M
maiminhtien
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!! ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.
1 .Alexandros Đại Đế :
Alexandros Đại Đế ( Megas
Alexandros; tháng 7 năm 356 TCN – 11 tháng 6 năm 323 TCN), cũng được
biết đến như là Alexandros III, là vua của xứ Macedon (336–323 TCN) và
được xem là một trong những nhà chỉ huy quân sự thành công nhất trong
lịch sử, người đã chinh phục gần như toàn bộ thế giới mà ông biết trước
khi chết; ông thường được đứng trong cùng một danh sách với Napoléon
Bonaparte, Julius Caesar và Thành Cát Tư Hãn như là một trong những nhà
chiến lược quân sự vĩ đại nhất trong lịch sử. Tiếp sau sự thống nhất
các thành bang Hy Lạp cổ đại dưới sự cai trị của cha ông, Philip II xứ
Macedon, (một việc Alexandros phải lặp lại hai lần vì các miền phía nam
Hy Lạp nổi loạn sau khi Philip chết), Alexandros chinh phục Đế chế Ba
Tư, bao gồm cả Anatolia, Syria, Phoenicia, Gaza, Ai Cập, Bactria và
Lưỡng Hà và mở rộng biên cương đế chế của ông đến xa tận Punjab.
Đế chế của Alexamdros:
Alexandros thực hiện một chính sách
hòa hợp: ông đưa cả những người ngoại quốc (không phải người Hy Lạp hay
người Macedon) vào chính quyền và quân đội của mình, ông khuyến khích
hôn nhân giữa quân của mình với người nước ngoài và chính ông cũng lấy
vợ ngoại quốc.
Sau mười hai năm liên tục tổ chức
các chiến dịch quân sự, Alexandros chết, có lẽ là do sốt rét, thương
hàn, hay viêm não do virút. Những cuộc chinh phạt của ông mở đầu cho
nhiều thế kỉ định cư và thống trị của người Hy Lạp trên nhiều vùng đất
xa xôi, một giai đoạn được gọi là thời kỳ Hy Lạp hóa. Bản thân
Alexander sống trong lịch sử và trong các truyền thuyết của các nền văn
hóa Hy Lạp và không Hy Lạp. Ngay khi ông còn sống, và đặc biệt sau khi
ông chết, những cuộc chinh phạt của ông đã là nguồn cảm hứng của một
truyền thống văn học mà trong đó ông xuất hiện như là một anh hùng
huyền thoại theo truyền thống của Achilles.
2.Julius Ceasar :
Sự nghiệp quân sự rất thành công của
Caesar khiến ông đuợc xếp vào ngang hàng với Alexander Đại đế,
Hannibal, Thành Cát Tư Hãn và Napoléon Bonaparte. Mặc dù ông cũng đã
từng thất bại lớn trong nhiều trận đánh, như trận Gergovia (trong cuộc
chinh phạt xứ Gaul), Trận Dyrrhachium (trong cuộc Nội chiến), thế nhưng
khả năng, mưu lược tài tình của ông vẫn ngời sáng qua sự xây đắp thành
lũy ở Alesia trong cuộc chiến xứ Gaul, chiến thắng đội quân đông đảo
hơn rất nhiều của Pompey ở Pharsalus, và sự tận diệt đội quân của vua
Pharnaces ở Trận Zela.
Caesar chiến thắng dưới bất kỳ địa
hình, thời tiết nào có thể phần lớn là nhờ vào tính kỷ luật cao của
binh lính ông, khả năng điều khiển tuyệt vời, và sự trung thành của
binh lính dành cho ông. Kỵ binh và bộ binh của ông là tốt nhất (của La
Mã thời đó), và ông sử dụng rất nhiều các thiết bị chiến tranh của La
Mã như máy bắn đá, máy bắn tên và nhiều mặt khác nữa, điều mà khiến cho
lực lượng của ông trở nên cực kỳ thiện chiến, kỷ luật và di chuyển rất
nhanh (một vài tài liệu chép rằng lực lượng của Caesar có thể di chuyển
tới hơn 40 dặm trong vòng một ngày). Lực lượng của ông ước có khoảng
hơn 40.000 bộ binh và rất nhiều kỵ binh, cùng với một số đơn vị chuyên
dụng khác như là các máy móc chiến tranh, phu phục vụ. Caesar kể trong
bản hối ký của ông rằng một số làng của người Gaul được xây dựng trên
dốc thẳng đứng và rất vững chắc, sẽ thiệt hại rất lớn nếu muốn tấn công
những khu làng kiểu này, nhưng các máy móc và kỹ sư của ông có thể đào
qua các lớp đá cứng và tìm ra nguồn cung cấp nước cho các làng đó, và
ông ngắt nó đi. Ngôi làng thiếu nước cung cấp, đầu hàng hầu như ngay
lập tức.
3. Hannibal :
Hannibal, 1 tướng trẻ 25 tuổi trở
thành tổng chỉ huy quân Carthage ở TBN. Lúc đầu, Hannibal cho phép
người Saguntum sử dụng các bến cảng rộng lớn để tránh xung đột với La
Mã. Nhưng Saguntum với giúp đỡ của người đồng minh La Mã, bắt đầu chơi
trò chính trị với các thành phố TBN khác. Bỏ qua những đe dọa trực tiếp
từ La Mã, Hannibal tấn công và chiếm giữ Saguntum. La Mã cố gắng thu
xếp vấn đề này bằng con đường ngoại giao. Họ yêu cầu Carthage cách chức
Hannibal và đưa ông này đến Rome. Chiến tranh Punic lần 2 nổ ra năm 218
trước cn khi Carrthage khước từ yêu cầu này. Nhưng lần này, La Mã phải
đối mặt với 1 địch thủ đáng sợ. Trong thời gian sau cuộc chiến lần 1,
Carthage đã tạo ra 1 đội quân hùng mạnh. Hannibal đã đưa đội quân này
đi dọc Châu Âu và tháng 9 năm 218, ông đưa quân Carthage vượt dãy Alpes
bắt đầu cuộc xâm lược Italy. Dù mệt mỏi vì quãng đường vận động chiến,
Hannibal vẫn ngay lập tức đập tan quân La Mã ở phía bắc Italy. Chiến
thắng ngoạn mục này đã khiến nhiều chiến binh du mục Gaul gia nhập đoàn
quân của Hannibal nâng tổng số quân của ông lên trên 50000. Chiến thắng
của Hannibal trước người La Mã được đảm bảo bằng việc thuyết phục các
đồng minh của La Mã và sát nhập nhiều thành phố vào Carthage.
Người La Mã hiểu rằng họ không thể
đánh bại Hannibal. Tuyệt vọng, La Mã trao quyền cho nhà độc tài Quintus
Fabius Maximuss. Fabius ra lệnh tránh chiến tranh trực diện bằng mọi
giá, chỉ đánh du kích cho tới khi quân Carthage suy yếu đủ để tấn công
trực diện. Nhưng khi Hannibal hành quân tới Cannae (trận Can) năm 216
trước cn, Fabius đưa 1 đội quân 80000 người ra chống lại. Đội quân này
ngay lập tức bị Hannibal tiêu diệt hoàn toàn, đây là thất bại lớn nhất
Rome từng trải qua. Các đồng minh phía Nam Italy của La Mã chạy sang
phía Hannibal, toàn bộ Sicily trở thành đồng minh của Carthage. Thêm
vào đó, vua Philip V xứ Macedon, người kiểm soát hầu hết lãnh địa Hy
Lạp cũng ngả theo Hannibal và bắt đầu cuộc chiến tranh chống lại La Mã
năm 215 trước cn. Tình hình gần như tuyệt vọng đối với La Mã. Fabius
không còn dũng khí đối đầu với Hannibal. Hannibal đưa quân đội vòng
quanh Italy mà không còn bất cứ sự chống cự nào. Tuy nhiên, Hannibal
không có đủ lực lượng và trang bị để bao vây hay tấn công ồ ạt các
thành phố như Rome. Tất cả những gì ông có thể làm là đi khắp các miền
nông thôn Italy và tàn phá nó.
La Mã quyết định tấn công hậu phương
của Hannibal. Biết rằng Hannibal phụ thuộc vào nguồn cung cấp nhân lực
và vật lực từ TBN, La Mã trao cho Publius Cornelius Scipio (237-183
trước cn), 1 thiên tài về chiến lược chức Thống đốc Tây Ban Nha, 1 hành
động không hợp hiến vì vị tướng trẻ này chưa bao giờ là quan chấp
chính. Scipio, sau này được gọi bằng cái tên Scipio Africanus vì chiến
thắng của ông trước người Carthage trên đất Châu Phi, đã nhanh chóng
chinh phục toàn bộ TBN. Đến lúc này, Hannibal bị mắc cạn trên đất
Italy. Sau đó, Scipio đưa quân vào Châu Phi và buộc người Carthage phải
đề nghị Rome 1 hiệp ước hòa bình. Một phần của hiệp ước này là Hannibal
phải rời khỏi bán đảo Italy. Hannibal là 1 trong những danh tướng vĩ
đại nhất trong lịch sử thế giới. Trong suốt cuộc chiến tranh với La Mã,
ông không hề thua 1 trận nào. Dù vậy ông vẫn buộc phải rút lui. Và dù
thắng trong tất cả các trận đánh, Hannibal đã thua trong cuộc chiến
tranh này. Khi Hannibal quay trở lại, người Carthage lấy lại tinh thần
và thêm 1 lần nữa nổi dậy chống lại La Mã. Năm 202 trước cn, Hannibal
và Scipio giao chiến ở At Zama phía bắc Châu Phi và tại đây Hannibal
nếm chiến bại đầu tiên. Carthage bị đưa xuống thành 1 bang độc lập. La
Mã lúc này kiểm soát toàn bộ miền tây Địa Trung Hải bao gồm cả khu vực
Bắc Phi.
Cuộc chiến này mang đến cho La Mã
những kinh nghiệm lịch sử. Họ đã phải đối mặt với những thất bại hiển
nhiên trước một địch thủ hùng mạnh và cuối cùng đã chiến thắng những kẻ
thù vượt trội này. Tính cách La Mã được nhìn nhận từ cuộc chiến tuyệt
vọng này đã xuyên suốt phần còn lại của lịch sử đế chế. Chiến tranh
Punic lần 2 đưa La Mã từ 1 quyền lực có tính khu vực trở thành 1 đế chế
trên toàn thế giới. Với việc Philip V của Macedon bắt tay với Hannibal
tiến hành chiến tranh chống lại Rome, La Mã chuyển hướng chiến tranh về
phía đông trước tiên xâm chiếm Macedon và sau đó là các vương quốc Hi
Lạp khác. Kết quả cuối cùng của chiến tranh Punic lần 2 là sự thống trị
thế giới của La Mã.
4 . Thành Cát Tư Hãn :
Thành Cát Tư hãn sinh ra với tên Thiết Mộc Chân
khoảng năm 1155/1162/1167 và mất ngày 18 tháng 8 năm 1227, là Hãn vương
của Mông Cổ và là người sáng lập ra Đế chế Mông Cổ sau khi hợp nhất các
bộ lạc độc lập của Mông Cổ năm 1206. Là một nhà lãnh đạo lỗi lạc và
quan trọng của lịch sử thế giới, ông được người Mông Cổ dành cho sự tôn
trọng cao nhất, như là một vị lãnh đạo đã loại bỏ hàng thế kỷ của các
cuộc giao tranh, mang lại sự ổn định về chính trị và kinh tế cho khu
vực Á-Âu trong lãnh thổ của ông, mặc dù đã gây ra những tổn thất to lớn
đối với những người chống lại ông. Cháu nội của ông và là người kế tục
sau này, đại hãn Hốt Tất Liệt đã thiết lập ra triều đại nhà Nguyên của
Trung Quốc (1271–1368) sau khi lật đổ triều đại nhà Nam Tống.
Bão táp bắt đầu nổi lên cùng với sự
xuất hiện của Thiết Mộc Chân (Temujin 1162-1227), sau này lấy danh hiệu
là Thành Cát Tư Hãn, tức Genghis Khan. Vừa nắm được quyền hành, Thành
Cát Tư Hãn đã khởi sự chiến tranh, theo đuổi mộng bá chủ:
- 1205-1209: chinh phục nước Tây Hạ (Hsi-Hsia), tức vùng đất Tây Thục sau nàỵ
- 1211-1215: chinh phục nước Kim
(Chin), vượt Vạn Lý Trường Thành, chiếm thủ đô Bắc Kinh của người Kim.
Sau này, nước Kim sát nhập vào nước Tầụ
- 1218-1219: chinh phục đế quốc Ba Tư (thời đó là Khwarezmian empire của Mohammed Shah), gồm đất Ba Tư,
Khorassan, Transoxonia, Samarkand và Afghanistan.
- 1222: Tuân lệnh của Thành Cát Tư
Hãn quân Mông tiến sang Âu châu, chiếm toàn vùng Caucasus, vượt sông
Don, tràn vào Crimea rồi Ukraine, hạ trại bên bờ sông Dnieper. Ông
hoàng thành Kiev đưa 80 ngàn quân đánh quân Mông, nhưng đã bị Subotai
và danh tướng Chepe nghiền nát. Năm 1224 danh tướng Chepe bị bệnh chết,
Subotai triệt thoái trên con đường dài 4000 dặm để bắt tay với đoàn
quân trung ương.
- 1226: Thành Cát Tư Hãn chọn con trai là Ogedei làm người nối nghiệp, rồi chuẩn bị đưa 180 ngàn quân đi trừng
phạt quân Hạ và Kim là hai nước đã bị quân Mông Cổ đánh bại, nay liên kết với nhau chống lại quân Mông Cổ.
- 1227: Thành Cát Tư Hãn chết. Ogedei đại hãn và Kuyuk đại hãn Ogedei và con là Kuyuk tiếp tục mộng bá chủ của cha.
- 1231: Xâm lăng Cao Ly (Korea).
- 1235-1239: Con Ogedei Khan là Godan đánh chiếm Tây Tạng.
- 1237-1238: Subotai xua 150 ngàn quân trở lại Âu châu, gieo tàn phá, chết chóc khắp vùng phía Bắc nước Nga .
- 1240: Chiếm Kiev, rồi Lithuania và Ba lan.
- Tháng 4, 1240: Subotai hạ thành Pest, tiêu diệt đạo quân của vua Bela IV nước Hung.
- Tháng 9, 1240: Ðánh tan liên minh quân Ðức, Ba lan, và dòng tu Hiệp sĩ Ðức (Teutonic Knights). Thủ lãnh của liên
minh là hoàng tử xứ Silesia bị giết cùng với hầu hết hiệp sĩ của ông.
- Cuối năm 1241, quân Mông tiến vào
nước Ý, vượt qua thành Venice và Treviso, đồng thời ngược lên sông
Danube, áp sát thành Vienne Giữa lúc ấy, Ogedei chết. Theo luật, các
anh em của vị đại hãn quá cố phải trở về Mông Cổ để bầu chọn vị đại hãn
mớị. Nhờ thế mà Âu châu thoát được họa diệt vong. Vậy mà trên đường
triệt thoái, quân Mông Cổ còn đủ thì giờ để làm cỏ hai nước Bulgaria và
Serbia.
(còn tiếp)
Alexandros Đại Đế ( Megas
Alexandros; tháng 7 năm 356 TCN – 11 tháng 6 năm 323 TCN), cũng được
biết đến như là Alexandros III, là vua của xứ Macedon (336–323 TCN) và
được xem là một trong những nhà chỉ huy quân sự thành công nhất trong
lịch sử, người đã chinh phục gần như toàn bộ thế giới mà ông biết trước
khi chết; ông thường được đứng trong cùng một danh sách với Napoléon
Bonaparte, Julius Caesar và Thành Cát Tư Hãn như là một trong những nhà
chiến lược quân sự vĩ đại nhất trong lịch sử. Tiếp sau sự thống nhất
các thành bang Hy Lạp cổ đại dưới sự cai trị của cha ông, Philip II xứ
Macedon, (một việc Alexandros phải lặp lại hai lần vì các miền phía nam
Hy Lạp nổi loạn sau khi Philip chết), Alexandros chinh phục Đế chế Ba
Tư, bao gồm cả Anatolia, Syria, Phoenicia, Gaza, Ai Cập, Bactria và
Lưỡng Hà và mở rộng biên cương đế chế của ông đến xa tận Punjab.
Đế chế của Alexamdros:
Alexandros thực hiện một chính sách
hòa hợp: ông đưa cả những người ngoại quốc (không phải người Hy Lạp hay
người Macedon) vào chính quyền và quân đội của mình, ông khuyến khích
hôn nhân giữa quân của mình với người nước ngoài và chính ông cũng lấy
vợ ngoại quốc.
Sau mười hai năm liên tục tổ chức
các chiến dịch quân sự, Alexandros chết, có lẽ là do sốt rét, thương
hàn, hay viêm não do virút. Những cuộc chinh phạt của ông mở đầu cho
nhiều thế kỉ định cư và thống trị của người Hy Lạp trên nhiều vùng đất
xa xôi, một giai đoạn được gọi là thời kỳ Hy Lạp hóa. Bản thân
Alexander sống trong lịch sử và trong các truyền thuyết của các nền văn
hóa Hy Lạp và không Hy Lạp. Ngay khi ông còn sống, và đặc biệt sau khi
ông chết, những cuộc chinh phạt của ông đã là nguồn cảm hứng của một
truyền thống văn học mà trong đó ông xuất hiện như là một anh hùng
huyền thoại theo truyền thống của Achilles.
2.Julius Ceasar :
Sự nghiệp quân sự rất thành công của
Caesar khiến ông đuợc xếp vào ngang hàng với Alexander Đại đế,
Hannibal, Thành Cát Tư Hãn và Napoléon Bonaparte. Mặc dù ông cũng đã
từng thất bại lớn trong nhiều trận đánh, như trận Gergovia (trong cuộc
chinh phạt xứ Gaul), Trận Dyrrhachium (trong cuộc Nội chiến), thế nhưng
khả năng, mưu lược tài tình của ông vẫn ngời sáng qua sự xây đắp thành
lũy ở Alesia trong cuộc chiến xứ Gaul, chiến thắng đội quân đông đảo
hơn rất nhiều của Pompey ở Pharsalus, và sự tận diệt đội quân của vua
Pharnaces ở Trận Zela.
Caesar chiến thắng dưới bất kỳ địa
hình, thời tiết nào có thể phần lớn là nhờ vào tính kỷ luật cao của
binh lính ông, khả năng điều khiển tuyệt vời, và sự trung thành của
binh lính dành cho ông. Kỵ binh và bộ binh của ông là tốt nhất (của La
Mã thời đó), và ông sử dụng rất nhiều các thiết bị chiến tranh của La
Mã như máy bắn đá, máy bắn tên và nhiều mặt khác nữa, điều mà khiến cho
lực lượng của ông trở nên cực kỳ thiện chiến, kỷ luật và di chuyển rất
nhanh (một vài tài liệu chép rằng lực lượng của Caesar có thể di chuyển
tới hơn 40 dặm trong vòng một ngày). Lực lượng của ông ước có khoảng
hơn 40.000 bộ binh và rất nhiều kỵ binh, cùng với một số đơn vị chuyên
dụng khác như là các máy móc chiến tranh, phu phục vụ. Caesar kể trong
bản hối ký của ông rằng một số làng của người Gaul được xây dựng trên
dốc thẳng đứng và rất vững chắc, sẽ thiệt hại rất lớn nếu muốn tấn công
những khu làng kiểu này, nhưng các máy móc và kỹ sư của ông có thể đào
qua các lớp đá cứng và tìm ra nguồn cung cấp nước cho các làng đó, và
ông ngắt nó đi. Ngôi làng thiếu nước cung cấp, đầu hàng hầu như ngay
lập tức.
3. Hannibal :
Hannibal, 1 tướng trẻ 25 tuổi trở
thành tổng chỉ huy quân Carthage ở TBN. Lúc đầu, Hannibal cho phép
người Saguntum sử dụng các bến cảng rộng lớn để tránh xung đột với La
Mã. Nhưng Saguntum với giúp đỡ của người đồng minh La Mã, bắt đầu chơi
trò chính trị với các thành phố TBN khác. Bỏ qua những đe dọa trực tiếp
từ La Mã, Hannibal tấn công và chiếm giữ Saguntum. La Mã cố gắng thu
xếp vấn đề này bằng con đường ngoại giao. Họ yêu cầu Carthage cách chức
Hannibal và đưa ông này đến Rome. Chiến tranh Punic lần 2 nổ ra năm 218
trước cn khi Carrthage khước từ yêu cầu này. Nhưng lần này, La Mã phải
đối mặt với 1 địch thủ đáng sợ. Trong thời gian sau cuộc chiến lần 1,
Carthage đã tạo ra 1 đội quân hùng mạnh. Hannibal đã đưa đội quân này
đi dọc Châu Âu và tháng 9 năm 218, ông đưa quân Carthage vượt dãy Alpes
bắt đầu cuộc xâm lược Italy. Dù mệt mỏi vì quãng đường vận động chiến,
Hannibal vẫn ngay lập tức đập tan quân La Mã ở phía bắc Italy. Chiến
thắng ngoạn mục này đã khiến nhiều chiến binh du mục Gaul gia nhập đoàn
quân của Hannibal nâng tổng số quân của ông lên trên 50000. Chiến thắng
của Hannibal trước người La Mã được đảm bảo bằng việc thuyết phục các
đồng minh của La Mã và sát nhập nhiều thành phố vào Carthage.
Người La Mã hiểu rằng họ không thể
đánh bại Hannibal. Tuyệt vọng, La Mã trao quyền cho nhà độc tài Quintus
Fabius Maximuss. Fabius ra lệnh tránh chiến tranh trực diện bằng mọi
giá, chỉ đánh du kích cho tới khi quân Carthage suy yếu đủ để tấn công
trực diện. Nhưng khi Hannibal hành quân tới Cannae (trận Can) năm 216
trước cn, Fabius đưa 1 đội quân 80000 người ra chống lại. Đội quân này
ngay lập tức bị Hannibal tiêu diệt hoàn toàn, đây là thất bại lớn nhất
Rome từng trải qua. Các đồng minh phía Nam Italy của La Mã chạy sang
phía Hannibal, toàn bộ Sicily trở thành đồng minh của Carthage. Thêm
vào đó, vua Philip V xứ Macedon, người kiểm soát hầu hết lãnh địa Hy
Lạp cũng ngả theo Hannibal và bắt đầu cuộc chiến tranh chống lại La Mã
năm 215 trước cn. Tình hình gần như tuyệt vọng đối với La Mã. Fabius
không còn dũng khí đối đầu với Hannibal. Hannibal đưa quân đội vòng
quanh Italy mà không còn bất cứ sự chống cự nào. Tuy nhiên, Hannibal
không có đủ lực lượng và trang bị để bao vây hay tấn công ồ ạt các
thành phố như Rome. Tất cả những gì ông có thể làm là đi khắp các miền
nông thôn Italy và tàn phá nó.
La Mã quyết định tấn công hậu phương
của Hannibal. Biết rằng Hannibal phụ thuộc vào nguồn cung cấp nhân lực
và vật lực từ TBN, La Mã trao cho Publius Cornelius Scipio (237-183
trước cn), 1 thiên tài về chiến lược chức Thống đốc Tây Ban Nha, 1 hành
động không hợp hiến vì vị tướng trẻ này chưa bao giờ là quan chấp
chính. Scipio, sau này được gọi bằng cái tên Scipio Africanus vì chiến
thắng của ông trước người Carthage trên đất Châu Phi, đã nhanh chóng
chinh phục toàn bộ TBN. Đến lúc này, Hannibal bị mắc cạn trên đất
Italy. Sau đó, Scipio đưa quân vào Châu Phi và buộc người Carthage phải
đề nghị Rome 1 hiệp ước hòa bình. Một phần của hiệp ước này là Hannibal
phải rời khỏi bán đảo Italy. Hannibal là 1 trong những danh tướng vĩ
đại nhất trong lịch sử thế giới. Trong suốt cuộc chiến tranh với La Mã,
ông không hề thua 1 trận nào. Dù vậy ông vẫn buộc phải rút lui. Và dù
thắng trong tất cả các trận đánh, Hannibal đã thua trong cuộc chiến
tranh này. Khi Hannibal quay trở lại, người Carthage lấy lại tinh thần
và thêm 1 lần nữa nổi dậy chống lại La Mã. Năm 202 trước cn, Hannibal
và Scipio giao chiến ở At Zama phía bắc Châu Phi và tại đây Hannibal
nếm chiến bại đầu tiên. Carthage bị đưa xuống thành 1 bang độc lập. La
Mã lúc này kiểm soát toàn bộ miền tây Địa Trung Hải bao gồm cả khu vực
Bắc Phi.
Cuộc chiến này mang đến cho La Mã
những kinh nghiệm lịch sử. Họ đã phải đối mặt với những thất bại hiển
nhiên trước một địch thủ hùng mạnh và cuối cùng đã chiến thắng những kẻ
thù vượt trội này. Tính cách La Mã được nhìn nhận từ cuộc chiến tuyệt
vọng này đã xuyên suốt phần còn lại của lịch sử đế chế. Chiến tranh
Punic lần 2 đưa La Mã từ 1 quyền lực có tính khu vực trở thành 1 đế chế
trên toàn thế giới. Với việc Philip V của Macedon bắt tay với Hannibal
tiến hành chiến tranh chống lại Rome, La Mã chuyển hướng chiến tranh về
phía đông trước tiên xâm chiếm Macedon và sau đó là các vương quốc Hi
Lạp khác. Kết quả cuối cùng của chiến tranh Punic lần 2 là sự thống trị
thế giới của La Mã.
4 . Thành Cát Tư Hãn :
Thành Cát Tư hãn sinh ra với tên Thiết Mộc Chân
khoảng năm 1155/1162/1167 và mất ngày 18 tháng 8 năm 1227, là Hãn vương
của Mông Cổ và là người sáng lập ra Đế chế Mông Cổ sau khi hợp nhất các
bộ lạc độc lập của Mông Cổ năm 1206. Là một nhà lãnh đạo lỗi lạc và
quan trọng của lịch sử thế giới, ông được người Mông Cổ dành cho sự tôn
trọng cao nhất, như là một vị lãnh đạo đã loại bỏ hàng thế kỷ của các
cuộc giao tranh, mang lại sự ổn định về chính trị và kinh tế cho khu
vực Á-Âu trong lãnh thổ của ông, mặc dù đã gây ra những tổn thất to lớn
đối với những người chống lại ông. Cháu nội của ông và là người kế tục
sau này, đại hãn Hốt Tất Liệt đã thiết lập ra triều đại nhà Nguyên của
Trung Quốc (1271–1368) sau khi lật đổ triều đại nhà Nam Tống.
Bão táp bắt đầu nổi lên cùng với sự
xuất hiện của Thiết Mộc Chân (Temujin 1162-1227), sau này lấy danh hiệu
là Thành Cát Tư Hãn, tức Genghis Khan. Vừa nắm được quyền hành, Thành
Cát Tư Hãn đã khởi sự chiến tranh, theo đuổi mộng bá chủ:
- 1205-1209: chinh phục nước Tây Hạ (Hsi-Hsia), tức vùng đất Tây Thục sau nàỵ
- 1211-1215: chinh phục nước Kim
(Chin), vượt Vạn Lý Trường Thành, chiếm thủ đô Bắc Kinh của người Kim.
Sau này, nước Kim sát nhập vào nước Tầụ
- 1218-1219: chinh phục đế quốc Ba Tư (thời đó là Khwarezmian empire của Mohammed Shah), gồm đất Ba Tư,
Khorassan, Transoxonia, Samarkand và Afghanistan.
- 1222: Tuân lệnh của Thành Cát Tư
Hãn quân Mông tiến sang Âu châu, chiếm toàn vùng Caucasus, vượt sông
Don, tràn vào Crimea rồi Ukraine, hạ trại bên bờ sông Dnieper. Ông
hoàng thành Kiev đưa 80 ngàn quân đánh quân Mông, nhưng đã bị Subotai
và danh tướng Chepe nghiền nát. Năm 1224 danh tướng Chepe bị bệnh chết,
Subotai triệt thoái trên con đường dài 4000 dặm để bắt tay với đoàn
quân trung ương.
- 1226: Thành Cát Tư Hãn chọn con trai là Ogedei làm người nối nghiệp, rồi chuẩn bị đưa 180 ngàn quân đi trừng
phạt quân Hạ và Kim là hai nước đã bị quân Mông Cổ đánh bại, nay liên kết với nhau chống lại quân Mông Cổ.
- 1227: Thành Cát Tư Hãn chết. Ogedei đại hãn và Kuyuk đại hãn Ogedei và con là Kuyuk tiếp tục mộng bá chủ của cha.
- 1231: Xâm lăng Cao Ly (Korea).
- 1235-1239: Con Ogedei Khan là Godan đánh chiếm Tây Tạng.
- 1237-1238: Subotai xua 150 ngàn quân trở lại Âu châu, gieo tàn phá, chết chóc khắp vùng phía Bắc nước Nga .
- 1240: Chiếm Kiev, rồi Lithuania và Ba lan.
- Tháng 4, 1240: Subotai hạ thành Pest, tiêu diệt đạo quân của vua Bela IV nước Hung.
- Tháng 9, 1240: Ðánh tan liên minh quân Ðức, Ba lan, và dòng tu Hiệp sĩ Ðức (Teutonic Knights). Thủ lãnh của liên
minh là hoàng tử xứ Silesia bị giết cùng với hầu hết hiệp sĩ của ông.
- Cuối năm 1241, quân Mông tiến vào
nước Ý, vượt qua thành Venice và Treviso, đồng thời ngược lên sông
Danube, áp sát thành Vienne Giữa lúc ấy, Ogedei chết. Theo luật, các
anh em của vị đại hãn quá cố phải trở về Mông Cổ để bầu chọn vị đại hãn
mớị. Nhờ thế mà Âu châu thoát được họa diệt vong. Vậy mà trên đường
triệt thoái, quân Mông Cổ còn đủ thì giờ để làm cỏ hai nước Bulgaria và
Serbia.
(còn tiếp)