hjc.....vô đây gjải dúp mình với

H

hoanhaimau121997

de 2 o nhung lop duoi da lam roi ma. VD: dua cu gia, tre em qua dg; nhat dc cua roi dem tra lai nguoi mat; tang vo cho cac ban hoc sinh ngheo


Chú ý viết bằng Tiếng việt có dấu nhé bạn!
 
Last edited by a moderator:
C

chip_coi244

Trong nền văn học trung đại,đặc biệt dưới thời vua Lý,Trần,Lê đã xuất hiện không ít các tác giả nổi tiếng,và gắn liền với tên tuổi của họ là những tác phẩm văn học bất hủ như:Lý Thường Kiệt với"nam quốc sơn hà",Trần Quang Khải với"tụng giá hoànn kinh sư".Và,có lẽ,trong số các tác giả đó tác giả mà e ấn tượng nhất đó là Nguyễn Trãi, chưa có ai phải chịu 1 cái chết oan uổng như Nguyễn Trãi.NgT ko chỉ đc mọi người biết đén với tài năng cùng nhiều tác phẩm thuộc nhiều thể loại,lĩnh vực mà còn đc mọi người tìm hiểu về 1 cuộc đời sóng gió,đầy trắc trở.
NgT(1380-1442),hiệu là Ức Trai,quê gốc ở làng Chi Ngại,sau dời về Nhị Khê.Thân sinh là NgỨng Long,1nho sinh nhà nghèo,học giỏi,đỗ Thái học sinh thời Trần.Mẹ là Trần Thị Thái,con quan Tư đồ Tr Nguyên Đán.NgT sinh ra trong 1 gia đình mà cả bên nội cũng như bên ngoại,đều có 2 truyền thống lớn là yêu nước và văn hoá,văn học.Từ nhỏ,NgT thông minh,hiếu học,hiểu rõ đạo lý làm người...Nhưng,ông cũng phải chịu những mất mát đau thương:tang mẹ lúc 5t,sau đó,ông ngoại qua đời khi NgT lên 10t.Năm 1440,NgT đỗ Thái học sinh và cả 2 cha con cùng làm quan dưới triều nhà Hồ.Về sau,khi nhà Hồ sụp đổ,cha ông bị bắt sang Trung Quốc,ông xin đi theo cùng nhưng đến cửa ải,NgPhi Khanh lại khuyên ông nên quay trở về trả nợ nước,báo thù nhà,và trong cảnh biệt li đó,cha ông đã làm nên bài thơ"2 chữ nước nhà"đầy cảm động.Về phần ông,vâng lời cha,ông quay trở về đầu quân cho nghĩa quân Lam Sơn,giúp Lê Lợi đánh đuổi giăc Minh,thống nhất đất nước.Ông trao cho LLợi bản chiến lược đánh đuổi quân Minh mà sử sáh VN gọi là Bình ngô sách:"hiến mưu trước lớn,không nói đến việc đánh thành mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người",ông thuyết phục LLợi dùng nhân nghĩa đối với tướng sĩ,dùng công tâm để lấy thành".Ông đề ra 3 phương sách:công tâm là thượng sách,vưa công thành vừa công tâm là trung sách,công thành là hạ sách(3phương sách này phù hợp với 3 đường lối trị nước là đế đạo,vuơng đạo và bá đạo).
Bình Định Vương LLợi phong cho NgT chưc Tuyên phụng Đại Phu Thừa chỉ học sĩ hàn Lâm Viện.NgT đưa ra nhiều chiến lược,sách lược cho LLợi.Nhờ có sự đóng góp to lớn của Nguyễn Trãi mà lập nên đc nhiều chiến thắng vẻ vang cho dân tộc.
NgT ko chỉ là 1 nhà quân sự đại tài như chúng ta biết mà ông còn là nhà văn chính luận kiệt xuất với tác phẩm"bình ngô đại cáo" bất hủ.Tiếc thay,với những tài năng như vậy,đáng lẽ,NgT đc vua Lê trọng dụng và hoàn thành những hoài bão của mình,nhưng càng về sau,ông ko đc vua Lê trọng dụng nữa.Đau buồn trước cảnh ấy,NgT đã cáo quan về ở ẩn tại Côn Sơn & dường như số phận trớ trêu khéo dùa cợt ông lần nữa,gia đình ông bị tru di tam tộc vì tội hại vua_1 nỗi oan lớn của cả thời đại lúc bấy giờ.Thế nhưng,có lẽ trời đất ko muốn 1 người tài đức như ông phải chịu 1 cái chết oan uổng đén vậy,nên đến thời vua Lê Thánh Tông,nỗi oan của ông đc rửa sạch và đc vua tặng câu"Úc Trai lòng sáng tựa sao khuê"
NgT ko chỉ là nhà quân sự,nhà văn chính luận mà ông còn nổi tiếng ở nhiều lĩnh vực khác nhau,để lại nhiều tác phẩm như:dư địa chí,Lam Sơn thực lục & ông cũng là người đầu tiên đặt nền móng cho nền văn học chữ Nôm nước nhà qua tác phẩm "quân trung từ mệnh tập",ngoài ra còn có tác phẩm"Côn Sơn ca"in trong tập "Ức Trai thi tập"
Qua những tác phẩm còn sót lại đến nay của NgT,ta thấy thơ văn ông thấm đậm tư tưởng nhân nghĩa,yêu nước,thương dân.Tiêu biểu như"quân trung từ mệnh tập" ,là tập văn chiến có sức mạnh của 10 vạn quân.Sức mạnh ấy có đc tùe sự kết hợp tuyệt diệu giữa tue tưởng nhân nghĩa,tư tưởng yêu nước và nghệ thuật viết văn luận chiến bậc thầy."Bình ngô đại cáo" là áng văn yêu nước lớn của thời đại,là bản tuyên ngôn về độc lập chủ quyền của dân tộc,bản cáo trạng tội ác kẻ thù,bản hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn & còn là sự hoà quyện giữa sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa với tư tưởng yêu nước.Nội dung thơ văn NgT rất phong phú,đặc biệt đối với tình yêu quê hương gia đình.Nét đầu tiên là niềm tha thiết với thiên nhiên quê hương.Bắt đầu từ những cái nhỏ nhặt,tưởng như ko đâu nhưng lại chan chứa tình yêu thương:bè rau muống,lảnh mùng tơi,cây chuối,cây đa...đều trở thành vần điệu trong thơ NgT,tạo nên những rung động tinh tế trong lòng người.Ông nói 1 cách trang trọng mà thật vui tươi,chân chất:"ao cạn vớt bèo cấy muống;trì thanh phát cỏ ương sen",ông phát hiện ra 1 vẻ đẹp rất bất ngờ:đêm trăng gánh nứoc thì gánh luôn cả trăng đem về;bầu trời ko mây,trong suốt 1 màu xanh,ông thấy đó là 1 bầu ngọc đông lại;thuyền bè chen nhau gối đầu lên bãi,ông nhìnthành 1 đám tằm lúc nhúc:"tằm ươm lúc nhúc thuyền đầu bãi".Ông coi thiên nhiên như 1 người ban thân của mình,có lúc,ông như hoà mình vào thiên nhiên đến mức tưởng như dòng suối,tảng đá phủ rêu,tán trúc như hoà nhập với ông làm 1.
Tiếp theo là niềm gắn bó tha thiết với bà con thân thuộc ở quê nhà.Thời còn giặc Minh,nhiều năm,ông phải lẩn tránh khắp nơi,xa nhà ,xa quê ,xa bà con thân thuộc với bao nỗi buồn rầu đêm thu,xa nhà bên ngọn đèn đêm khuya,ông day dứt như trong bài "đêm thu đất khách" ông tâm sự:Đêm khuya,bên ngon đèn leo lét,hồn mộng cứ vẩn vơ mãi nơi đất khách.Thanh minh đến theo tục,con cháu phải về thăm mồ mả ông bà,sửa sang bồi đắp,thắp nén hương tưởng nhớ cho đúng đạo làm con cháu,thế mà đã bao năm nay,ông ko về đc,ông chỉ não lòng:"thân mình xa ngàn dặm,mồ mả ông bà ở quê sao ko giẫy cỏ thắp hương;10 năm đã qua,những người ruột thịt, quen thân cũ đã chẳng còn ai;đành mượn tạm chén rượu ép mình uống,ko cho lòng cứ ngày ngày xót xa nỗi nhớ quê"(thanh minh_dịch nghĩa)
Chính vì có tâm hồn yêu thiên nhiên,cuộc sống,con người nên NgT sống 1 đời trong sạch,1 lòng vì dân,vì nước.Khi trở về nông thôn,ông yên lòng & tự hào,ông coi cày cấy là 1 niềm vui:"1 cày 1 cuốc thú nhà quê".Những người dân lao động chân lấm tay bùn đáng đc biết ơn:"ăn lộc,đền ơn kẻ cấy cày".Cuộc sống NgT giản dị,nghèo mà thanh,ông ca ngợi hình dáng,tính chất của tùng,chúc ,mai,3 cây ko chịu khuất phục trước gía lạnh của mùa đông,giống như ông,1 người luôn giữ tấm lòng trong sạch,1 tấm "lòng thơm".Lòng thơm ấylà lòng yêu nước thương dân,nó suốt đời sôi nổi,nó dự trên chân lí của tư tưỏng nhân nghĩa_1 tư tưỏng cao đẹp xuyên thấm cuộc đời & thơ văn ông.Đối với NgT,nhân nghĩa chính là trừ bạo,yên dân.
NgT quả là 1 nhân vật vĩ đại trong lịch sử VN,ông chính là 1 vị anh hùng dân tộc,1 nhà tư tưỏng,nhà thơ,nhà văn hoá lớn của nước ta.Tâm hồn & sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như vua Lê Thánh Tông đã ca ngợi"Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo".

Bạn xem thử đc ko, hì hì nếu đc thì thank 1 cái nhá:p
 
L

...love...love

Thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi và tác phẩm “Bình Ngô đại cáo”

Nguyễn Trãi (1480-1442) là đại anh hùng dân tộc, là danh nhân văn hóa thế giới, cũng là nhân vật toàn tài, chịu oan khiên thảm khốc hiếm có trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

Nguyễn Trãi quê gốc ở Chí Linh, Hải Dương, sau là ở làng Nhị Khê, Hà Nội ngày nay. Cha ông là nhà nho nghèo Nguyễn Phi Khanh, mẹ là bà Trần Thị Thái vốn dòng dõi quí tộc nhà Trần, ông ngoại là quan tư đồ Trần Nguyên Đán. Nguyễn Trãi sớm mồ côi mẹ rồi lại mất ông ngoại. Năm 1400, ông cùng cha thi đỗ Thái học sinh và ra làm quan cho nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta, cha Nguyễn Trãi bị bắt sang Trung Quốc, ông nghe lời cha ở lại nước tìm cách rửa nhục cho nước, đó là đại hiếu. Năm 1417, ông tìm được vào Lam Sơn, gặp Lê Lơi, dâng Bình Ngô sách, hiến kế cứu nước. Năm 1427, kháng chiến thắng lợi, ông hăm hở xây dựng đất nước, nhưng bị gian thần kèn cựa, nhà vua không trọng dụng, ông xin cáo quan về Côn Sơn, rồi lại được mời ra giúp nước năm 1440. Nhà vua đi duyệt võ, có ghé qua nơi ở của Nguyễn Trãi, rồi đột ngột qua đời ở Trại Vải. Bọn gian thần đổ tội giết vua cho Nguyễn Trãi rồi kết án tru di tam tộc. Đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông minh oan và cho sưu tầm lại các trước tác của Nguyễn Trãi.

Nguyễn Trãi là tác giả xuất sắc về nhiều thể loại văn học, cả chữ Nôm và chữ Hán. Ông để lại một khối lượng tác phẩm có giá trị cao, quy mô lớn. Đó là tập “Quân trung từ mệnh tập”, “Bình Ngô đại cáo”, “Lam Sơn thực lục”, “Băng Hồ di sự lục”, “Dư địa chí”, “Ức Trai thi tập”, “Quốc âm thi tập”, … Ông được coi là nhà văn chính luận kiệt xuất của văn học trung đại Việt Nam. “Bình Ngô đại cáo” của ông được đánh giá là thiên cổ hùng văn; “Quân trung từ mệnh tập” được ví có sức mạnh bằng 10 vạn quân. Văn chính luận của ông có luận điểm vững chắc, lập luận sắc bén, giọng điệu linh hoạt, có tính thuyết phục cao, thấm nhuần tư tưởng yêu nước, cứu dân, nhân đạo. Trong lĩnh vực thơ ca, Nguyễn Trãi được đánh giá là nhà thơ trữ tình sâu sắc. Thơ ông thể hiện hình ảnh con người ông, có sự hòa quyện giữa con người bình thường với phẩm chất anh hùng, vĩ đại, thể hiện lí tưởng nhân nghĩa yêu nước, thương dân, thể hiện phẩm chất cao quí của người quân tử, thể hiện nỗi đau con người, tình cảm vua tôi, lòng yêu thiên nhiên, … Thơ ông có sự cách tân về thể loại, sử dụng những hình ảnh quen thuộc dân dã , cảm xúc tinh tế, sử dụng nhiều từ thuần Việt giàu sức gợi. Nguyễn Trãi là người có Ý thức cao về việc phát huy ngôn ngữ tiếng Việt.

“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi là khúc tráng ca ca ngợi cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn. Bài cáo được Nguyễn Trãi viết vào khoảng cuối 1427-đầu 1428 khi cuộc kháng chiến chống quân Minh giành chiến thắng, theo sự ủy thác của Lê Lợi. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán, theo thể cáo-thể văn nghị luận được vua chúa dùng để trình bày một chủ trương, sự nghiệp, tuyên ngôn về một sự kiện trọng đại. Đây là loại văn hùng biện, lời lẽ đanh thép, lí luận sắc bén, kết cấu chặt chẽ mạch lạc. Tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” là bài cáo duy nhất trong lịch sử Việt Nam còn lại đến ngày nay, có Ý nghĩa vô cùng trọng đại với dân tộc ta, được coi là bản tuyên ngôn độc lập. Tác phẩm vừa mang đầy đủ đặc điểm của thể cáo vừa có những sáng tạo riêng về nghệ thuật của Nguyễn Trãi. Bài cáo có kết cấu hoành tráng, bố cục chặt chẽ mạch lạc, viết theo lối văn biền ngẫu, vận dụng thể tứ lục, sử dụng hình ảnh nghệ thuật sinh động, gợi cảm. Bài cáo có bố cục bốn phần, phần đầu nêu lên luận đề chính nghĩa của nghĩa quân Lam sơn và khẳng định độc lập chủ quyền, nền văn hiến lâu đời của dân tộc quốc gia Đại Việt: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân-Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, “Như nước Đại Việt ta từ trước-Vốn xưng nền văn hiến đã lâu-Núi sông bờ cõi đã chia-Phong tục Bắc Nam cũng khác”. Phần hai của bài cáo đã tố cáo vạch trần tội ác, tính chất phi nghĩa của giặc Minh “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn-Vùi con đỏ xuống dưới hầnm tai vạ”, “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội- Dơ bẩn thay, nước Đông Hải khôn rửa sạch mùi”. Phần ba của bài cáo khẳng định tính chính nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn, tường thuật tái hiện quá trình kháng chiến thắng lợi, ca ngợi sức mạnh của nghĩa quân mà đứng đầu là người anh hùng Lê Lợi “Ngẫm thù lớn há đội trời chung-Căm giặc nước thề không cùng sống” đã lãnh đạo cuộc kháng chiến thắng lợi giòn giã “Đánh một trận sạch không kình ngạc-Đánh hai trận tan tác chim muông”. Phần cuối của bài cáo là lời tuyên bố thắng lợi và khẳng định nền hòa bình độc lập vững bền của dân tộc. Xuyên suốt bài cáo là cảm hứng anh hùng ca hào hùng sôi nổi mãnh liệt. Vì thế, tác phẩm được mệnh danh là “thiên cổ hùng văn”.

Có thể khẳng định rằng Nguyễn Trãi là thiên tài văn học, là kết tinh tinh hoa văn hóa Lí Trần, là cây đại thụ đầu tiên của văn học nước nhà, là người mở đường cho giai đoạn phát triển mới của văn học dân tộc. Thơ văn của ông hội tụ hai nguồn cảm hứng lớn của dân tộc là yêu nước và nhân đạo.
 
Top Bottom