “kìn mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay ..” và chi tiết ấy lặp lại đến mấy lần trong tác phẩm. Để rồi từ ô cửa ấy, Mị nhìn ra bên ngoài và thấy cái màu trăng trắng không biết là sương hay nắng, Mị mất cả ý niệm về không gian và thời gian, Mị không phân biệt được thời gian sáng và chiều, không biết mùa nào đã về, con chim nào đã bay qua dưới cửa sổ. Mị bị cuốn vào cái vòng xoáy công việc giặt đay, xe đay, bưng ngô và sau tết “lên núi hái thuốc phiện … đến mùa thì lên nương bẻ bắp… Bao giờ cũng thế, suốt năm như thế”. Ý thức làm người của Mị dần dần bị tê liệt. Độc ác hơn, gia cấp phong kiến ấy còn đánh đập, chà đạp lên nhân phẩm của Mị. Chúng dùng bóng ma thần quyền nhằm hù dọa, ức hiếp triệt tiêu cả niềm tin và sự phản kháng của Mị. Phần “Người” trong Mị cứ chết dần mòn theo ngày tháng, nhu cầu giao lưu với bên ngoài dường như bế tắc. Và Mị đã chọn cái chết như một con người còn hơn là sống như trâu ngựa. Nàng định dùng “nắm lá ngón” để kết liễu kiếp đọa đày của mình. Thế nhưng, vì sợ liên lụy đến cha mẹ. nàng “ném nắm lá ngón xuống đất” để tiếp tục sống dù trong đọa đày tủi nhục. Mị giống như Thuý Kiều hai trăm năm trước, lựa chọn của Mị thực chất là bán mình cứu cha. Đó là sự phản kháng dù tiêu cực nhưng hết sức quyết liệt: lấy cái chết để phủ nhận cuộc sống làm dâu gạt nợ.Và rồi cơn gío lành đã đến và ngọn lửa ngọn lửa ham sống đã bùng lên lần thứ nhất trong câu chuyện này từ một “đêm tình mùa xuân”. Đêm tình mùa xuân ngân lên như một niềm thơ từ tiếng sáo dìu dặt gọi bạn tình nghe “thiết tha bồi hồi”, làm xao động trái tim và cõi lòng Mị. Vâng ! Mùa xuân tình yêu đã đến. Tác động của nắng xuân, màu sắc biến ảo của hoa anh túc trên nương, của ánh trăng đêm hò hẹn, của tiếng khèn, tiếng sáo miên man gọi bạn tình, như nguồn nhiệt lượng thiêng liêng dội vào khoảng sâu thẳm tâm hồn Mị, sưởi ấm và làm tan chảy tảng băng lạnh lẽo trong lòng Mị. Cõi lòng Mị ấm dần lên, băng giá tan chảy và Mị hồi sinh. Những hạt mầm đầu tiên của cảm xúc bắt đầu nảy nở: “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi”. Nhận thức và nhu cầu được sống chảy lai láng trong tâm hồn Mị và rồi vẻ đẹp sặc sỡ của “những chiếc váy hoa phơi trên mõm đá xoè ra như cánh bướm” trong các làng Mèo đỏ lọt vào mắt nàng. Ấn tượng về chiếc váy hoa đã đánh thức như cầu làm đẹp của người thiếu phụ có gương mặt buồn này. “Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”. Đó là tiếng hát vang lên từ trong đáy sâu tâm hồn Mị - tiếng hát của thanh xuân mà không có một thế lực cường quyền, thần quyền nào có thể dập tắt được. Tiếng hát là sự kết tinh của nhhững khát vọng cao đẹp nhất, có lẽ nhiều khi nó còn đẹp hơn chính cả con người? Nhu cầu giao tiếp, giao cảm và nhu cầu sống trở về với Mị. Thực tại đắng cay như địa ngục trần gian nơi ô cửa sổ nhỏ trong nhà Thống lý Pá Tra với người chồng tồi tệ là A Sử; còn một thực tại khác êm ả như thiên đường tuổi trẻ dưới nắng xuân ngoài nương, dưới đêm trăng hò hẹn, dìu dặt, miên man trong tiếng sáo gọi bạn tình làm náo nức trái tim Mị. Quá khứ và thực tại đan chéo trong lòng, khiến nàng xúc động mạnh khiến nàng có ý tưởng kỳ lạ “Mị lén lấy hũ rượu, uống ừng ực từng bát”. thế nhưng có lẽ không phải Mị đang uống rượu, mà đang uống những đắng cay của đời mình. Quá khứ êm đềm trỗi dậy như dòng suối miên man chảy vào miền ký ức ngọt ngào của thời thanh xuân” Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Tín hiệu cuộc sống, niềm yêu đời, say đời trở lại đã đưa Mị tìm lại được ý niệm về thời gian, Mị sống với thời gian quá khứ và từ đó nàng nhận ra thới gian, không gian thực tại. “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Thế đấy, ngay lúc thèm sống nhất, Mị lại muốn chết ngay. Mị chọn khoảnh khắc hạnh phúc nhất để chết, vì chết lúc ấy người ta dễ mang theo hạnh phúc và dễ bỏ khổ đau lại phía sau. Nhưng “tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ ngoài đường” đã thôi thúc Mị “đến góc nhà, xắn một miếng mỡ. bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Người đọc đến chi tiết này đều xúc động vì căn buồng âm u, tăm tối lạnh lẽo bao nhiêu năm tháng giam hãm đời Mị bỗng chốc bừng sáng ánh đèn. Đóm sáng ấy thật ra là ánh lửa ấm áp được thắp lên từ “đêm tình mùa xuân”, được thắp lên từ cõi lòng tiềm tàng sức sống mãnh liệt của Mị. Hành động này thôi thúc hành động khác và Mị quyết định đi theo tiếng gọi của lòng mình: “Mị quấn lại tóc, với lấy cái váy hoa sửa soạn đi chơi tết”. Có thể nói hành động “sửa soạn” này như là một cuộc sửa soạn vượt ngục của một tù nhân không cam số kiếp tù đày. Thế nhưng ngọn lửa ham sống của Mị đã bị A Sử dập tắt một cách tàn bạo, Hắn thản nhiên lầm lì lấy dây, lấy thắt lưng của hắn và cả tóc Mị để trói Mị lại. Có lẽ A Sử đã hình dung được trong cái hành động muốn đi du xuân của Mị là cả một sự thách thức ghê gớm, môt sự bùng lên, một sự nổi loạn chống lại cái luật lệ hà khắc của gia đình hắn nói riêng và cả cái xã hội phong kiến miền cao nói chung. Mị đang bị trói và không hề phản ứng. Tô Hoài thật tinh tế và sâu sắc trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Vì lúc này, nhân vật Mị đang ngây ngất trong thiện đường tuổi trẻ của dư âm đêm tình xuân. Bởi thế sợi dây trói tàn khốc của cuộc đời thực, chưa thể làm kinh động giấc mơ êm đềm của kẻ mộng du tội nghiệp. Đến khi vùng bước đi, Mị mới cảm nhận sự đau nhức và Mị mới bị ném trả lại với sự thực đắng cay, để rồi sáng mai Mị lại trở về với kiếp con rùa lầm lũi trong xó cửa nhà Thống lí. Đó là sự tàn bạo của xã hội phong kiến vùng cao trước Cách mạng. Cho đến một ngày A Phủ xuất hiện trước mặt cũng với thân phận tôi mọi, A Phủ vì đánh lại con quan nên làng phạt vạ, số phận lại vào nhà Thống lí Pá Tra và thân phận không hơn gì Mị. A Phủ để hổ vồ mất con bò và hậu quả hình phạt là bị trói đứng vào cây cột suốt mấy đêm liền, A Phủ xuất hiện trước mặt Mị với hình ảnh như thế. Đồng cảnh ngộ, cũng là người đi ở gạt nợ cho nhà Thống lí Pá Tra, A Phủ bị trói mấy đêm rồi, nhưng đêm nào cũng vậy, Mị đốt lửa sưởi, nhìn thấy A Phủ mà vẫn thản nhiên vô cảm: “nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi, Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, Mị chỉ biết còn ở với ngọn lửa”. Tâm hồn cô khép kín, dường như sức sống cứ mòn dần, cạn dần, nén lại và khô kiệt mất. Mị nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ: “1 dòng nước mắt lấp lánh bò xuống 2 hõm má đã xám đen lại”. Chính dòng nước mắt ấy đã làm rung chuyển cõi lòng tưởng như đã đóng băng từ lâu của Mị chợt bùng lên, vỡ ra. Mị nhớ lại và thương cho mình “ Mị cũng phải đứng thế kia, nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi đc”. Và ý thức phản kháng trong Mị trỗi dậy, vượt qua nỗi sợ hãi. Nàng muốn A Phủ phải được sống. Còn Mị nàng chấp nhận ở lại mà chết. Nỗi thương người dường như lớn hơn nỗi thương thân: “ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn bíêt đợi ngày mà rũ sương ở đây thôi … Người kia việc gì phải chết thế”. Thế rồi, Mị rón rén bước lại cắt dây trói cho A Phủ, hàng động ấy đã trở nên cái mốc quan trọng trong cuộc đời A Phủ và cũng chính cho Mị, “đi ngay ..” Chỉ hai tiếng khô khốc lạnh lùng ấy đã mở ra một chân trời rộng lớn cho hai người. :A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy”. Lúc này, giữa ranh giới cái chết và sự sống, tự do và nô lệ, Mị cũng vụt chạy hổn hển gọi: “A Phủ cho tôi đi ..” Một tình yêu nảy nở từ sự hy sinh và một tình yêu đáp lại từ sự đồng điệu của tâm hồn, của khát vọng sống. Một cuộc giải phóng đời mình tuy là tự phát nhưng thật sự đã diễn ra. A Phủ chợt hiểu: “Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình”. Và khúc hồi thanh của tình yêu vang lên: “Đi với tôi”, có thể nói Mị đã giải thoát cho A Phủ và tự giải phóng chính mình. Đó là sự vượt ngục tất yếu để tìm đến tự do, cũng chính là nét độc đáo của ngòi bút Tô Hoài: ngòi bút của chủ nghĩa nhân đạo, từ Mị ta đồng cảm, xót thương cho thân phận đau khổ của người phụ nữ nghèo miền núi, ta tin vào sức phản kháng, vào khả năng tự giải phóng để được tự do và hạnh phúc của họ. Mị có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sức sống đó được bộc lộ ngày một mãnh mẽ và có ý nghĩa tích cực hơn. Ban đầu Mị định dùng lá ngón tự tử- sức phản kháng dù tiêu cực nhưng mạnh mẽ, lần thứ hai khi xuân về, nghe tiếng sáo vọng, Mị muốn đi chơi xuân- hành động phản kháng theo tiếng gọi của hạnh phúc. Và lần cắt dây trói, đi theo A Phủ là đỉnh điểm của sức phản kháng trong Mị, cô vượt qua cả nỗi sợ hãi vốn tồn tại trong mình từ rất lâu để tìm đến tự do.
 
L

leejunki18

III. Tống kết:

1.. Giá trị hiện thực:

- Miêu tả chân thực số phận nô lệ của đồng bào Tây Bắc duới ách thống trị của bọn phong kiến và phơi bày cản chất tàn bạo của bọn chúng.

- Diễn tả sinh động quá trình thức tỉnh, giác ngộ Cách mạng của thế hệ thanh niên dân tộc Mèo.

2. Giá trị nhân đạo:

Từ các nội dung hiện thực trên , truyện ngắn Vợ Chồng A Phủ mang giá trị nhân đạo lớn lao :

- Lòng yêu thương , niềm đồng cảm sâu sắc đối với thân phận đau khổ của người lao độngt nghèo miền núi .

- Thái độ căm thù mãng liệt các thế lực tàn bạo , chà đạp lên quyền sống con người .

- Niềm tin vào sức sống mãng liệt và khả năng Cách mạng của nhân dân Tây Bắc .

3.Giá trị nghệ thuật :


a. Nghệ thuật kể chuyện , dựng cảnh tạo không khí , các chi tiết được chọn công phu đan cài nhau một cách tự nhiên .


b. Nghệ thuật tả cảnh đặc sắc :

- Cảnh thiên nhiên thơ mộng đưộc miêu tả bằng ngôn ngữ giàu chất thơ và chất tạo hình ( cảnh mùa xuân về trên miền núi Hồng Ngài )

- Cảnh miền núi với những nét sinh hoạt phong tục riêng rất chân thật , sinh động , vận dụng sáng tạo lối nói miền núi để miêu tả rất hồn nhiên , giàu hình ảnh ( Cảnh đêm tình mùa xuân , cảnh xử kiện , cảnh cướp vợ cúng trình ma )


c. Nghệ thuật miêu tả tâm lý và phát triển tính cách nhân vật sinh động .


- Mị : Tính cách tuy phát triển theo qui luật nhưng vẫn đầy bất ngờ .

+ Nhà văn ít tả hành động mà chủ yếu khắc họa tâm tư , nhiều khi mới là nhiều ý nghĩ chập chờn trong tiềm thức nhân vật hiện lên chân thật .

+ Giọng kể nhà văn có lúc hòa vào dòng tâm tư nhân vật đã vẽ nên đủ lọai cung bậc tình cảm của Mị : lúc tự tin , lúc ai oán , lúc giận dỗi , lúc uất ức . lúc quả quyết .


- A Phủ : gan góc , bộc trực táo bạo được nhà văn thể hiện bằng hành động , công việc và những lời thoại giản đơn .


4. Chủ đề:

- phản ánh số phận nô lệ của người dân miền núi Tây Bắc dưới chế độ thực dân phong kiến và ý thức đòi quyền sống, khát vọng hạnh phúc của những người nông dân nghèo vùng cao trước CMTT.
 
L

leejunki18

9.Những đứa con trong gia đình-Nguyễn Thi

Nhà văn Nguyễn Thi tên thật là Nguyễn Ca , người Nam Hà . Ông vào Nam từ năm 1945 , gia nhập quân đội và viết văn dưới bút danh Nguyễn Ngọc Tấn . Tập kết ra Bắc năm 1954 , năm 1962 ông trở lại miền Nam lần thứ hai , viết văn dưới bút danh Nguyễn Thi . Ông thuộc lớp nhà văn cầm súng , ông hi sinh trong vị trí , tư thế chiến đấu giữa mùa xuân tiến công và nổi dậy năm 1968 trong trận đánh vào Sài Gòn . Là nhà văn chiến sĩ , Nguyễn Thi có nhiều đóng góp cho nền văn học cách mạng . Một trong những đóng góp đáng kể của ông về nghệ thuật là sự thể hiện thành công ở truyện “Những đứa con trong gia đình” . Truyện viết năm 1966 , lúc Bến Tre đã đồng khởi , nhân dân miền Nam đã cầm vũ khí đánh lại Mỹ-Nhật giải phóng quê hương . Trong tác phẩm , Chiến và Việt lớn lên trong cảnh tan tóc của gia đình và trong cuộc đồng khởi vĩ đại của quê nhà .

Tác giả Nguyễn Thi đã sử dụng nghệ thuật đồng hiện trong tác phẩm này , đây là một thủ pháp khá quen thuộc về kết cấu tác phẩm , một yếu tố thuộc về hình thức . Như ta đã biết , kết cấu là việc tổ chức , sắp xếp các yếu tố nội dung trong văn bản tác phẩm để nó đạt hiệu quả nghệ thuật cao nhất . Thủ pháp đồng hiện góp vai trò quan trọng trong công việc này . Nó là một trong những thủ pháp tạo ra được lối kết cấu độc đáo . Từ đó , cốt truyện nhân vật , chủ đề được thể hiện , gây hiệu quả nghệ thuật sâu sắc . Dựa vào suy nghĩ của mình , tác giả thể hiện các sự kiện trong một thời điểm , các nhân vật trong cả hai mảng thời gian hiện tại và quá khứ đan xen nhau rất có hiệu quả .

Sau một cuộc giao tranh quyết liệt giũa đơn vị của Việt và một chiến đoàn Mĩ , Việt lạc đơn vị giữa rừng đầy xác giặc , chân tay tê dại nhức nhối , khắp người rỉ máu , miệng tê cứng không la lên được , sau đó ngất đi . Nhưng Việt vẫn cố bò đi và sẵn sàng chiến đấu bằng khẩu súng của mình.Mười ngón tay không lên đạn được.Việt dùng răng giật cơ bẩm, đưa một viên đạn lên nòng .Chi tiết này nói lên ý chí diệt giặc của Việt rất mạnh mẽ.Trong tâm trạng thì luôn nhớ tới chị (cùng di bắt ếch và giành phần nhiều),tới chú Năm ( thường bênh mình và ghi sổ gia đình –đó là cuốn nhật kí,một cuốn sử nhà đặc biệt,ghi chép những tội ác của kẻ thù,nỗi đau và thành tích của từng người trong gia đình). Sang tới ngày thứ hai,Việt bắt đầu cảm thấy nóng và đói ,mắt bị thương nặng, đau khắp người . Đến đây hoàn cảnh của Việt càng gay go.Người chiến sĩ trẻ,người thương binh đang lạc đồng đội này phát hiện mình không thấy gì . Đường tìm về với đồng đội càng khó khăn gấp bội . Dù vậy ,anh vẫn sẵn sàng nổ súng với một ngón cái hơi nhúc nhích do chín ngón còn lại đã bị thương .Tâm trí thì nhớ về ngày tòng quân ,nhớ ngày theo má đi đòi đầu ba,nhớ má tần tảo lo nuôi các con và dò bọn lính ,nhớ tới cái chết tức tưởi của má .Trong hoàn cảnh hiểm nghèo , Việt không sợ chết mà (chỉ sợ không còn gặp được đồng đội,không còn được cầm súng)mà hướng về ba má,nhớ đến cái chết đau thương của ba má .Khi về đêm thì Việt cảm thấy kiệt sức hoàn toàn,cảm thấy không còn bò được nữa,cảm giác sờ sợ cái vắng lặng ,lạnh lẽo của đêm tối.Lúc này tâm trạng Việt luôn hướng về đồng đội , điều đó rất hợp lí vì Việt đã nghe thấy tiếng súng,tiếng kèn xung phong của ta và đang cảm thấy cuộc chiến đấu bùng ra .Do đó,Việt lại bò được một đoạn ,bò về phía trận đánh,phía đồng đội,phía sự sống .

Nhưng trận đánh ở xa Việt ,cho nên tâm trí Việt lắng lại ,hồi tưởng ngày giành đi bộ đội với chị Chiến và cảnh hai chị em bàn định việc nhà trước khi lên đường gia nhập ngũ.Cảm động nhất là khi hai chị em bàn và gửi bàn thờ má: đối với hai chị em dường đó là việc hệ trọng nhất .Nghĩ gì thì cuối cùng cũng vẫn đọng lại suy nghĩ về má.Hai chị em lo cúng má trước khi dời bàn thờ (càng cảm động hôn khi hai người lo làm cơm cúng má trong tiếng hò như vỡ ra ,nhắn nhủ,tha thiết rồi ngắt lại như một lời thề dữ dội của chú Năm).Và đối với hai chị em,dường như má vẫn còn sống(thoạt đầu Việt tin má đã về ngồi đâu đó thật,cuối cùng lúc khiêng bàn thờ,tác giả đã nương theo ý nghĩ của nhân vật, để hai chị em đóng vai trò kể chuyện -trước đó trác giả đứng ra kể chuyện-mà dùng các từ ngữ “đưa má sang ở tạm nhà chú”,”khiêng má”- chứ không phải khiêng bàn thờ-rồi đến cái ngày độc lập lại “đưa má về”.Cũng qua cảm nghĩ của hai chị em và của riêng Việt ở đoạn này (chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má …Việt thấy thương cho chị.Còn mối thù thằng Mỹ nó đang đè nặng trên vai…)ta thấy hai nhân vật trẻ này nhập ngũ không phải vì ý thích nông nổi mà do chiều sâu nhận thức:di đánh giặc vì căm thù và yêu thương sâu nặng .Việt đã nhìn lại quá khứ bằng con mắt của ý chí ,của tâm tưởng.Qua đó nhân vật bộc lộ nghị lực, ý chí,tinh thần chiến đấu cao và tình yêu thương đậm đà,hồn nhiên.Tuy Việt hay tranh giành với chị nhưng biết nghe lời chị(lúc hai chị em bàn việc nhà),thương chị.Nhân vật này cũng thể hiện nét hồn nhiên trẻ trung,thậm chí còn tính trẻ con (chi tiết cái ná thun theo Việt đi chiến đấu,không muốn mất chị…).Chính tình chị em,chú cháu,má con, đồng đội đã tiếp sức cho Việt vượt qua thử thách khắc nghiệt .

Sang tới ngày thứ ba ,Việt được tìm thấy và đưa về quân viện.Anh có thời gian trị vết thương, đồng thời cũng có cả thời gian để mà ôn lại,nhớ lại. Ở quân y viện “hai con mắt băng kín mít” dấu tích của người lính dũng cảm.Việt “với cây bút chì…mò mò viết thư”.Anh không dám nhờ người khác viết thư cho chị.Anh sợ cái tiếng “cậu Tư”.Sợ mất chị Ba quyết chiến.Anh “giấu chị như giấu của riêng vậy”.Thật là ngây thơ.Cái ngây thơ đáng yêu của một người lính trẻ ,dũng cảm thật đấy,mà cũng khờ khạo trước cuộc đời.Ngay cả chuyện đùa vui của anh em theo tếu táo của lính anh cũng tưởng là chuyện thật.
 
Top Bottom