02. Những bước đường tư tưởng của tôi - Xuân Diệu

T

tranquang

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

02. Những bước đường tư tưởng của tôi - Xuâ

Xuân Diệu
Những bước đường tư tưởng của tôi
(Tiểu luận và phê bình văn học)


Ba em bé

Trong cuộc đấu tranh thống nhất và tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, nó mang những khó khăn rất lớn và bao gồm cả những vấp váp sai lầm, những người văn nghệ và trí thức chúng ta có những lúc tâm trí như chùn lại. Những chuyện “tiền kiếp” trong mỗi con người chúng ta thỉnh thoảng lại khuấy bùn vẩn lên, gieo rắc hoang mang trong những dây sâu kín nhất của tâm trí. Những lúc có thể mất địa bàn như vậy, riêng tôi, tôi thường “ôn cố tri tân”; tôi lần nhẩm lại những bước đường mà tư tưởng tôi đã trải qua, từ lúc biết nghĩ cho đến giờ; tôi nhận định đích xác xem từ chỗ sa lầy nào mà tôi đã vươn lên, do quá trình tư tưởng nào mà tôi đã đến với chủ nghĩa cộng sản. Tôi thọc sâu vào bóng của quá khứ để so sánh nổi bật cái ánh sáng của hiện tại và tương lai. Và tôi lại thấy sao Bắc đẩu chói lọi.

Như một người làm mẹ đã thấy mình mang cái mầm sống từ ở trong dạ, tôi thấy đoá hoa sen của tư tưởng, tốt thay! đã đè được những lớp bùn mà nở trong tâm trí mình. Nó đã nở rồi, không gì có thể dìm nó được nữa.

Vâng, chính những chuyện “tiền kiếp” của chế độ cũ, mỗi khi nhớ đến, lại giúp đỡ tôi chiến thắng cho được những chông gai mới trên con đường dài của sự nghĩ suy; phải phá cho được, san cho được con đường đi tới trước vô biên của cuộc đời, chứ không thể ngựa quen đường cũ, quay lộn trở lại cái trầm luân xưa đã quá ư đau khổ!

Con một ông tú tài nho nghèo, dạy học, từ nông thôn chuyển dần ra thành phố, khá giả dần lên tới mức tiểu tư sản lớp giữa, tôi sinh và lớn lên ở miền Nam Trung bộ, không bao giờ giàu, nhưng chưa bao giờ phải chịu cái đói, cái rét vào thân. Tuy nhiên, tôi cũng đủ thương đau để mà đứng lên tố khổ không tiếc lời cái xã hội cũ. Chuyện đời trước dài lắm. Không phải trường hợp kể ở đây. Để làm chứng cho cái đời chẳng ra đời trước kia, tôi chỉ kể lại ba em bé:

Cuối năm 1940, từ Mỹ Tho lên Sài Gòn, tôi đến thăm nhà một anh bạn cùng làm tham tá nhà Đoan [1] như tôi; bắt đầu Nhật thuộc rồi, làm công chức cuối mùa cho Pháp cỡ “viên ngoại” như thế, căn nhà thuê của anh xuềnh xoàng, bàn ghế qua loa. Lúc ấy vào khoảng ba, bốn giờ chiều ngày chủ nhật, tôi thấy bà vú già đang dỗ đứa cháu đầu lên ba tuổi, mới biết nói. Cháu khóc nho nhỏ, kéo dài, không giận hờn, không vòi vĩnh; vú già hỏi cháu: − “Cháu đau ở chỗ nào, nói với bà”. Mẹ cháu dỗ cháu: − “Mẹ mua bánh cho con nhé”. Cháu lắc đầu, và tiếp tục khóc. Người ta nựng nịu, vuốt ve em, người ta hỏi em: − “Tại sao em khóc?” Em bé chỉ trả lời bằng giọng Nghệ An có một tiếng: − “Buồn!”. Chị bạn lo lắng phân trần với tôi, ngơ ngác như không hiểu gì: − “Cháu thỉnh thoảng về chiều lại khóc như thế; cháu chẳng đòi gì cả, khám bác sĩ cũng không thấy cháu có bệnh gì; cháu chỉ kêu là “Buồn” và khóc. Tôi, thì tôi muốn nói với chị: − “Hỡi người mẹ đáng quý và đáng thương! con của chị cũng như tôi, nó đau “bệnh thời đại” đấy! Nó là cái biểu đo nóng lạnh của cuộc đời này; tâm hồn non yếu của nó cảm rất nhạy cái điều bàng bạc ở trong không khí, ở ngoài phố, ở quanh chúng ta: buổi chiều buồn quá, đời sống buồn quá!”. Từ khi đó, trở về, tôi không sao quên được vấn đề ghê rợn mà em bé đặt ra. Trời đất ơi, một em bé mới ra đời, chưa biết nói thành câu mà đã phải khóc vì buồn, thì cuộc đời này còn sống thế nào nữa!

Năm 1942, tôi đi xe lửa từ Sài Gòn ra Hà Nội, đến vào khoảng Đồng Hà, Tân Ấp thì đường đứt vì vài tuần trước mưa, bão, phải “sang tàu”. Vùng này đang bị đói to, đến khoai sắn cũng thiếu. Trong một nhà tranh lụp xụp, một người đàn bà khoảng hai mươi nhăm tuổi đang đút cho con ăn lưng bát cơm vơi. Em bé ba tuổi không ăn, nó khóc, máu dồn lên đỏ cả đầu; nó giậm chân xuống đất, nhất quyết bắt đền người mẹ: - “Trả đây! Trả đây!”. Người mẹ dỗ nó: - “Thôi con ăn đi, con nhé, mẹ thương”. Nó không chịu, càng khóc: - “Nhả ra! Nhả ra! Trả đây!” Thì ra người mẹ cũng đói quá, trong khi đút cơm cho con, cầm lòng không đậu, đã ăn mất của con mấy thìa. Con đói quá, quá tham ăn, đòi lại mấy thìa cơm như một ám ảnh. Con cứ bắt đền, mẹ cứ cố gắng dỗ. Người đàn bà trẻ và nghèo ứa nước mắt, thẹn thùng vì đã để cho cái đói làm tổn thương cái tự trọng của một người làm mẹ. Em bé thì như bị một cơn khủng hoảng não cân, cứ ngoáy mãi vào chỗ đau thương. Người mẹ vô kế khả thi. Đứa con tiếng đã khản rồi, vẫn giậm chân xuống đất. Mười lăm phút ấy đối với tôi dài dằng dặc; cho đến khi tầu đã xịch bánh chạy, mà vẫn còn nghe em bé: “Trả đây! Nhả ra!”.

Năm 1945, nạn đói khủng khiếp ở miền Bắc. Người chết như rạ ở gầm Cầu sông Cái, ở các lề đường Hà Nội. Cái xã hội cũ nó tàn ác đến thế là cùng. Người nào đi ăn yến cứ ăn, gặm chưa hết một miếng thịt đã bỏ vào đĩa xương để gắp miếng khác; người nào chết đói cứ chết, lăn ra như chuột. Bữa ăn, chúng tôi phải đóng cửa lại. Ăn như ăn vụng! Ăn như là mình giành mất cơm của người chết đói. Chúng tôi thuê trọ trên một căn gác phố Hàng Bông, quen thân hai ông bà dưới nhà cũng ở thuê, có cửa hàng bán mũ bậc trung, vợ chồng hiền lành, biết phải. Một buổi sáng, tôi trên gác xuống, nghe ở nhà dưới đang la om. Tôi nhìn ra trước cửa, thấy một em nhỏ con trai độ mười tuổi đang dán mình vào phía ngoài một bên khung cửa kính bày hàng. Em trần truồng như một con nhộng, không có một tý thịt nào nữa, chết hết cả người rồi, chỉ còn hai con mắt. Không hiểu em từ góc phố nào đến, mà nhất định đi vào trong nhà này, để xin một ít cháo chăng. Có lẽ em không còn thấy đây là cửa kính, em cứ đi vào, bị cửa kính chặn lại đứng sững; nhưng em vẫn bị hút bởi cái sống ở bên trong, cứ dấn mình vào gương. Người ta la mắng đuổi em đi, quát nạt thật to và lâu để cố thủng vào tai em, người ta kiêng, người ta ghê sợ, coi em như quỷ nhập tràng; em, em của tôi, mặt em cũng thông minh và xinh đẹp, nếu em no. Mười ba năm từ ấy đến nay, tôi vẫn còn nghe tiếng la thét đuổi em bé. Em như một con ruồi mắc vào kính tủ, ruồi mắc từ trong ra, em thì mắc từ ngoài vào; không có lòng thương xót nào có thể cứu em, vì người ta bó tay ngao ngán trước cái chết đói kinh khủng, mênh mông. Giữa đời sống hàng ngày, có những bức tường thuỷ tinh dày ngăn cách; những người hay “thương vay” như tôi, thi sĩ, đành giương đôi mắt ếch nhìn đồng bào mình chết qua tường kính, mà không nhắc chân động tay cứu giúp gì được!

Đấy, cái xã hội cũ có ba em bé kia nó tốt đẹp như thế đấy! Tôi còn muốn thêm một em bé thứ tư. Lúc tôi lên chín tuổi, do nghịch cảnh gia đình phong kiến tôi phải sống xa má tôi, mà ở với thầy tôi. Bên ngoại cách bên nội độ vài cây số; lâu lâu tôi trốn về thăm má cho đỡ nhớ thương. Một buổi chiều, tôi trốn về thăm má; má đang bận vội đi chợ, má cho tôi bốn đồng tiền ăn ba [2] , rồi để tôi đi. Tôi ra khỏi nhà má, lê từng bước một, đi dọc ngược theo con sông Gò Bồi mà trở về nhà thầy. Buồn quá. Tôi thấy buồn mang mang mà không hiểu được. Tôi đứng lại bên bờ sông, nhìn con đường, nhìn các rặng tre, nhìn dòng nước, nhìn trên mặt sông Gò Bồi nắng xiên khoai vàng úa; tôi thấy như cái gì cũng không biết để làm gì cả; và đứa trẻ con chín tuổi bèn cầm bốn đồng tiền trị giá mười hai đồng kẽm, ném xuống mặt sông, mặc dầu “mười hai đồng” lúc đó có thể mua những mười trái ổi.
 
T

tranquang

Tiếng đoạn trường của văn học

Lớn lên đi học đến thành chung, rồi đến “tú tài”, tôi yêu thơ vô hạn, rất mê thích văn học. Những điều kiện của gia đình và xã hội đã làm tôi buồn sẵn, lại học vào một nền văn học nặng buồn bã, than thở, bi quan. Ở lớp nhất [3] , thơ Tản Đà đã ru tôi, nhưng cũng để lại cho tâm hồn tôi một vị đắng: Gió hiu, trăng lạnh, tiếng ve sầu. – Ếch kêu đầy phố, tiếng xe hơi. – Vèo trông lá rụng đầy sân… tất cả mọi sự chẳng qua cũng vèo! Tôi thuộc nhuyễn bài thơ Đoàn Như Khuê: Biển thảm mênh mông sóng lụt trời. Em thiếu niên mới chớp mi mắt nhìn ra cuộc đời, đã thấy một rèm giọt lệ! Vào năm đầu bậc thành chung [4] , tôi nhìn miệng ông giáo quốc văn đọc, say mê uống từng lời du dương êm ái: “Giả sử ngay khi trước, Liêu Dương cách trở, duyên chàng Kim đừng dở việc ma chay…” [5] . Sao mà văn thơ cứ tiếc nuối một cái gì; có một cái gì bình rơi gương vỡ, rụng cải rơi kim ở trong văn học!

Đồng thời, Tuyết hồng lệ sử dịch của Từ Trẩm Á mê lịm tôi trong những điệu ca từ thật là réo rắt, tất cả quyển sách là một cuộc nhặt hoa rơi, chôn hoa rụng, khóc hoa tàn! Lớn thêm vài tuổi, văn học nước Pháp bắt đầu huyễn diệu tôi với Cái Hồ của La-mac-tin:

Ừ rồi cứ trôi đi mãi mãi
Trong đêm trường trở lại được nào!

Tôi đã bắt đầu có ý thức lừng khừng đứng lại không chịu đi, trong lúc ngoại vật và thời gian thì cứ đẩy cho con người mất hút vào vĩnh viễn. Bấy giờ trong tôi có hai lực lượng: một mặt, tuổi thanh niên đưa đến cho tôi những luồng máu nóng rực, say mê, hăng hái; một mặt xã hội phong kiến, đế quốc cùng với hệ thống tư tưởng và văn hoá cũ chụp lên tâm trí tôi một lớp buồn sầu ảm đạm, càng học lên nhiều, càng bi quan, bế tắc. Tôi thấy trong tôi ào lên một nguồn thơ sôi nổi, mới mẻ: nhưng tôi vừa tập tễnh đến ngưỡng cửa của làng văn, thì La Bờ-ruy-e (La Bruyère) [6] đã lắc đầu niêm yết một câu bất lực: “Tất cả đều đã nói cả rồi, và người ta đến quá muộn, từ bốn ngàn năm nay mà đã có những con người, và họ suy nghĩ”. Phương ngôn Âu Tây cũng nói: “Không có cái gì mới ở dưới mặt trời”. Trước tôi một trăm năm, thi sĩ Muýt-xê (Musset) đã kêu lên: “Ta sinh ra muộn quá trong một thế giới già quá chăng?”. Trước tôi năm mươi năm, thi sĩ Véc-len (Verlaine) cũng lại kêu lên: “Ta sinh ra quá sớm hay là quá muộn? Ta đến trong đời này để làm gì?”. Mộng Hà, nhân vật chính của Tuyết Hồng lệ sử và Ngọc lê hồn, hay sầu, say, và thổ huyết, đã tự tóm tắt tâm hồn bằng ba bước: uống rượu xong thì “ngà ngà mà say, ngây ngây mà sầu, rồi lại rầu rầu mà khóc”. Rơ-nê (René) [7] , ông tổ của Mộng Hà ở Pháp, thì đi giữa mây, sương, gió, bị ám bởi con quỷ của trái tim “nó là một con rắn tự nhai mình”; Véc-te (Werther), [8] ông tổ xa hơn của Mộng Hà ở Đức, thì dùng súng lục tự tử vì không lấy được một người đàn bà đã hứa hôn với người khác trước khi gặp anh. Thật đúng với câu thơ Nguyễn Du:

Ma dắt lối, quỷ đưa đường,
Lại tìm những lối đoạn trường mà đi!

Từ 1934 về sau, những sách tôi đọc nói sự cùng đường một cách tinh vi, sâu sắc hơn; nó cũng không còn là sự lãng mạn ít hay nhiều thơ mộng nữa, mà là một sự bi quan có triết lý. Những điều tôi thu hoạch được, góp chắp cổ với kim, đông với tây, chứng minh trước trí tuệ một bài toán dẫn đến số không. Bô-đơ-le (Baudelaire) kêu thét lên như đang bị cháy nhà, hay lửa cháy vào người:

Ôi đau đớn! Ôi đau đớn! thời gian ăn cuộc sống!

Một cụ dạy chữ Hán ở trường “tú tài” giảng cho tôi nghe một bài Sám dâm văn (răn hối cái dâm) và nói: Lúc xưa có một người mê sắc quá, đã tự chữa cho mình bằng cách: hễ nhìn thấy một người đàn bà đẹp, thì tưởng tượng trước mắt người đàn bà ấy khi chết, dòi ăn bọ đục, và chỉ còn là một bộ xương, một toạ cô lâu (cô lâu mộng), tức khắc “bệnh Tề Tuyên hết nổi lên đùng đùng”! Có cái “nhân văn” gì mà tàn nhẫn như thế? Hăng-ri đờ Rê-nhi-ê (Henri de Régnier) [9] chưa đến nỗi nghĩ như anh nọ, nhưng nhẫn tâm có kém gì! Trong bài thơ “Kinh nghiệm”, đại khái nhà thơ nói: Tôi đi trên bờ gành biển; phía trước tôi có đôi trai gái đang tự tình, họ đi xa dần, đắm đuối trong mê ly, thề hẹn muôn điều tốt đẹp… Nhưng tôi, tôi biết “cái chữ kết thúc của giấc quái mộng tầm phào”! Có thể, trong xã hội tư bản, ông đã từng phụ nhiều người và bị nhiều người phụ lại, có thể ông không thấy vợ ông là đáng yêu nữa, nhưng sao ông lại tổng kết vội vàng và ác ý như vậy? Sao lại lấy con mắt của người già tuổi, già lòng mà nhìn những bạn trẻ đang yêu mến, tin tưởng vô cùng? Nếu nhà văn có tinh thần trách nhiệm hơn, thì đời nào lại đi dạy cái chán chường như thế?

Vận mệnh con người không biết tới đâu; đến vũ trụ cũng không biết tới đâu. Một nhà triết lý chết trẻ, đầy lòng thương yêu con người như Guyô (Guyau) [10] , nhưng không cất mình ra khỏi được hệ thống tư tưởng của những giai cấp suy tàn, cũng đã làm cho tôi tái tê cả cõi lòng, khi ông tả cái đẹp, cái mạnh của biển lớn mênh mông, buồn rằng tất cả cái năng lượng vô vàn kia cũng chỉ còn một ít bọt sóng cho gió bay tung, và hạ một câu: “Trái tim của quả đất đập, không hy vọng”.
 
T

tranquang

Đường về thu trước xa lăm lắm…

Dưới những ảnh hưởng gia đình, xã hội và văn hoá như vậy, những bước đường tư tưởng của tôi trước Cách mạng là những bước sờ soạng, lưu lạc, thương đau. Tôi chưa hội ý với các bạn thơ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, v.v… nhưng có lẽ, ở đây, tôi cũng nói, bằng những khía cạnh của tôi, cái tình trạng chung đau khổ tinh thần của các anh, khi lạc đường quần chúng, khi chưa tìm thấy ánh sáng của Đảng.

Văn hoá cũ với phương pháp tư tưởng “siêu hình” (métaphysique) của nó, dắt tâm trí tôi, từ khi nhỏ đến lúc lớn, vào một con đường rút vào trôn ốc thật là tắc tị! Tự nghĩ mình là một kẻ tài tình, một “tài nhân” biết yêu cái đẹp, quý cái hay, trọng cái phải, và lại còn tạo ra cái hay, cái đẹp là đằng khác, tôi và hàng vạn học sinh, nghệ sĩ, trí thức khác tự đặt cái tôi như một thực tại bất di bất dịch, tự đề cao cái bản ngã, coi nó là một tuyệt đối.

Tôi là tôi, là khác với người khác, là mục đích, là cứu cánh. Vì vậy nên hai người yêu nhau, mà

Em là em, Anh vẫn cứ là anh
Có thế nào qua Vạn lý Trường thành…

Đã dựng cái tôi lên sừng sững như một Hi Mã Lạp Sơn, thì tự khắc cô lập mình, không hoà nổi mình vào với tạo vật, thiên nhiên, vào với nhân quần, xã hội: cái hình bản ngã mang cái nghiệp của nó, là cái bóng cô đơn. Gió, trăng, hoa, cỏ,

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp [11]
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay [12] ,

trong phố chật, giữa chợ đông, ở đâu cũng thấy được mình là lẻ chiếc một mình. Luôn luôn thấy rợn ở trong hồn một luồng gió heo may lạnh toát.

Muốn đóng cái tôi như một cái cọc cố định, vĩnh viễn ở trong đời sống, cho nên khi thấy ngoại cảnh thay đổi, thì cuống cuồng lên. Nhà triết học tư sản Pháp Béc-xông (Bergson) phân tích rất tinh vi, tế nhị rằng cuộc sống là chuyển động, là đổi thay, nhưng lại không muốn thấy quá trình biện chứng và lịch sử, nghĩa là tiến bộ của sự vật; học mót của Béc-xông, tôi ngoáy sâu vào nỗi thay đổi: Cái bay không đợi cái trôi, Từ tôi phút trước sang tôi phút này, nhưng mù mịt không thấy được sự thay đổi biện chứng và tiến bộ, chỉ thấy đổi thay là nổi nênh, trôi chảy, xiêu đổ, tan tác, từ ly! Rồi đâm ra “vội vàng”, “giục giã”, sảng sốt. Trong khi đó, thì những bài hát chiếu bóng, những đĩa hát tiếng Pháp đưa sang, rót vào tai óc tôi những ý niệm đại loại như:

Tôi mơ một bông hoa
Không bao giờ chết cả…
… Nhưng nó khờ dại quá
Giấc mộng của tôi mơ.

Cứ mỗi lần hát bài này, thì lại như ai nghiến trong lòng, ứa nước mắt.

Chỉ thấy cuối đường là già, là chết, nên lần chần không muốn bước; phía trước đã cụt đường vậy, không đi tới được nữa, bèn thoái lui, ngoảnh lại đi về phía sau. Tâm hồn cứ phóng ra cho thật xa, cho thật vu vơ, cho thật viễn vọng… Xa, và Xưa! Nhiều thi sĩ mơ mộng thuở những ông nghè vinh quy cưỡi ngựa, Quân hầu reo chuyển đất, Tung cán lọng vừa quay [13] ; chúng tôi cứ đi ngược thời gian, bới tìm những gì bụi bặm đâu đâu trong ngày tháng cũ. Chế Lan Viên, nhà thơ 16 tuổi, đã diễn tả rất tài tình cái tâm trạng đó:

Đường về thu trước xa lăm lắm,
Mà kẻ đi về chỉ một tôi…

Nếu yêu một người, thì cứ muốn chiếm lấy tất cả người ta, bắt người yêu phải phụ thuộc vào cái tôi của mình, truy lĩnh một cách đau ốm cả tuổi nhỏ của người ta, cho nên rất động lòng khi tìm thấy cái trường xưa, người yêu học từ lúc còn bé xíu! Ôi! con đường trôn ốc, càng đi càng rút mãi vào chỗ thuỷ tận sơn cùng!

Ở chỗ tận cùng cheo veo đó, Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề; cái tôi thu lại chỉ bằng đầu một mũi kim, và qua vạn trùng đại dương, lên tiếng gọi kêu cứu tuyệt vọng:

Giơ tay ta vẫy ngoài vô tận,
Chẳng biết xa lòng có những ai! [14]

Đối với cái xã hội trái ngược, tàn nhẫn quanh mình, tôi chỉ biết lấy một lòng thương mênh mang, đau đớn; luôn luôn nghĩ đến vấn đề đau khổ của con người, tôi không có cách gì giải quyết được, đành rải đi những Phấn thông vàng, mong xoa dịu những nỗi khổ một phần nào!... Tôi đã diễn tả đúng cái hoang mang trước xã hội bằng hình ảnh:

Thuyền tôi không lái cũng không neo,
Trên biển đau thương dạo cánh bèo;
Trên biển đau thương đi lặng lẽ,
Thuyền tôi không lái cũng không chèo…

Đối với nghệ thuật, tôi say mê, quý trọng, nhưng tại sao tôi thấy ngoài xã hội coi thường, coi khinh. Ngay từ bé, đứng nghe một người mù dắt em con gái nhỏ, gẩy chiếc đàn bầu, hát những bài ca Huế rất mực là hay và xin từng đồng xu, tôi đã chạnh lòng nghĩ đến thân tôi: “Nghệ thuật nghèo hèn, hay là Người mù hát dạo”. Một người thi sĩ, trong xã hội Pháp thuộc, ai quý trọng? Có tài như Tản Đà, cũng đến nỗi phải bói số Hà lạc để sinh nhai. An-phông-xơ Đô-đê (Alphonse Daudet) [15] vẽ một người có óc vàng, phải nạo óc ra mà bán; tôi nghĩ truyện một “Người lệ ngọc”, khóc nước mắt ra thành ngọc để độ nhật, đến lúc lệ cạn, phải châm gai vào mắt cho lệ ngọc cố rơi ra! Bởi thấy những người tài tình ở trong đời bị thiểu số và bị khinh thường, tôi nghĩ một bài văn để “Chiêu tài tử”, gọi nhau từ xưa đến nay lại, đặng tri âm với nhau, thương lấy nhau. Khi nghệ thuật không có lý luận cách mạng soi đường, không có quần chúng nuôi dưỡng, nó cầu bơ cầu bất như thế đấy!

Đến khi ách Nhật thuộc quàng thêm vào cổ, tư tưởng tôi càng ngày càng bi. Tôi cố bám lấy lập trường tiểu tư sản đứng giữa của tôi: một mặt không hề chịu đi thi tri huyện làm quan, ghét sự buôn bán, sự “làm giàu”, lánh xa bọn ăn trên ngồi trốc của xã hội; phản đối những người làm thơ truỵ lạc, viết văn ca tụng thuốc phiện; đòi hỏi sự lành mạnh, sự sáng sủa trong văn học; một mặt không biết, không dám đi với quần chúng cần lao, nghèo khổ; tôi đứng giữa, giữ một thứ “trong sạch” tiêu cực, của những kẻ “tài tình là luỵ muôn đời”. Từ trước, chỉ biết buồn đau, chứ chưa hề viết một câu khinh bạc đối với cuộc đời, nhưng đến năm 1942- 43, tôi đã cười mỉa tạo vật cứ lặp đi lặp lại mãi, người con gái lấy chồng, đẻ con, lại lặp lại cái sự yêu con… Năm 1943- 44, ở trên cái gác Hàng Bông, tôi chạy buôn chợ đen thì không buôn được, viết văn thì cứ nói mãi cái buồn cũng hết chuyện, tôi ngồi giở quần áo cũ ra vá giữa một bóng chiều thu đông lạnh và héo xám như hoa khô. Đấy, thưa những ai hiện nay còn cao đạo và còn tự cho cái tôi của mình là ông trời, cái tôi cũ nó vinh quang như thế đấy!

Ôm mãi cái tôi mà lặn ngụp trầm luân mãi với nó, tôi đi đến chiêm ngưỡng nụ cười của đức Phật, sờ soạng một cách giải quyết nào đó trong “sắc sắc, không không”. Tại vì, mới bước vào tuổi thanh niên, tôi đã đọc nhà thơ lớn Ba Tư Ô-ma Kha-y-am (Omar Khayam): - Cái bình thon thon kia, xưa là một người đàn bà có lưng ong rất đẹp; hoặc: Ta đừng dẫm hòn đất nhỏ nọ, xưa đó là con mắt của một người… Những hình ảnh nghệ thuật quá hay đó lặn sâu vào thâm tâm tôi, bây giờ lại nổi lên. Tại vì, trước tôi, một người rất tài hoa, rất thông minh, mà tôi rất phục, như Thánh Thán, viết văn phê bình Tây Sương ký có khí có thế như vậy, mà cuối tập Mái Tây, lại lấy kinh nhà Phật để chú các câu thơ; tôi đọc chương Kinh mộng cuối cùng, chỗ Quân Thuỵ đi ra kinh để thi, nằm mơ thấy Oanh Oanh chạy dõi theo mình, mà Thánh Thán bình luận, nói cái giác ngộ về sự “chiêm bao”, bỗng nhiên tôi lạnh rùng cả linh hồn: thì ra cả cái tình yêu kia đã làm mình mê mệt từ đầu sách đến giờ, vốn chỉ là mộng mị, mộng mị!...

Không có con đường để giải quyết thoả đáng cái tôi, tôi bèn từ chỗ mài nhọn sắc cái tôi như nữ thi sĩ An-na đờ Nô-ay (Anna de Noälles) [16] muốn tự tạo mình thành “sinh vật độc nhất vô song, không gì thay thế được”, từ chỗ quá khích này, tôi sang chỗ quá khích khác, hai thứ đều duy tâm cả, là tôi rất cảm ơn nhà tôn giáo Ấn Độ Cơ-rit-na-muýc-ti (Khrisnamurti) [17] trỏ cho tôi con đường huỷ diệt cái tôi.

“Một đêm sao” [18] nằm nhìn lên trời, tôi diễn tả cái cảm giác cô đơn cùng cực: “… Tuồng như tôi đã trôi giạt trong không rộng, và hai mắt tôi đã rời ra xa cách tôi; và chính hai mắt cũng rẽ nhau không song song nữa, lưu ly thất lạc mỗi chiếc một đường”. Cuối bài, tôi kết thúc: “Ta nguyện thành một đợt sóng ở giữa đại dương, một hạt bụi trong bãi cát, một bánh xe khi trời chuyển pháp luân. Khi gió dấy lên, khi nước cuộn, ta lăn quay trong tay của chúa đời. Làm gì có cái “ta”! Đó là ảo ảnh của tuổi trẻ; đó là nhầm lẫn của chúng sinh ham sống…” Thế là tư tưởng của tôi, cuối một con đường dài mười lăm năm đi tìm chân lý, đã đến câu ca vọng cổ rẻ tiền: - “Thà rằng thành chim hoá đá, vẩn vơ nơi núi Sở sông Tần…”

Trong khi quần chúng càng ở dưới ách Pháp Nhật càng cùng khổ và đã bắt đầu chết đói, thì người trí thức, người nghệ sĩ ở tôi sa lầy trầm trọng vào cả một hệ thống tư tưởng cũ như vậy, nó là một tạp-pí-lù tư tưởng của phong kiến, tư sản và tiểu tư sản; tôi cứ ngồi vá áo và phát ra những tiếng kêu đau đớn xé ruột xé gan. Tôi càng nghĩ suy, càng va đầu vào mâu thuẫn. Tâm hồn, trí tuệ tôi là một con chim lồng mà không tự biết, thấy mình có động cánh, thì tưởng mình bay; cứ lấy trái tim đập vào cửa “vĩnh viễn”, của “vô cùng”, kêu khóc: “Mở ra! mở ra cho tôi”, nhưng nó không mở ra bao giờ, vì làm gì có thứ cửa cố định, siêu hình ấy mà mở!

 
T

tranquang

Trong khi âm cực, dương hồi…

Đến hiện nay mà còn có những người tự gọi là suy nghĩ, lại dựa vào cớ này cớ nọ để dè bỉu Liên Xô, dè bỉu Cách mạng do giai cấp vô sản dẫn đường, tôi là một người đã nhiều đau khổ bản thân, tôi thấy những kẻ ấy không biết điều thái quá! Nếu không có Cách mạng tháng Tám đến lôi bật tôi ra khỏi cái vũng lầy quằn quại, thì sau 1945, chắc tôi không còn có thể tiếp tục ngồi xỏ kim vá áo một cách “trong sạch” như thế mãi; mà một nữa là tôi đi vào truỵ lạc, bán văn buôn chữ, sa đoạ thành bồi bút chính trị; hai nữa là tôi hoá điên; chứ thế tất sự lửng lơ không thể kéo dài quá một mức nào đó được.

Những thiên tài văn học cũ, dù sự nghiệp trước tác rõ ràng làm giàu tâm hồn tôi vô hạn, và dạy cho tôi nhiều vô cùng về con người và cuộc sống, nhưng tất cả những trang rất mực tài tình đó đều không đập phá gì hộ tôi được cái nhà tù tư tưởng siêu hình, vì chính họ cũng không tự phá nổi cho họ.

Cụ Võ Liêm Sơn, tác giả thiên tiểu thuyết đầy ý tốt nhưng bi quan Cô lâu mộng [19] , đã xua tay rất đúng, “lạy cả nón” cái xã hội cũ:

Thôi thánh hiền,
Thôi tiên phật,
Thôi hào kiệt,
Thôi anh hùng!

Nhưng bài ca cảm khái của cụ thiếu hẳn một nửa. Vâng, âm cực thì dương hồi, tất cả những vị trên đây không cứu gì cho tư tưởng tôi được; duy ngày 19 tháng 8 năm 1945, có quần chúng, có Đảng Cộng sản, có chủ nghĩa Mác-Lênin áp dụng vào hoàn cảnh một nước nông nghiệp thuộc địa, có Cách mạng tháng Tám, em của Cách mạng tháng Mười, đã cứu tôi và cứu tư tưởng của tôi. Rõ ràng là từ trước, tôi mắc kẹt nửa người vào một cánh cửa mở đóng lừng khừng, cửa cứ nghiến, tôi cứ kêu vô ích và thất thanh, cầu cứu khắp các thứ sách vở trên đời ngoài sách vở Mác-Lênin, nên không đi đến đâu cả. Quần chúng lao khổ, rách rưới, chết đói đã đứng lên theo Đảng của giai cấp vô sản, lôi cuốn cả toàn dân tộc, đạp tung cánh cửa lừng khừng của lịch sử, tự cứu mình và cứu hàng vạn những nghệ sĩ, trí thức chết kẹt như tôi. Như vậy mà bảo tôi quên ơn, thì quên làm sao được?

Những vấn đề mâu thuẫn tích luỹ hàng trăm, ngàn năm, quần chúng vượt bậc giải quyết, Đảng của giai cấp vô sản giải quyết. Trước hết chưa giải quyết những đau ngứa phiền toái của tôi, mà hãy kéo tôi đứng lên, gọi tên thật của tôi là một Con Người, xoá trên trán tôi cái vết sắt nung của thời nô lệ, trả cho tôi một Tổ quốc, một dân tộc, cho tôi một ý nghĩa của cuộc đời. Từ trước, học tập một nền văn học Âu châu vào hàng rực rỡ là văn học Pháp, tôi đã nhận thấy đại khái trong đó, trên nét lớn, thời kỳ cổ điển thì tìm chuộng lẽ phải (la raison) thời kỳ lãng mạn thì tìm chuộng tình cảm (le sentiment), đến thời kỳ sa đoạ tiếp theo, nhiều trường phái văn học lại tìm chuộng cái phần thấp của con người, là cảm giác (la sensation). Cuối thế kỷ mười chín, và nhất là sang thế kỷ hai mươi, những “nhà văn” tư sản Pháp đủ các cỡ đi xục vào cái mũi ngửi, cái lưỡi nếm, cái mắt nhìn đường nét sắc màu, coi người ta là một cái túi để đựng các thứ sướng vui, đập vào những phần sơ đẳng nhất, con vật nhất của thằng người; và họ đầu tư nhiều nhất là vào những xúc cảm sinh dục! Cuối thời kỳ thứ ba này, văn học tư sản Pháp không có thời kỳ thứ tư nào để mà đi nữa. Cái bí đường của nó nhập cảng sang Việt Nam, “nhà văn” không còn thể thống gì sốt, lăn vào bàn đèn làm một con thiêu thân chán chường và ác khẩu; văn học không còn có tư tưởng, một số “nhà văn” ba hoa bán trời không văn tự, nhưng thực chất là muốn ăn ngon, chơi sướng mà lại rất nhác lười! Những người còn biết tự trọng và tiếp tục tìm chân lý của cuộc đời, thì loay hoay mãi cũng không thể nào giải quyết bằng “tinh thần” được.

Cách mạng đến! Cách mạng Việt Nam mang tới cái mà văn học tư sản Pháp không có nổi, là sự hành động (l’action). Không phải cái thứ “hành động để mà hành động” (acte gratuit) của Ăng-đơ-rê Gít (André Gide), mà hành động cách mạng, hành động cùng với quần chúng, hành động có mục đích và có hiệu quả. Những ngày Cách mạng tháng Tám, tôi cùng bao nghệ sĩ, tri thức khác say sưa mỗi người một việc, ngày đêm công tác. Hoạt động, công tác cách mạng đã giải quyết sự hoang mang vô bổ của trí tuệ tôi, nhúng trí tuệ tôi trở lại trong cái ý nghĩa cơ bản của sự lao động. Thực dân Pháp đánh Nam Bộ, rồi toàn quốc Kháng chiến, Đảng trao nhiệm vụ giết giặc cứu nước cho ngòi bút tôi. Tôi rộng mở bước vào Kháng chiến trường kỳ, và tư tưởng của tôi còn gặp gỡ, trải vượt nhiều chặng đường xuống lên không phải là đơn giản…



Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông

Muốn tự công bằng với mình, tôi phải tự nhận cái ưu điểm có hệ thống của tôi, là ngay từ nhỏ, do là con một ông đồ nho nghèo mấy đời, lại là con của má tôi là một người vợ bé, do sớm bị áp bức trong gia đình và sớm được biết cái nghèo túng, và do cố gắng suy nghĩ bản thân, tôi có một lòng thương người yêu người tràn ngập, mặc dầu có đượm một màu sắc không tưởng. Khổ buồn từ bé, tôi luôn luôn nghĩ đến vấn đề đau khổ của con người; tôi dám cả gan viết những câu như:

Cho tôi đau mà bớt khổ loài người,
Tôi nguyện sẽ chết trên cây thánh giá… (1938)

Những khi tối đen bế tắc, cô đơn đến ghê lạnh, tôi vẫn thấy một điều mà tôi không thể từ chối được, là chung quanh tôi, vẫn còn có những con người: “Tôi như chiếc lá lo chuyện lìa rừng, buồn đời bé nhẹ; nghĩ đến muôn nghìn ức triệu lá bạn, mà lại phe phất với đời…” [20] . Cái tôi của tôi huênh hoang tự đại như một thằng bé con, nhưng nó vẫn còn ở trong hồn một điểm sống, một điểm sáng không tắt: “Về đêm, ta trèo ngồi trên đầu Trái Đất; thuyền ta nhịp, bơi qua các sao. Biển trời xanh đen, không thấy đầu đuôi, trên dưới. Ta buồn quá, muốn khóc; ta sầu cái sầu của vũ trụ, ta hận cái hận không gian… Trong cái đại dương vô liêu này, thôi chỉ là hư vô, là sức mạnh to lớn, gồ ghề, vô tri; bọn tinh đẩu làm gì mà xoay như thế? Tôi quay đầu lại nhìn các bạn vô số của tôi; chán nghĩ chuyện trời, tôi nghĩ chuyện người, và tự nhiên lòng tôi thấm thía yêu mến” (1939). Luôn luôn trong tôi có một sự dằng co như vậy; một mặt tư tưởng tôi học phải một nền văn hoá siêu hình, bị nó lôi theo xuống dốc và vào hũ nút; nhưng mặt khác, tôi vẫn đầy lòng thương yêu, và cãi lại: không thể chết hết, không thể mất hết được! đời vẫn cứ còn đây kia mà! Cuối Nhật thuộc, hai triệu nhân dân chết đói, tôi đã bị ngập đến tận cổ, nhưng nhất định tôi không chìm, tôi vẫn thở, tôi cố bơi, và tôi đã bơi đến với Cách mạng. Khi quần chúng cầm cờ đỏ sao vàng đi cướp lấy chính quyền vào trong tay, tôi thấy đó là điều tôi vẫn chờ đợi, thấy cuộc Cách mạng này là của tôi, không thể khác, không thể khác được!

Tuy nhiên, cũng như trong ái tình, yêu nhau rồi, nhưng không phải nhất đán đã hiểu nhau tất cả; càng yêu càng hiểu, càng hiểu càng yêu, bao gồm cả những lúc hờn giận không hiểu nhau, thậm chí có lúc “bằng mặt chẳng bằng lòng”, tệ hơn nữa, có lúc tưởng như ly dị nhau được! Một số người yêu Cách mạng, đến với Cách mạng, nhiều khi cũng thế.

Tôi hăng hái vào Cách mạng, vui sống với công tác, nhưng thực ra, đã ở với nhau, mà tôi mới khám phá ra Cách mạng dần dần… Vào làm Văn hoá Kháng chiến ở Thanh, đầu năm 1947, tôi bỗng mở quyển Lịch sử kỳ diệu của loài người [21] ra đọc. Quyển sách chưa phải đã là không có khuyết điểm, nhưng tôi đọc nó như người được bác sĩ mổ lấy cái màng che nơi hai con mắt. Tôi sướng quá! Tôi đẻ ra đã làm một tên nô lệ nhỏ, suốt đời sống trong gông cùm, dưới chà đạp, thấy toàn chuyện xấu xa tàn ngược, nên chi tôi đã cho đó là tất cả lịch sử của loài người. Nhưng không, loài người bơi qua biển máu, trèo qua núi xương, bị các giai cấp thống trị kế tục nhau coi là cái rác, cực nhục quá lắm, nhưng mỗi thế kỷ đều có tiến thêm trên đường giải phóng, đều có sáng thêm mãi ra, đều có nổi dậy quật cho bọn áp bức bóc lột ngã chỏng gọng, rơi xuống ăn bùn, và lấy máu trả đền nợ máu! Té ra nghìn triệu người nghèo khổ bị chết bao nhiêu lâu nay không phải là cỏ cây mục nát vô ích, mà là động lực căn bản của cuộc vươn lên vĩ đại. Ừ, dầu cho chế độ tư bản, khi nó rẫy chết, khi nó thành chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa phát xít, nó tàn ác bằng mấy những ngày cuối cùng của chế độ phong kiến, Hít-le đốt hàng vạn người Âu châu trong lò, Mỹ thả bom nguyên tử giết dân Nhật, nhưng nó nhất định cáo chung, đó là thắng lợi ghê gớm của loài người. Ở cuối quyển sách dày, có cái chương lớn về chủ nghĩa xã hội. Cái chương kỳ diệu nhất, đơm hoa kết quả của lịch sử kỳ diệu loài người! Thì ra từ nhỏ đến bây giờ, tôi bi quan tắc tị là vì vô minh, là vì dốt, vì không được hiểu, và cả không muốn hiểu! Chứ Mác, Lê-nin, Cách mạng tháng Mười và Liên bang Xô viết vẫn rờ rỡ chói lọi trước tôi; nhưng cái nghề đời là như vậy, phải có Hồng quân Liên Xô đánh tan đội binh Quan Đông của Nhật ở Mãn Châu, Cách mạng tháng Tám vũ bão lay cả người tôi, thì mới chọc thủng được con đường cho chân lý đến với tôi được!

Kỳ diệu thật! Tôi như vỡ lẽ ra hiểu tất cả! Từ trước tới nay, các tác giả lớn bé kêu khóc đời buồn, cuộc sống vô nghĩa, thế giới suy tàn… Pôn Mô-răng (Paul Morand) xách va-ly dán đủ các thứ giấy nhà ga đi chơi lắm nước về, thở hắt hơi ra, kêu: Chỉ trơ có trái đất! [22] Nhà văn Pi-e Lô-ti (Pierre Loti) [23] đồng thời là sĩ quan thuỷ quân Pháp, cưỡi tầu đi chu du hầu khắp thế giới, mà văn của ông cứ như một buổi hoàng hôn xám dài dặc, buồn thấm thía nhức xương; một con bò ở trên tầu của ông chờ ngày đem ra làm thịt, tiếng kêu thảm đạm; ông thương xót nó, trở nên đay nghiến: Thôi mà, những kẻ sẽ ăn ngươi, rồi họ cũng sẽ chết đấy mà! Sau chiến tranh 1914-18, Pôn Va-lê-ri (Paul Valéry) [24] nói một câu trứ danh: “Chúng tôi đây, những nền văn minh, chúng tôi biết rằng chúng tôi có thể chết”.

Các nhà văn tư sản Pháp trước chiến tranh 1914-18 và từ chiến tranh đó đến cuộc đại chiến 1939-45, kéo dài ở trong thơ văn họ một thứ buồn tận thế như vậy. Họ diễn tả rất đúng cái mốc meo cũ rích của thế giới tư bản và đế quốc chủ nghĩa; cái thế giới đó thì còn cái gì mới đem đến cho loài người nữa? nó chỉ tô hô ra một cái chán chường to lớn. Nhưng họ cũng diễn tả rất sai,− tôi chắc phần lớn họ là những đồ đệ vô tâm của chủ nghĩa “thành thật”, cứ có gì viết nấy theo cảm tính, chứ không phải họ bán mình cho bọn cá mập tài chính, − họ diễn tả rất sai khi họ vơ đũa cả nắm, cho rằng thế giới tư bản là tất cả thế gian, khi họ lấy cái buồn tận thế của tư bản chủ nghĩa điêu tàn mà phóng rộng bao trùm lên cả trái đất và vũ trụ. Có tận thế thật, nhưng chỉ là thế giới cũ tận thế; chứ còn thế giới mới đã xuất hiện lồ lộ ở Liên bang Xô Viết rồi! Chỉ nhầm lẫn − với một số người, thì là gian lận − có một chút xíu đó thôi: từ ngày 25 tháng 10 năm 1917, có đến hai hệ thống xã hội ở trên thế gian, nhưng văn hoá tư sản cứ làm như là vĩnh viễn duy nhất chỉ có một.

Thế mà khóc lóc rên kêu thảm thiết, làm cho số nhà văn Việt Nam, sinh trong nước thuộc địa của đế quốc Pháp, cũng nhầm, khóc theo. Tản Đà nói: Bác đã về thôi, đời đáng chán. Thế Lữ nói: Nhưng đến nay cô ấy đã phong trần, Vì trông thấy cuộc đời thô rõ quá. Huy Cận nói: Đời nghèo thế, chẳng dành tôi chút lạ. Tôi cũng nói: Cuộc đời cũng đìu hiu như dặm khách, v.v… Khi than “đời buồn, đời là bể khổ”, chúng tôi chỉ muốn vạch cái cuộc đời mà chúng tôi đang sống, nghĩa là cuộc đời tư bản chủ nghĩa mà thôi; nhưng chúng tôi vô minh, dốt, nên đem tất cả cuộc đời ra mà chửi một thể. Chỉ nhầm có một chút xíu đó, chỉ quên hai dấu ngoặc đơn, đáng lẽ phải chú thích: (đời đây chỉ là đời tư bản chủ nghĩa) mà hàng trăm nhà văn Việt Nam ăn sầu nuốt hận, phao phí rất nhiều tâm huyết của mình. Chứ nếu sớm biết chủ nghĩa Mác Lê-nin, thì xã hội tư bản chết đi, chúng tôi chỉ có vỗ tay mừng, chớ làm sao lại đi khóc đống mối!

Sức mạnh của một quyển sách như Lịch sử kỳ diệu loài người đối với tôi như vậy. Cuối năm 1947, làm ở Tiếng nói Việt Nam, tại ngoại ô thị xã Bắc Cạn, tôi lại được hiểu Cách mạng thêm một bước dài nữa, và căn bản. Tôi được đọc Những nguyên lý cơ bản về triết học của Pô-lit-de (Politzer) [25] . Từ Cách mạng tháng Tám trở đi, dần dần quan sát những sự việc quanh tôi, tôi cảm thấy một thế giới mới, một tư tưởng mới, một hành động mới, nhưng lộn xộn, chắp vá. Quyển Pô-lit-de đã cho trí tuệ tôi một cái xương sống. Nó vạch cho tôi thấy cái “tội tổ tông” của tư tưởng tôi trước đây, là phương pháp siêu hình, chủ quan, duy tâm; lấy mình làm trung tâm của cuộc sống và vũ trụ, coi cái tôi là một tuyệt đối bất di dịch, thì đồng thời cũng quan niệm sự vật và cuộc đời là từ xưa đến nay vẫn như thế, con người xưa nay vẫn thế, vũ trụ tuần hoàn lại chu kỳ quay về chỗ cũ…; quan niệm mọi vật cách biệt ra, không liên quan gì đến nhau, khoa học là khoa học, triết học là triết học; quan niệm đã chia ra thì chia ra vĩnh viễn và không thông với nhau được. Thuyền không giao nối đây qua đó, Vạn thuở chờ mong một cánh buồm [26] ; quan niệm sống là sống, chết là chết, hai điều trái ngược không bao giờ lại ở chung, Pô-lit-de kể rằng nhà tiểu thuyết Anh Hớc-bơ U-oen (Herbert Wells) sang Liên Xô, có đến thăm Ma-xim Goóc-ki và đề nghị với Goóc-ki lập ra một câu lạc bộ văn chương, trong đó người ta không làm chính trị. Dường như, nghe nói thế, Goóc-ki và các bạn ông bật cười, và U-oen lấy làm phật ý. Là vì U-oen hiểu và quan niệm nhà văn như sống ngoài xã hội, mà Goóc-ki và các bạn ông thì biết rằng trong đời, không phải như thế!

Quyển Pô-lit-de đã cho tôi một phương pháp tư tưởng khác hẳn. Tóm tắt lại, thì cũng có mấy chữ thôi: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử – ấy thế mà nó cách mạng cả thế giới. Khi nó đến với tôi một cách có lớp lang, hệ thống, lại như một người bạn chậm rãi phân trần sai, đúng, thì nó đích là “chiếc thuyền bát nhã” chân chính đưa trí tuệ tôi vượt biển vô minh đến bờ giác ngộ.

Như thế là trí tuệ tôi đã được phát động. Nguy hiểm nhất cho chủ nghĩa tư bản, là hạt giống tư tưởng Mác vào trong óc người và nẩy mầm trong đó. Trong ba bốn năm sau, tư tưởng tôi, theo quy luật của sự nẩy nở, tự nó một ngày một xé toang ra. Tôi hiểu Cách mạng, hiểu Đảng nhiều thêm. Một ngày một thấy mở rộng.

Lúc mới hơn hai mươi tuổi, mà tôi đã “Giã từ tuổi nhỏ” rất lâm ly; đến trước Cách mạng tháng Tám, tôi đã tự cho mình già, ngồi chằm vá áo. Nhưng từ khi biết chủ nghĩa Mác, tôi thấy mình được vào một lịch trình mới xuất phát, còn rất trẻ, tiến bộ đến vô cùng.
 
T

tranquang

Lại tìm những lối đoạn trường…

Tuy vậy, dù sao, tôi cũng mới giác ngộ trên lý thuyết. Có lẽ cái vui sướng lớn của tôi là tự nhấc ra được khỏi một hệ thống chết, mà vào một hệ thống sống, nghĩa là tự cứu được mình. Mà đến với chủ nghĩa xã hội vì mình, thì chóng chầy những đau ngứa phiền toái cũ lại phát ra.

Những năm 1951, 52, 53, sau thắng lợi chiến dịch Biên giới, cuộc kháng chiến của ta trên đà trưởng thành mạnh, phải vượt những khó khăn rất to lớn. Bấy giờ, chỉ phơi phới đứng trên lập trường dân tộc chung chung mà thôi, không đủ nữa. Kinh tế của ta còn rất ì ạch, thuế nông nghiệp chưa có, Chính phủ phải tạm vay, có những lúc đói to, những vùng thiếu muối; bấy giờ phải có cái dạ sắt gan đồng của anh công nhân, anh bần cố nông, và có cả cái chí phấn đấu của họ, nghĩa là phải có cái giai cấp tính của những người mất thì chỉ mất cái xiềng, được thì được cả thế giới, mới chịu đựng được gian khổ. Mà đó là nhược điểm sâu sắc của tôi. Các thị trấn “tươi” lâm thời xẹp kém đi, các cơ quan cứ rút sâu thêm vào rừng; tôi ngại quá!

Sớm nay ra khỏi u tì quốc,
Một chiếc xe nhanh đạp giữa đường…

Mặt khác, xã hội mới càng ngày càng rõ qui luật tư tưởng, qui luật tổ chức của nó; nó đấu tranh mạnh với xã hội cũ để cho bản chất mới của nó trưởng thành; nó chống chủ nghĩa cá nhân tư sản, chống cái tản mạn tiểu tư sản, chống tinh thần vô chính phủ; nó đòi hỏi ý thức kỷ luật cao với tập thể, tinh thần trách nhiệm đủ với công tác; nghĩa là nó tiến hành đấu tranh tư tưởng. Mà đó cũng là nhược điểm sâu sắc của tôi.

Và xã hội mới đòi đẻ ra thực sự rồi; nó không chịu “dân tộc chung chung” nữa. Nó cấp bách yêu cầu làm cái việc mà cách mạng tư sản Pháp đã làm từ năm 1789; nó đòi hỏi dân cày phải có ruộng. Đồng thời, Mỹ can thiệp ngày càng rõ mặt vào Đông Dương; những trận ném bom, những trận càn khốc hại; lưới gián điệp tung ra. Cuộc kháng chiến gay go đòi giữa ta và địch phải rạch ròi. Cuộc đấu tranh giai cấp dần dần phải quyết liệt. Mà đây càng là nhược điểm sâu sắc của tôi. Từ xưa, tôi cứ “thương người chung chung”. Tôi vẫn mơ ước một xã hội mà mọi người sung sướng; nhưng muốn đến đó, phải biết thương những con người cụ thể, phải có thương ai? ghét ai? phải qua con đường đấu tranh giai cấp để xoá giai cấp. Con đường có rất nhiều đau đớn, nhưng không qua nó, thì không đi được tới đâu. Sợ đi qua con đường đó, tức là tôi vẫn ôm cái xã hội chủ nghĩa không tưởng, cái xã hội chủ nghĩa làm sẵn từ trên trời rơi xuống.

Và một mặt khác nữa, càng đi sâu vào Cách mạng, sự sáng tác càng gian nan. Từ trước, tôi viết cho những người “có học”, tức là, trên nét lớn, những người từ tiểu tư sản trở lên trong xã hội cũ. Bây giờ, những con người “vô học” cũ, nhờ cách mạng, họ đã có học, họ đã đọc sách và họ biết cả phê bình nữa; họ yêu cầu phải nói đến họ, công nông binh; không có lý gì họ nai lưng ra đổ mồ hôi, đổ máu nhiều nhất, mà trên sân khấu của các tác phẩm, lại chỉ có những người khác. Những người “có học” lớp trước kia, bây giờ cũng đã thay đổi cả yêu thích cũ, chính họ lại cũng đòi hỏi nói về công nông binh. Mà đó cũng lại càng là cái nhược điểm rất sâu sắc của tôi.

Những nhược điểm rất sâu sắc chủ quan của tôi không đáp được những đòi hỏi gay gắt khách quan của kháng chiến, trong hai, ba năm trời, trong tôi có một cái gì cứ chùn dần, cứ cuốn lại. Ngoài mặt thì như không có gì xảy ra, nhưng ở chỗ tinh vi, kín nhẹm nhất, có một sự rút trốn. Cái chất hưởng thụ, cầu an tích luỹ trong thể xác và tâm trí tôi hàng mấy chục năm, nay làm thành một sức ỳ khó lay chuyển. Gian khổ, khó khăn không chỉ ở đằng xa, nơi quần chúng vẫn chịu và gánh mà đã đến đụng chạm ngay bản thân tôi; tôi không thể “kháng chiến vui vẻ, cách mạng vui vẻ” nữa. Tự tôi mình theo tinh thần của giai cấp vô sản, gay lắm! Tôi đâm ra hờn, tủi, dỗi với những người đấu tranh với tôi; tôi tự ái giai cấp, bám lấy các thứ chức tước, danh hiệu cũ. Sáng tác cái mới thường thường bị thất bại, tôi quay về dựa lưng vào các thứ “của chìm”: tác phẩm ngày trước của mình. Kỳ tình, tôi vẫn biết đứng chỗ cũ không thể được nữa; tuy nhiên, lại ngại sang đứng chỗ mới; tâm trạng tôi như người bị chẹt, tinh thần bất ổn, vẫn gần với quá khứ, vẫn xa vợi với tương lai. Cứ chạy sang bên này rồi chạy sang bên kia, thật là đau đớn.

Tôi không bi quan như xưa kia cho cuộc đời, tôi biết chắc là xã hội đang tiến mạnh; nhưng tôi tự bi quan. Khi người ta cảm thấy mình không tiến được nữa, người ta dễ oán hận, người ta ngậm ngùi. Tôi đâm rơi vào cô độc; có khi nằm ngủ, tôi thấy tôi vào thành Hà Nội mua đủ các thứ đồ hàng, nhưng độp một cái, địch đã biết được tôi, nó đuổi rượt và tôi chạy hộc tốc toát mồ hôi; mở mắt ra, mừng rằng mình vẫn nằm yên giữa cuộc kháng chiến, chẳng địch nào bắt mình được cả!

Ai giật mình rùng rợn khi nghĩ đến một vài cái lệch lạc, gò ép, “chụp mũ” phạm phải trong những lớp học tập chính trị thời Kháng chiến; nhưng tôi, tôi rất cảm ơn Chỉnh huấn, cảm ơn những đồng chí đã giúp tôi làm một cuộc vệ sinh lớn cho tư tưởng. Có thể họ đã cọ xát hộ tôi mạnh quá, đôi chỗ bị rách da chảy máu chăng − và tôi cũng có thể phạm như thế đối với họ − chúng ta dù có quá hăng, đôi khi dùng thuốc hơi mạnh, nhưng thuốc đắng vẫn cứ dã tật được như thường! Ở lớp Chỉnh huấn bốn tháng năm 1953 ra, tôi có thể tự hào rằng tôi đã phá được vòng vây luẩn quẩn của sự lừng khừng, và đã có trời cao biển rộng.

Bước đầu tuy chửa là bao,
Nhưng nghe đã rộng, đã cao vô ngần!

Tôi không tự ti nữa, mà tự tin mình, bởi tôi tin ở quần chúng, tin ở Đảng. Tôi thấy rằng Đảng, tức là chân lý. Chủ nghĩa Mác Lê-nin cũng như khí trời trong tốt; phổi ai hít thở được nhiều bao nhiêu, càng khoẻ mạnh bấy nhiêu; Đảng là ở mình. Ta không thể dối được mình, thì cũng không thể ở giả với Đảng; Đảng là hoàn toàn tự nguyện, tự giác. Các nhà văn rất thích sự chân thành, thì Đảng là sự chân thành.

Hai đợt đi làm đội viên phát động quần chúng giảm tô ở làng Còng (Thanh Hoá) và xã Cát Văn (Nghệ An) tiếp tục tái tạo tôi trong quần chúng nông dân. Từ thương người chung chung trước Cách mạng, tôi đã yêu thương những con người lao khổ nhất, xương máu nhất, chung chiếu rách với họ, chia mắm cà với họ, đứng trên lập trường của họ cùng họ đấu tranh: tôi đã bắt rễ vào đất của quần chúng.



Từ phen đá biết tuổi vàng, Tình càng thấm thía, dạ càng ngẩn ngơ

Tôi không dám nói đã biết được tuổi vàng, vì chủ nghĩa Mác Lê-nin có một con đường phát triển vô cùng tận. Tôi chỉ muốn nói càng ngày tôi càng yêu, hiểu Cách mạng tháng Tám, Cách mạng tháng Mười hơn. Mười ba năm sống trong chế độ mới của chúng ta, không thấm thía sao được. Từ một người nô lệ, từ một kẻ tù tư tưởng của văn hoá cũ, tôi đã thành một người tự do. Tôi không muốn cái xã hội đã bắt những em bé phải khóc vì buồn, những em bé đòi mẹ nhả cơm ra, những em bé chết đói bám vào cửa kính như ruồi, tôi không muốn nó còn quay trở lại. Ngòi bút của tôi nhọn, có thể góp sức cản đường nó. Khi nó lồng lộn đòi trở lại ở nước anh em Hung-ga-ri, tôi ở xa, vẫn biết mặt biết tên của nó. Tôi không thể phút nào quên được rằng nó còn ở trong miền Nam nước Việt thân yêu của ta!

Những em bé của chế độ ta đã no hơn, ấm hơn, chúng nó hát ca luôn miệng; và chúng nó thông minh, cái thông minh dũng cảm. Tôi coi chuyện em Ngọc như một trong trăm ngàn điển hình của các em đi kháng chiến. Ngọc làm liên lạc ở mặt trận, lúc đầu kháng chiến, bị thương. Bác sĩ phải mổ. Chị y tá thương em quá, ôm lấy đầu em, che mắt em lại. Em Ngọc nói, tỉnh táo: “Chị không cần phải che, hãy để cho em nhìn thấy vết thương của em.”

Ngọc muốn nhìn sự thật căm thù, không muốn trốn. Nhưng khi mẹ Ngọc hay tin, tìm đến thăm, thì Ngọc vẫn hãy còn nhỏ lắm, Ngọc thích làm nũng mẹ, đòi quà.

Chủ nghĩa nhân văn của chúng ta như thế đó. Một em liên lạc khác, không hơn mười ba tuổi, trong khi một toán quân ta, những năm đầu kháng chiến, rút lui lộn xộn, đã ở lại sau trên chiến địa, mò mẫm các bờ bụi, thấy một anh bộ đội bị thương nặng, nằm như người chết. Dốc hết toàn lực, bằng mọi cách, em cố cướp thời gian, cõng đưa anh về căn cứ, và đơn vị đã chữa được anh sống lại. Toàn đơn vị tuyên dương em, hỏi em vì sao đã cứu sống được một người, em trả lời: “Em sờ ngực anh thấy hãy còn nóng, em tiếc…”

“Em tiếc”, đó là chủ nghĩa nhân văn của chủ nghĩa Mác Lê-nin chúng ta!

Chúng ta không bao giờ coi một người còn sống là một “cô lâu mộng”, mà trái lại, chúng ta cố cứu sống lại những cái gì ngỡ là đã chết. Ví dụ như tư tưởng. Chúng ta rất muốn sống lâu năm, đem kinh tế, khoa học, y học để làm dài đời sống con người; nhưng chúng ta không chỉ thấy đời sống là một số lượng ngày khoái lạc cố đếm được càng nhiều càng hay. Chúng ta không quan niệm cái vĩnh viễn theo kiểu sợ già, sợ chết đó. Chúng ta là những người duy vật, nhưng đầy lý tưởng; chúng ta biết cái tinh diệu của đời sống là ở bên trong. Cái tôi của tôi, không cần và không nên huỷ diệt nó như vài nhà tôn giáo Ấn Độ quan niệm. Tôi vui sướng mang cái riêng, nhưng không tôn nó làm bạo chúa, mà hoà nó với cái chung; cái tôi kiểu mới này giàu và mạnh, sinh sôi nảy nở mãi đến hơi thở cuối cùng. Từ lúc hoà nó được với muôn người, tắm nó vào hành động cách mạng, thì nó thành bất diệt.

Vũ trụ của ta cũng vậy; nó không điêu tàn chút nào hết. Nó không quay luẩn quẩn, mà có một lịch sử, một đường tiến. Đầu tiên của loài người, vệ tinh xô-viết đã đem tin vui của Cách mạng tháng Mười vào trong vũ trụ. Con người, mà chủ nghĩa Mác Lê-nin hoàn toàn tin tưởng, đã bắt đầu ra mắt trên sân khấu của vũ trụ rồi!

Cái lạc quan không cùng của chủ nghĩa Mác Lê-nin đã rọi ánh thấu đáo vào tư tưởng tôi. Tôi rất biết rằng tâm trí tôi không phải chỉ có vui, mà luôn luôn có những mâu thuẫn mới, nảy ra trong đó, bắt tôi phải giải quyết. Khi chưa giải quyết được, thì ít hay nhiều, tôi còn buồn. Nhưng buồn chưa phải là bi quan. Mà nếu tôi có bi quan riêng tôi, thì mặc kệ! đời vẫn cứ có hướng lạc quan để tiến. Nhưng mà mình đã nhận định được rằng đời lạc quan tiến, thì mình cũng không có thể bi quan lâu về mình.

Cái vấn đề tư tưởng chính trong văn học là nhà văn có được một niềm lạc quan cách mạng về quốc gia dân tộc, về xã hội, về nhân loại hay không? Cái lạc quan này có đầy đủ lý luận khoa học, chứ không phải cuồng tín; nó dựa chắc chắn vào quần chúng và Đảng; nó không sợ đấu tranh. Do vậy, thực chất của vấn đề bôi đen, tô hồng, theo ý tôi, là vấn đề thái độ đối với Đảng của giai cấp vô sản. Hòn đá thử vàng của một người, trước hết vẫn là thái độ của người đó đối với địch, đối với ta, với những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.

Trên một con đường gồ ghề, có những người cùng đẩy một chiếc xe bò. Do bản thân chiếc xe bò sức chưa được mạnh − nó chưa phải là một chiếc ô tô − lại do khuyết điểm xếp đặt, lau chùi kém, nó còn đi cà rịch cà tang, và kêu cọc cạch cút kít nhiều quá! Có người nóng tính vừa đẩy xe bò vừa chửi; có những người ráng đẩy cho mạnh hơn, những người này thì thường ít hay kêu om mà gắng nghĩ cách chữa xe; có người buông xuôi tay ra mà đứng bên đường; có người lấy cớ xe sai, nhẩy phóc lên xe ngồi để người khác đẩy mình. Lại có đứa vốn không yêu xe, xúi người ta đến đánh anh cầm càng đằng trước. Ai có lý và ai có lực?

Nhà văn dù có tài mấy, mà như Ho-vơ Phát (Howard Fast) bỏ mặt trận của Đảng trong lúc gay go và địch đang lợi dụng khuyết điểm của ta để tập trung đánh ta, chỉ là một kẻ đào ngũ. Dù là Picátxô (Picasso), hoạ sĩ lừng danh thế giới, đồng chí Picátxô ngày 20 tháng 11 năm 1956, khi cùng chín đảng viên trí thức khác, nằm trong các chi bộ, Đảng bộ khác nhau mà đã gửi thư tập thể thẳng cho các Uỷ viên Trung ương đang họp Ban chấp hành, đòi triệu tập Đại hội Đảng bất thường nhân vì có việc Hung-ga-ri, và ngay hôm sau, thư và tên người đã thấy đăng trên báo tư sản; đồng chí Pi-cát-xô cùng chín đồng chí ấy đã được Trung ương Đảng Pháp công bố bản trả lời chính thức, đồng thời công khai phê bình trước Đảng và toàn dân về việc hành động một cách bè phái và vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ. Một thiên tài lỗi lạc đến đâu cũng không thể coi hơn giai cấp công nhân và Đảng của nó, hơn quần chúng nhân dân, hơn dân tộc. Trong những ngày Đảng Pháp bị bọn phản động tấn công điên cuồng, đồng chí Giô-li-ô Quy-ri (Joliot Curie) phát biểu: Chưa bao giờ tôi thấy tôi thực sự tự do như bây giờ.

Lẽ phải ở với những người dù nóng tính hay đằm tính, tích cực đẩy, chữa, lái chiếc xe bò. Lẽ phải, và cả sức mạnh, ở với những người lao động, xây dựng, chiến đấu.

Chúng ta từ một xã hội cũ và xấu thoát thai ra, nên chúng ta hiện nay vẫn đang còn hai bậc thang đánh giá: những người hưởng thụ nhiều thì ít hy sinh, những người hy sinh nhiều thì hưởng thụ chưa được mấy; chúng ta sẽ làm cho chỉ còn có một bậc thang công minh trong một xã hội không có giai cấp. Trong khi còn chưa đến đó, thì nhiều người vẫn còn lấy sự giành giật tối đa hưởng thụ làm lẽ sống của họ. Nhưng trên tinh thần, lúc nào cũng chỉ có một bậc thang cao cả: là hy sinh.

Sung sướng thay, vinh quang thay những đồng chí đã đến với Đảng từ lúc tối lửa tắt đèn xưa kia, những đồng chí khổ trước thiên hạ, sướng sau thiên hạ! Đáng kính yêu thay, quần chúng trung bình và vĩ đại, bao giờ cũng chịu thương chịu khó như một bà mẹ, có khi trồng cây mà bị bọn láu cá hái quả ăn trước!

Cách mạng tháng Mười đã 40 năm. Cách mạng tháng Tám đã 13 năm. Tôi có thể nói với Đảng của giai cấp vô sản và của dân tộc:

Lên non em cũng theo lên,
Xuống biển em cũng ngồi bên mạn chèo.

Không những ngồi bên mạn chèo, mà trong tay dù chỉ có một cái que cũng thọc xuống nước mà bơi, bơi đến Thống nhất Tổ quốc, Hoà bình thế giới; bơi đến chủ nghĩa Xã hội, bơi đến chân trời Cộng sản.

10-1937
 
T

tranquang

Thế nào là cái Mới?

Không say sưa vì danh từ


Trong nghệ thuật cũng như trong cuộc đời, chúng ta quý yêu cái mới chân chính, đón chào, mong đợi, cổ võ cái mới chân chính, và cả phấn đấu nữa để cho cái mới chân chính ra đời; chúng ta đứng về phe nó, khi nó đấu tranh với cái cũ. Cái mới chân chính là ánh sáng của trí tuệ chúng ta. Duy có một điều, là nó phải thực chân chính là cái mới.

Thật vậy. Chúng ta càng yêu cái Mới bao nhiêu, chúng ta càng muốn nó “thật vàng chẳng phải thau đâu”. Chúng ta không chịu làm những trẻ con bị nhầm vì những cái nước mạ loè loẹt. Chúng ta đã từng biết rằng những danh từ quý báu nhất, như chữ tự do (hãy nhớ đến cái “thế giới tự do” của Mỹ), như chữ cách mạng (Pê-tanh bán nước Pháp, mà tự cho là làm “cách mạng quốc gia”), cũng bị lộn sòng. Trong nghệ thuật, ai cũng muốn giật cái chữ “Mới” về phía mình, và ẩy cái tiếng “Cũ” về phía những người không đồng ý. Vậy cho nên, chúng ta muốn lột trần trụi ra để xem thực chất các quan điểm nghệ thuật, chứ chẳng tin ở cái nhãn hiệu, cái chiêu bài.

Thường, sinh ra trước trong thời gian thì gọi là cũ ; sinh sau trong thời gian thì gọi là mới. Như vậy, cái giá trị há chỉ vì ra trước với ra sau hay sao? Có những thanh niên cá biệt, tuổi tuy trẻ, nhưng tư tưởng rất lạc hậu; trái lại, có những người đứng hay nhiều tuổi mà tự rèn luyện theo cách mạng, tư tưởng rất tiền tiến. Trong nghệ thuật, theo ý tôi, nên nặng về phân biệt cái đúng với cái sai, cái hay với cái dở, nhiều hơn là tung ra những hình dung từ mới và cũ rất dễ mập mờ đánh lộn. Có cái cũ mà rất hay như những điệu dân ca mà chế độ phong kiến và đế quốc để rẻ rúng, mai một, nhưng ta nay “phủi cũ thấy mới”. Có những điệu nhạc giật gân và gọi dậy thú tính, của văn hoá tư bản Mỹ, mới toanh không giống nhạc của chúng ta một chút nào hết, mà thật là dở và xấu xa. Nghệ thuật chân chính không chịu kiếm ăn trong tính hiếu kỳ. Chúng ta lại còn chủ trương những tác phẩm mới của ta vẫn nối tiếp không đứt quãng với những truyền thống cũ, đã được quần chúng, đã được dân tộc lọc lựa và thử thách lâu đời. Không phải cái gì cũ cũng là già nua, tồi tàn, đáng vứt đi. Không phải cái gì mới cũng là đáng hai tay rước lấy.

Tuy nhiên, chúng ta vẫn rất cần thảo luận cho sáng rõ vấn đề mới, cũ. Vì đi tìm cái Mới là một nhu cầu sinh tử của nghệ thuật, đấu tranh cho cái Mới là một nhiệm vụ thiêng liêng của nghệ thuật. Tất cả vấn đề là ở chỗ: cái Mới là cái gì?



Xã hội cũ có cái gì là mới?

Mỹ học của giai cấp vô sản cũng đi tìm cái mới, mà mỹ học của giai cấp tư sản cũng đi tìm cái mới. Chính vì hai bên cũng đều có cái sự việc “đi tìm cái mới”, nên một số người nhầm lẫn lộn phèo, không phân biệt được mới với mới, tìm với tìm. Sự thực, cái mới mà chúng ta tìm, cũng như cách tìm cái mới của chúng ta khác hẳn với của mỹ học tư sản.

Xã hội phong kiến và đế quốc là một xã hội cũ rích, mệt mỏi đến tận xương tuỷ. Trong nước Việt Nam nô lệ trước Cách mạng tháng Tám, dù những thanh niên “như trăng mới lên, như hoa mới nở”, huyết khí hăng hái, cũng cảm thấy cái cuộc đời ao tù như nước đọng. Một không khí phai tàn, tha ma, nghĩa địa phủ trùm lên mọi vật; dù, theo luật tự nhiên, cây vẫn ra hoa, người vẫn đẻ con, mùa xuân vẫn đến, nhưng mà sao những tâm hồn trẻ nhất cũng cảm thấy buồn, chán, và chết trong các tế bào của mình. Một thi sĩ mười sáu tuổi như Chế Lan Viên thuở đó, đã thốt ra rất sâu sắc:

Trời hỡi trời! Hôm nay ta chán hết
Những sắc màu hình ảnh của Trần Gian.

Một thi sĩ như Huy Cận, thuở đó vào khoảng mười tám tuổi, đã phải vạch vôi vào trán xã hội:

Quanh quẩn mãi giữa vài ba giáng điệu,
Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người…

Tìm chân lý, tìm hạnh phúc trong cái xã hội đó, nhà thơ Lưu Trọng Lư phải than:

Tìm đâu cho thấy bóng chim hồng,
Chỉ thấy lưng trời một mảnh lông…

Nhắc lại như vậy, để thấy cái cũ rích của xã hội cũ. Tìm cái mới gì trong xã hội phong kiến, đế quốc đó? Lớp nhà văn, nhà thơ chúng tôi khi đó chưa giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lê-nin, chưa biết nhìn thấy cái mới, cái tương lai đang nằm trong quần chúng. Chúng tôi lặn chìm, bơi ngụp trong thế giới trị vì của cái cũ. Vì những lý do này hay những lý do khác, một số tác phẩm trước Cách mạng có đóng góp một phần mới đáng kể trong văn học Việt Nam, vấn đề này ta sẽ nghiên cứu sau. Nhưng căn bản vẫn là tìm một số “cách nói mới” để diễn tả cái cũ. Chúng tôi có “thành lập cá tính”, “phát huy độc đáo” trong một phạm vi nào đó thật. Để làm gì? Để nói cái cũ nó rúc xương chúng tôi, nó muốn đè chết chúng tôi! Riêng tôi còn quan niệm nhà thi sĩ, nhà nghệ sĩ là một người khách mới đến thăm một cái nhà cũ. Mang tâm hồn hồn nhiên, tươi rói như đứa trẻ con thấy cái gì cũng mới lạ, say mê, người thi sĩ vào cuộc đời (cũ) như một kẻ lần đầu đến thăm nhà lạ. Hai ông chủ, bà chủ thì đã quen nhẵn từ cái phòng, cái ghế, từ những cây trong vườn nhà mình; nhưng người khách mới đến, vì nhìn lần đầu, và vì tâm hồn quá phong phú, nên cái gì cũng trằm trồ ngạc nhiên: “Ồ nhà thích quá nhỉ! Ồ vườn đẹp quá nhỉ!”. Và hai ông bà chủ cũ rích nọ, lây ông khách, cũng thấy vườn và nhà cũ rích kia là hay, là thích… Nhưng than ôi! trong một hệ thống đời tan rã, chán chường, có thể nào người thi sĩ kia lấy tâm hồn của mình ra mà bù mãi cho, mà đắp điếm thêm mãi cho cái khô cạn, cái tầm thường của xã hội không? Anh ta có thể cứ rót rượu “mới” của tâm hồn mình ra, để rồi lại tự uống lấy, mua một cái say sưa vờ mãi mãi không? Nghệ sĩ không thể tự huyễn diệu lâu dài được; chẳng bao lâu, chính cái tâm hồn “mới” của anh cũng bị cái xã hội áp bức bóc lột rút hết sinh khí như một cái xác ve sầu!

Ở phạm vi to lớn hơn nước Việt Nam thuộc địa, cả cái hệ thống thế giới tư bản cụt đường tiến. Như một câu thơ cụ Võ Liêm Sơn đã nói, nó “tiến hoá vòng quanh về vực tối”; chất độc của nó tiêm vào tâm hồn rất nhiều nhà văn; họ thấy mọi sự đều não nuột. Từ năm 1859, nhà thi hào Pháp Baudelaire đã làm bài thơ “Du lịch”, nói tâm trạng những kẻ đi để mà đi, thế giới dù nơi nào thì cũng là “một khóm dừa ghê rợn trong một sa mạc chán chường” và kết thúc bằng kêu gọi:

Hỡi thần Chết, bác lái già, đến giờ rồi, hãy nhổ neo!
Xứ sở này làm ta chán, hỡi thần Chết! Sắp buồm chèo!
… Lặn xuống đáy vực sâu, địa ngục hay thiên đường, cũng tới!
Xuống dưới đây Vô Tri để đi tìm cái mới!

Tìm cái mới! Đau đớn biết chừng nào! Tuyệt vọng như kẻ húc đầu vào để chọc thủng một bức tường. Muốn ra sao thì ra, miễn là mới, miễn là khác cái thường nghe, thường thấy! Không từ cả ngưỡng cửa của thần chết, Baudelaire đi tìm cái mới như vậy là một hình thức phản kháng, chối từ tiêu cực và cao độ cái thế giới (tư bản) mà ông sống. Nhưng nhiều nghệ sĩ khác vẫn cứ còn le lói hy vọng, mong tìm thấy thuốc tiên cải lão hoàn đồng trong hệ thống tinh thần của thế giới tư bản, ở những sự sắp xếp vần chữ, màu sắc hay âm thanh, mong rằng từ những cuộc xổ số hình thức này, may ra trúng cái số độc đắc của thiên tài!

Mỹ học của giai cấp tư sản tìm một con đường thoát trong mới chủ nghĩa, trong “chủ nghĩa tân thời”. Hệ thống tinh thần và tư tưởng của giai cấp tư sản không thể có một nội dung gì mới nữa; còn có cái nội dung tinh thần nào mới trong sự bóc lột lợi nhuận tối đa? trong sự bần cùng hoá quần chúng nhân dân? trong sự chuẩn bị chiến tranh ăn cướp? Nếu trong những nước tư bản, một nền nghệ thuật nào còn sống và nảy nở, sinh được những tác phẩm lớn, thì nền nghệ thuật đó đã hướng về nhân dân và tiến bộ. Mặt khác, chúng ta cũng phân biệt những nghệ sĩ không có dụng ý xấu, nhưng bị lôi cuốn vì cái thế của chung quanh, bị chi phối rất đau đớn vì cái luật của đồng tiền. Còn thì nghệ thuật tư sản, hắn tìm cách tự cứu điên cuồng bằng sự loè công chúng. Nó căng hết sức lực và tung nhiều tiền bạc vào sự tìm tòi cái mới hình thức, đập mạnh vào tính hiếu kỳ của công chúng, luôn luôn tìm đào kép mới, lấy sự rực rỡ của quần áo, phông cảnh, đùi non luôn luôn thay đổi để đắp điếm cho nội dung nghèo thảm hại. Không có đồ ăn tinh thần để nuôi tư tưởng và tình cảm, nó kích thích vào cảm xúc, cảm giác, vào tình dục, vào thú tính; tìm và tìm những cái mới, mới mãi, đủ các thứ “nguyên tử” trên đời! “Hãy sáng chế cái điệu của ngày mai, hay hơn nữa, cái điệu của ngày kia… Hãy sáng chế cái điệu tối cao nguyên tử hay “cái điệu của sao Hoả tinh”, và chớ quên rằng đừng cho ai hiểu được nhạc của anh, và anh hiểu nó ít hơn ai hết” [1] . Chẳng lẽ mỹ học tư sản nói rằng cần kính yêu con người, cần làm cho ai cũng thưởng thức được nghệ thuật; chẳng lẽ nó nói rằng cá nhân tự thổi phồng mình xa lìa tập thể sẽ vỡ như một bong bóng; chẳng lẽ nó chửi chiến tranh! Căn bản nó không có cái gì mới để nói, nên nó đi tìm cái mới trong cái lạ.

Chúng ta đừng nhầm cái mới với cái lạ. Trên thân mình tan rữa của chủ nghĩa tư bản, nảy ra rất nhiều cái lạ. Trên quá trình tan rữa của nó, ngày hôm sau lại nảy ra một cái tan rữa “mới” hơn ngày hôm trước. Trước còn lấy sự làm người khác đau là một thú vui (bệnh sadisme), sau nảy ra một cái “mới” hơn nhiều: là băm vằm kẻ cùng hành lạc với mình thì mới thích (bệnh masochisme). Trước còn là những tác phẩm quái trạng của những người “trừu tượng chủ nghĩa”, sau thì quay một cái bánh xe có buộc những đồ hộp tô đủ sắc, đồng thời quay tròn một cái hình tam giác với những mẩu giấy màu, để cho phát ra những tiếng động xè xè và các tờ giấy bay vù chung quanh các cái hộp [2] , và gọi đó là “tác phẩm” vô cùng mới, kết hợp được màu sắc và âm điệu. Hay là bày ra những trò chơi tâm lý “mới”, hay là tạo ra những cá tính ngổ ngáo “mới”… Tất cả những cái đó “lạ” thật, đế quốc Mỹ hứa hẹn còn đẻ ra lắm “cái lạ cuối cùng” nữa; nhưng những thứ tìm lối ấy, thực ra, có “mới” không? Nó rất lạ, nhưng rất cũ; nó là những nảy nở trong thời gian của một hệ thống xã hội, tinh thần, nghệ thuật cũ rích, tan rã; nó không mới một chút nào.

Trong xã hội của ta, những thứ tìm tòi chuyên chú vào hình thức, vào kỹ thuật, thần thánh hoá cá tính của nghệ sĩ, đặt nghệ sĩ trên quần chúng nhân dân, những thứ tìm tòi lệch lạc đó cũng là “nước trong một giếng múc ra” với mỹ học tư sản.



Cái mới trước tiên ở trong thực tại khách quan cách mạng

Theo ý tôi, những người nghệ sĩ trong chế độ chúng ta, trong nhiệm vụ đẹp đẽ của mình đi tìm cái Mới chân chính, cần phải thấy trước tiên rằng: tuy ở trong nghệ thuật, vai trò của nhân tài rất quan trọng, và vai trò của thiên tài lại càng quan trọng đến cao độ, nhưng cái Mới căn bản, cái Mới có trước cần phải tìm để đưa vào tác phẩm, chính là cái Mới của thực tại khách quan cách mạng. Quần chúng cách mạng làm nên cái mới trong xã hội chúng ta, làm nên cái chất mới trong cuộc đời này; đi tìm cái mới cho nghệ thuật, trước tiên là đi nghiên cứu sức sáng tạo của quần chúng. Muốn có cái mới ở trong tâm hồn để làm nên một nghệ thuật mới, để “chủ động thành lập nên sự thẩm mỹ mới”, [3] thì phải xé toang cho kỳ hết cái lưới sương mù tự huyễn diệu của sự kiêu căng cá nhân, phải giác ngộ vào tận xương tuỷ tất cả cái mới ở trên miền Bắc nước ta và ở các nước phe xã hội chủ nghĩa chúng ta… Không phải chỉ tự phụ rằng mình đã hiểu chủ nghĩa Mác–Lê-nin lắm rồi, và thốt ra: “Biết rồi, khổ lắm! nói mãi!”, mà phải thành tâm thành ý cảm vào đến tận máu rằng cái chính quyền dân chủ nhân dân, hay cái chính quyền xô viết này mãi đến thế kỷ 20 mới nảy ra được. Phải cảm nghe như nhân loại ở trong bản thân mình, và chính mình đã bị đánh, bị chém trong vạn đời, bây giờ tay mình mới nắm được cái chính quyền của mình. Cái chính quyền kiểu mới này, nó là đứa con mới nhất của giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Và Đảng kiểu mới của chúng ta, bản chất cũng thật mới, không giống những kiểu đảng cũ nào trong lịch sử. Chỉ sợ mắt của ta còn mơ hồ nửa tỉnh nửa mê, chứ đừng sợ cuộc đời này thiếu cái mới cho ta nhìn. Ta hãy nhìn đi, ngắm đi sự sinh sôi nảy nở của con người kiểu mới. Ta hãy chực rình mà bắt gặp con người ấy cho được.

Thiếu cơm, thiếu súng mà anh dũng như quân đội nhân dân của ta, đó là một cái mới lớn lao. Trên nền của sự anh dũng đó, năm 1950 ở trận Đông Khê, lại đột xuất cái anh dũng mới của La Văn Cầu chặt cánh tay phá lô-cốt địch; năm 1954, ở Điện Biên Phủ, lại xuất hiện một điển hình anh dũng mới khác: Phan Đình Giót lấy mình lấp lỗ châu mai. Từ những người nô lệ kéo cày, những người thợ đứng hầu cái máy, đã chuyển sang cái lao động mới “mình làm mình hưởng” thay đổi cả bộ mặt cuộc đời. Nhưng nhân loại còn phải phấn đấu lâu và khó lắm mới thiết lập được cái lao động kiểu mới vô cùng mới mẻ, không đòi một sự trả công nào, một thứ lao động do cảm giác cần làm việc vì lợi ích của tập thể, và đáp ứng với nhu cầu của cơ thể lành mạnh, cái lao động cộng sản chủ nghĩa mà Lê-nin đã đề ra.

Thật là đẹp đẽ, nếu đúng như lời bạn Văn Cao, các nhà nghệ sĩ tập trung được “tất cả giấc mơ và khát vọng của con người làm thành một mũi nhọn kéo lê đi phía sau cả cái thực tế chậm chạp” [4] . Nhưng cho đến nay, thì ngay cả ở Liên Xô, nghệ thuật đã sinh ra bao nhiêu tác phẩm rất lớn chiếu toả được trên văn nghệ thế giới, mà nhìn chung vẫn còn bị cuộc đời xô viết bỏ ở sau; còn ở nước ta, thì nghệ sĩ tuy có nhiều thành tựu rất đáng quý, vẫn chưa nói được trong muôn một cái mới, cái hay của thời đại. Nghệ sĩ muốn tiến lên được phía trước thời đại, thì trước nhất phải ý thức rằng mình đang bị thời đại bỏ xa, phải lo mà chạy cho kịp, để rồi mà vượt thời đại. Cũng theo cái biện chứng ấy, các nhà văn, nhà thơ muốn viết cho người đời sau, thì phương pháp bảo đảm thành công nhất là hãy thoả mãn được cái mức của người thời bây giờ đã. Cái mức đòi hỏi bây giờ đó không phải thấp đâu. Chúng ta để ý mà xem, từng ba tháng một, từng sáu tháng một, cái mức thẩm mỹ của công chúng Việt Nam ta hiện nay cứ lên vòn vọt. Chúng ta không nên buồn vì da gấu không bán được, trước khi săn được gấu. Những Bá Nha cứ sáng tác đi, lo gì quần chúng thiếu Chung Tử Kỳ.

Thật vậy, chỉ sợ nghệ sĩ bịt tai bưng mắt mình lại thôi, chỉ sợ nghệ sĩ thiếu tài và thiếu tình, chứ mỗi một ngày, xã hội ta đổ ra biết bao là vất vả gian lao và sinh ra bao nhiêu cái hay, cái đẹp, cái mới (mặc dầu có những sai lầm, khuyết điểm). Riêng tôi, tôi đã cất giữ khá nhiều tờ báo hàng ngày, bởi vì những tin tức trong đó mang nhiều sáng tạo quá. Biết bao cái mới nằm trong một bài báo – chẳng hạn, như bài “Sức người và tiếng máy” [5] ; mỗi dòng tin xứng đáng một bài thơ mà tôi không có tài để làm nổi: “- Từ Hà Nội đã có tiếng còi xe lửa toả đi bốn phương miền Bắc – Hai nhà máy thuỷ điện nghiêng bóng bên dòng sông Nguyên Bình – Nước máy đã thay cho nước sông ở thị xã Hải Dương, Thanh Hoá, Nam Định - Đào sâu xuống hơn 25 thước, tia nước giấu kín trong lòng hòn đảo Cát Bà vút lên trắng xoá, mến yêu như dòng sữa mẹ hiền. Nước dâng lên, anh em đổ bê tông chung quanh giếng, làm một nhà bơm nước bắt vòi nước về nhà máy và công trường. Người dân Cát Bà đời này sang đời khác mới được thấy giếng nước ngọt và nhà máy lần đầu tiên – Tàu của ta cũng lần đầu tiên vượt biển đến Quảng Châu nhiều lần. Thuyền trưởng, thuyền phó và thuỷ thủ của ta điều khiển hoàn toàn tàu chạy biển. Họ bỏ bộ quần áo nâu, áo xanh kháng chiến, mặc vào bộ áo quần thuỷ thủ màu trắng. Lần đầu tiên vượt khơi Hải Nam, sóng dữ gió to, họ vật lộn với thiên nhiên, thắng những luồng nước hung hãn…”. Tha hồ cho nhà văn tìm cái mới! Toàn là những “lần đầu tiên”.

Quần chúng đòi hỏi văn nghệ của ta trước tiên phải diễn đạt những cái mới kia, trong muôn ngàn cái mới khác. (Cố nhiên phải diễn đạt cho hay). Không! chúng ta thiếu tài diễn đạt, diễn đạt xoàng, đó là một việc khác; chứ chúng ta không thể trước tiên đi tìm cái mới trong bản thân mình, mà chối cãi cái mới là trước tiên ở trong thực tại cách mạng khách quan. Chúng ta đừng có gạt bỏ cái mới của chế độ ta như con gà đứng trên một đống thóc, vừa mổ thóc ăn, vừa hai chân cứ bươi quào làm như là không phải đứng trên đống thóc. Chúng ta hoan nghênh những người bạn chê chúng ta phạm sơ lược, công thức, để đến nỗi những cái mới do nhân dân ta sáng tạo xỉn lại dưới ngòi bút chúng ta. Nhưng chúng ta phản đối và đập lại những kẻ chê tất cả cuộc đời chúng ta là sơ lược, là công thức, đoàn kết phấn đấu là công thức, bảo vệ Đảng là công thức, yêu Liên Xô là công thức…; những người nói như vậy vô tình đã lặp theo luận điệu của bọn thù hằn chúng ta, với bọn đó thì ta chỉ có một con đường để chữa công thức, là phải thay cả tư tưởng và chế độ!

Quý biết bao, nhà thi sĩ nào khám phá ra một cách mới mẻ nhìn trời xanh của muôn đời. Nhưng cao quý hơn nhiều, là nhà thi sĩ nào như Hăng-ri Hai-nơ (Heinrich Heine), [6] biết nắm ngay lấy cái mới toanh của lịch sử vừa nẩy mầm trong thời đại mình, và đưa vào những vần thơ tuyệt diệu. Cuộc nổi loạn của những người thợ dệt miền Xi-lê-di (Đức), theo Mác phân tích, không giống tất cả những cuộc nổi loạn về trước của thợ thuyền ở Pháp, ở Anh; đây là lần đầu tiên trong lịch sử, thợ thuyền nổi loạn không đơn thuần đòi áo cơm, mà nổi loạn với ý thức của giai cấp vô sản. Thi sĩ Hăng-ri Hai-nơ nhìn thấy được cái mới đó, và làm bài thơ bất hủ “Những người thợ dệt”, đăng báo năm 1844; nhiều thi sĩ đồng thời với Heine cũng làm đề tài đó, nhưng không một ai biết nhìn thấy như Heine cái tầm quan trọng xã hội của cuộc nổi loạn, biết như Heine cổ võ giai cấp thợ là kẻ đào huyệt chôn chế độ hiện hành. Đó là một điển hình đi tìm cái mới của văn nghệ sĩ.

Xé được cái màn tự cao tự đại cá nhân, nó cản trở sự cảm thông giữa nghệ sĩ và nhân quần, người sáng tác sẽ thấy tất cả những cái mới sáng loá trước mắt; anh sẽ không đối lập cái mới của tâm hồn anh với cái mới của thế giới, của xã hội và giành lấy phần hơn. Anh sẽ khiêm tốn nói như nhạc sĩ Gơ-lin-ca (Glinka): “Chính quần chúng nhân dân sáng tạo âm nhạc, và chúng ta những nghệ sĩ làm công việc sắp xếp”. Mặc dầu Glinka nói vậy, có ai cất công sáng tạo của Glinka đâu. Nhưng chính nhờ Glinka có một ý thức cao về quần chúng như vậy, Glinka mới thành đại nhạc sĩ.


Cái mới trong tác phẩm cũng do tài năng, do tìm tòi, nghiên cứu và diễn tả của nghệ sĩ, dựa trên cái mới khách quan

Phải đi tìm cái mới cho nghệ thuật trước tiên trong thực tại cách mạng, trong quần chúng, chân lý đó có thể khẳng định. Nhưng chúng ta cũng không được lệch, mà không thấy vai trò rất quan trọng của cá nhân nghệ sĩ.

Muốn có tác phẩm, thì phải có tác giả. Phải có tác giả có tài, có nghiên cứu đúng đắn thực tế và nắm vững kỹ thuật diễn đạt. Những câu chuyện sinh động nhất của Kháng chiến cũng trở thành tầm thường dưới tay một người viết dở. Muôn ngàn màu sắc rõ ràng của thời đại cũng bay đi mất, nếu hoạ sĩ không biết bắt lấy vào tranh. Không phải hễ bản chất sự việc là mới, là hay, thì tác phẩm nói đến nó thế tất là hay, là mới. Dụng ý tốt không đủ để tác phẩm khỏi làm độc giả chán phèo.

Tâm hồn người nghệ sĩ phải quyện, phải xe vào thực tại; tự chỗ quyện xe của tâm hồn và thực tại, mà nảy ra tác phẩm. Không có dâu thì tằm chết, không có tằm thì cũng chẳng ra tơ. Chúng ta không thể coi nhẹ con tằm, là nhà nghệ sĩ. Những nghệ sĩ có tài đem điệu cảm xúc của mình hoà kết vào chất liệu của vấn đề, đẻ ra những tác phẩm cụ thể hoá và cá thể hoá, có mang tên người làm, không trộn lẫn được. Có năng khiếu rồi (nếu không có năng khiếu thì không nên làm việc sáng tạo nghệ thuật, sẽ mất công vô ích), nghệ sĩ còn phải lao động cật lực, nghiên cứu để hiểu rất sâu cuộc sống. Anh phải tìm ra những khía cạnh mà chưa ai thấy được. Anh phải tìm ra những cách rất mới để diễn tả những cái thông thường mà mọi người đã thấy. Nghệ sĩ phải diễn đạt thực tại cách thế nào để cho chân tướng của nó lồ lộ, trẻ mãi. Những thiên tài văn nghệ tạo ra được đến cao độ, cái chất “tự phóng xạ” ấy của tác phẩm; hàng trăm, hàng nghìn năm sau, một bài thơ hay vẫn cứ phát ra những tia hấp dẫn, đem khoan khoái đến cho người đọc. (Những tác phẩm “tự phóng xạ” như thế, nhất định chủ nghĩa hình thức không thể nào tạo ra được, mà phải là tư tưởng và tình cảm của thi hào tha thiết với đời sống con người, diễn đạt bằng những chữ, những lời không thể mục nát).

Chính tài năng và những sự tìm tòi của tác giả, chính tâm hồn tác giả đóng được một con dấu riêng vào những sự vật chung. Nhưng trong tác phẩm, công chúng yêu thích cả vừa cuộc sống, và cả vừa tác giả. Người ta không thể yêu tác giả mà không có cuộc sống. Con dấu riêng rất quý báu kia không thể đóng trên không khí. Con tằm không thể tự một mình nhả ra nước bọt, mà phải ăn dâu của thực tại để nhả ra tơ. Cái tài năng không thể là một cái khung trống rỗng, mà phải diễn đạt một cái gì, một nội dung. Thần thánh hoá tài năng của nghệ sĩ, là đưa nghệ thuật vào chỗ siêu hình, duy tâm, vào chỗ tắc tỵ, vào đường chết.

Dù là tâm hồn của một thiên tài đi nữa, tâm hồn đó cũng chỉ có được là vì có thực tại khách quan. Một nhà thơ được mến yêu, vì anh có một điệu tâm hồn khi diễn đạt cuộc sống, vì anh nói tâm hồn của anh trong đó có tâm hồn muôn người. Nhưng dù anh là nhà thơ trữ tình, nếu anh chỉ nói tâm hồn cá nhân chủ nghĩa của anh, trong đó chỉ có anh ngổ ngáo huênh hoang, hoặc cùng lắm là có thêm một nhúm người như anh ba hoa nói phét, thì không có một vạn người nào thích hết. Ngồi nạo tâm hồn ra, thì trong đó chỉ có cái tự phụ mà thôi. Lịch sử văn học hiện đại của ta đã chứng minh rằng: khi một số thi sĩ, trước Cách mạng tháng Tám (và hiện nay ở miền Nam) cứ đi mãi trên con đường “lấy mình làm đề tài”, thì cuối cùng hết chuyện khôn dồn sang chuyện dại, thi sĩ bắt thiên hạ xem ghẻ lở của mình, ca tụng thuốc phiện và sa đoạ; thậm chí có trường hợp tác giả ở miền Nam hiện nay ca ngợi nguỵ binh của Diệm là những anh hùng “dẹp loạn”!

Hiện nay ở miền Bắc nước ta, thực tại khách quan cách mạng mới vô cùng. Nghệ sĩ dù có tài, mà bị bệnh phù thũng của cái “tôi”, rúc đầu vào cánh như chim đà điểu, thì cũng không tìm ra được cái gì mới.
 
T

tranquang

Tìm tòi cần đúng hướng

Không tìm tòi, thì làm sao có được tác phẩm nghệ thuật? Những tác giả lớn là những người lao động nghệ thuật không biết mệt, những người khám phá, mở đường, và mở đường đúng.

Vậy, như thế nào là tìm tòi đúng, tìm tòi theo mỹ học của giai cấp vô sản? Chúng ta trước hết tìm tòi nội dung, tìm tòi trong quần chúng, đã đành. Chúng ta còn phải tìm tòi rất nhiều về hình thức, về kỹ thuật nữa. Không có hình thức, thì cũng không có nghệ thuật. Phải có một hình thức đẹp đẽ, tương xứng với nội dung mới, làm công chúng yêu mến, say sưa. Rất sai lầm là người nào khinh kỹ thuật.

Tuy nhiên, hình thức, kỹ thuật của ta cũng xây dựng trên cơ sở quần chúng. Bạn Văn Cao có đề ra việc “thành lập nên sự thẩm mỹ mới”. Theo ý tôi, “thẩm mỹ mới”, tức là thẩm mỹ trên cơ sở quần chúng. Một số người đang tìm tòi, đốt đuốc tìm cả giữa ban ngày, thì tưởng rằng người khác cầu an, lười, không biết tìm tòi như mình. Có người tìm tòi cho kỳ khu, cho khúc mắc, khó khăn; càng tìm tòi, họ càng đi xa vào trong rừng cô đơn, lập dị; họ tìm cách làm cho khó hiểu, lấy đó là một thứ độc đáo, cao siêu; cái gì dễ hiểu đối với họ là tầm thường, là cũ như đồ cũ. Lại có người tìm tòi cho câu thơ của mình thật đơn giản, như La Phông-ten (La Fontaine) [7] nói: “Tôi vất vả lắm mới làm được những câu thơ dễ dàng”. Nguyễn Du mà không đổ máu mắt để làm cho Truyện Kiều dễ nhớ, dễ thuộc, dễ truyền cảm à? Những người tìm tòi loại sau này, khi có một nội dung nào, thì gắng hết sức diễn đạt nó cho hàng vạn người thích được; như vậy cũng chưa đủ, họ lại tìm tòi nữa để cho hàng triệu người có thể thích được. Dĩ nhiên chúng ta không máy móc đòi tất cả các tác phẩm đều phải được mọi người hiểu ngay; còn phải nhìn thấy trình độ của quần chúng cụ thể; lại có những tác phẩm nặng về nâng cao. Nhưng đứng về hai phương hướng tìm tòi, thì hướng nào hơn? Ngay thầy Mạnh Tử xưa đã đặt câu hỏi: “Cùng ít người vui nhạc, với lại cùng quần chúng vui nhạc, cái nào vui hơn?” Câu trả lời quá rõ.

Có vài người lấy nê rằng: “Cuộc sống bây giờ mới quá, không thể diễn đạt theo lối thông thường [8] được”. Họ bèn tìm tòi những cách rất khó khăn để diễn đạt cái mới. Lý luận thật là mỉa mai! Cái mới của thời đại này, chính quần chúng làm ra, chứ không phải anh với tôi; thế mà lại diễn đạt cái mới một cách thế nào để cho quần chúng không hiểu được!

Có vài người lại nói: “Thời đại này là thời đại nguyên tử, mọi việc đều phải mới theo”. Muốn nói đúng hơn, phải nói: thời đại này là thời đại của quần chúng nhân dân; còn sức nguyên tử là một năng lượng vĩ đại mà quần chúng nhân dân sẽ nắm lấy để dùng. Phải làm theo quần chúng, chứ không phải làm theo nguyên tử. Thời đại nguyên tử, nhưng trái tim không nguyên tử! Văn nghệ nguyên tử là thứ văn nghệ gì?

Thẩm mỹ mới của chúng ta là thế đó, thẩm mỹ cho hàng vạn, hàng triệu người lao động, họ là tinh hoa của đất nước, chứ không phải thẩm mỹ cho một số nhỏ người béo phị vì ngồi ăn bám [9] , hay cho một nhúm người coi nghệ thuật là vương quốc riêng của mình. Bởi vậy cho nên thẩm mỹ mới, là nâng cao trên cơ sở phổ cập.



Ý nghĩa của văn nghệ mới

Tìm những cách nhìn trời xanh, tìm những cách diễn đạt màu trời xanh; tìm những cách nói cái mênh mông của hạt bụi và của hằn bánh xe; chúng ta quý yêu vô cùng cái nghệ thuật dạy cho ta biết ngắm nhìn và suy nghĩ về cái mênh mông của trời đất, của sự sống. Xưa có một ông vua Trung Quốc ao ước và bắt thợ làm đồ sứ của y pha chế cho ra một thứ men xanh như trời trong sáng sau cơn mưa (vũ hậu thiên quang). Nhưng thợ làm đồ sứ không tài nào pha chế nổi (họ có bị chặt đầu hay không, thì không thấy nói). Một nhà thơ Trung Quốc xưa kể lại chuyện đó và khen người yêu: “Em Yến Hoa, đôi mắt em chiều nay đúng là giấc mơ của thiên tử, như trời trong sáng sau cơn mưa”. Thật là tinh vi!

Chúng ta còn viết cả về cách uống rượu cho ngon, cách pha trà cho thanh khiết, và theo đà giầu có của kinh tế, ta còn ca ngợi nước hoa thật ngát, và làm thơ yêu cầu chế thật nhiều son phấn hảo hạng cho mọi thiếu nữ sẽ thành những nàng tiên. Chúng ta cũng rất quý yêu cái nghệ thuật dạy cho ta biết hưởng thụ cuộc đời.

Đó là những việc mà văn nghệ muôn đời đã làm, văn nghệ của ta cũng nối tiếp cái gia tài tìm tòi kia, dần dần làm cho trái đất này thành một thiên đường. Trong chế độ ta, những nghệ sĩ làm những công việc “muôn đời” như thế, ta hoan nghênh.

Nhưng do vì trên đời này còn có rất nhiều người chết đói, nhiều nước phải nô lệ, do vì trên nước ta, một nửa còn chưa giải phóng, do vì nhân loại còn phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt lâu lắm nữa, mới làm cho mọi người có được bánh ăn và hoa hồng, do vì thế nên ta muốn rằng văn nghệ của ta không những ngắm nhìn, tìm hiểu và hưởng thụ cuộc sống, mà văn nghệ còn xắn tay áo lăn vào trực tiếp đẩy bánh xe lịch sử với quần chúng, văn nghệ phải thành vũ khí trực tiếp đấu tranh, văn nghệ phải cải tạo thế giới. Cái mới vô cùng, không văn nghệ cũ nào, không văn nghệ tư sản nào bì nổi, của văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa chúng ta, là đấu tranh cho Đảng kiểu mới, chính quyền kiểu mới, con người kiểu mới, và lao động kiểu mới.

Cái then chốt của nhân văn cộng sản là vô cùng yêu mến con người lao động (chứ không phải con người chung chung bao gồm cả con người áp bức bóc lột đang ở địa vị áp bức bóc lột), điều mà chủ nghĩa nhân văn trước đây không thể quan niệm đầy đủ và triệt để. Bởi vậy cho nên, với chúng ta, nghệ thuật rất quý, nhưng nghệ thuật không thể quý hơn con người. Không thể nói như bạn Văn Cao: “Khốn nỗi những người đọc của chúng ta lại cứ muốn tìm trong cái đám đông người một bộ mặt có thể ưa thích được”. Đám đông nào? Có Tây đế quốc và địa chủ ác bá trong đó không? Sao lại không nhận thấy trong quần chúng ấy, mỗi bộ mặt có một vẻ đáng mến riêng, mỗi bộ mặt đều thông minh và rất phân biệt người này với người khác, mỗi bộ mặt đều có thể dạy cho ta rất nhiều về cuộc đời, có những bộ mặt đẹp nữa; tại mắt nghệ sĩ không nhìn thấy nổi, chứ không phải lại “bá tánh” này là khu đen! Cũng không thể nói: “Tấm bia trên mồ một người đã khuất có lẽ còn ở lâu trên mặt đất hơn một cuộc đời”. Mỹ học của chúng ta không bắt hàng vạn người chết để xây Kim tự tháp, không bóc da người đem thuộc đi để bọc bìa sách, không đặt sọ người làm đồ chơi trên bàn; một người chỉ sống trong khoảng trăm năm, còn tác phẩm nghệ thuật đẹp thì được con người bảo quản mãi, hai việc đó sao lại đem so sánh nhau? Sao lại nói đá đẹp thì quý hơn người?

Khi Văn Cao nói: “Yêu những người biết thất bại mà dám mở đường”, tôi hiểu ý bạn muốn nói rằng đường đã đúng thì cứ táo bạo mà đi, đừng lo sợ thất bại, ta thất bại đã có kẻ khác tiếp tục tìm. Như vậy thì tôi rất đồng ý. Những người mở đường trong nghệ thuật mà vì lý do gì đó thất bại, ta vẫn mến, vì ta khuyến khích những thí nghiệm thành tâm. Nhưng người biết là thất bại (vì sai hướng) mà cứ mở đường liều, là anh hùng chủ nghĩa rẻ tiền mà ta không dung thứ. Mở đường trong nghệ thuật để phục vụ nhân dân, chứ không phải mở đường để mà mở đường.

*

Không say sưa vì danh từ. Không dùng những chữ “cũ” để ném đá nhau, không đeo những chữ “mới” như chiêu bài trước ngực. Nghệ thuật là một cuộc tranh đấu không ngừng; cái mớ bòng bong “mới cũ” rất dễ lộn, dễ nhầm, chúng ta tinh tường, sáng suốt mà phân biệt cho ra.

Những người sáng tạo văn nghệ trong chế độ yêu quý của chúng ta! Hãy táo tạo và vững chãi, hãy tân kỳ và đúng đắn tìm cái mới đi! Đừng có để cái mới mẻ của thời đại cười chê cái tẻ nhạt trong nghệ thuật! Mở to đôi cánh của trí tưởng tượng! Vào trong thực tế mà tung thâm! Rèn luyện nghề của mình đi! Đưa cho được vào tác phẩm cái mới chân chính mà nhân dân đòi hỏi!
 
T

tranquang

Cái Mới trong văn học của chúng ta

Chúng ta không ngừng làm một cuộc đấu tranh tư tưởng để bênh vực, cổ vũ nền văn học mới của chúng ta. Như vậy, không phải chúng ta huyên truyền, lấy không làm có, nói lấy được; cũng không phải chúng ta chỉ đem một lòng tin, một cách chủ quan, tự huyễn diệu mình là đủ. Mà chúng ta thấy rất chính xác rằng cái xã hội tiến dần lên chủ nghĩa xã hội tốt đẹp của ta thế tất cần và phải xây dựng được một nền văn hoá, một nền văn học mới mẻ từ trong bản chất. Nhưng cố nhiên, con đường xây dựng đó không phải là chóng vánh, dễ dàng.



Nhưng vấn đề không nên nhầm lẫn

Một nỗi thắc mắc khá phổ biến hiện nay là: − Tại sao văn học cách mạng chưa có tác phẩm lớn?

Người ta hỏi như vậy và tìm cách giải đáp. Nhưng cũng có một số nhỏ người hỏi như vậy rồi đâm ra hoang mang, dao động về đường hướng của nền văn học mới; dần dần như hình thành một khuynh hướng “xét lại” những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về xây dựng văn học.

Ta cần phải, trước hết, nói thật với công chúng rằng: − Trong kinh tế, ta đã thấy là rất sai cái ảo tưởng của những năm đầu hoà bình, rằng khi Cách mạng đã thắng lợi, đuổi được đế quốc, đánh đổ được giai cấp địa chủ rồi, thì đời sống có nhiều thịt, sữa, hoa, gối cưới, và pô-pơ-lin [1] ngay; những thứ sung sướng này, thực ra, chỉ có thể có được dần dần, và có theo tốc độ tăng của năng suất lao động tự giác. Trong văn học cũng vậy, không phải là dễ làm cho những sự nghiệp oai hùng, cao cả của quần chúng cách mạng thể hiện được ngay vào trong những tác phẩm vĩ đại tương xứng. Cần phải cần cù lao động nghệ thuật, cần phải nghiên cứu cuộc sống mới, cần phải học tập những tinh hoa, ưu tú của văn học cổ kim, cần phải kiên nhẫn nuôi dưỡng nhân tài. Chúng ta có rất nhiều nỗi khó khăn của một nền văn học hãy còn trẻ tuổi. Nhưng không vì những khó khăn đó mà nhầm lẫn vấn đề, mà sốt ruột bỏ cái đường lối đúng mà ta đang đi, để đâm quáng đâm quàng, bổ ngả bổ nghiêng vào hố, vào vực.

Tại sao văn học cách mạng chưa có những tác phẩm đạt tới mức độ nghệ thuật nhuần nhuyễn như một số tác phẩm [2] trước Cách mạng? Có nhiều lý do; nhưng lý do mấu chốt ở đây, theo ý tôi, vẫn là: “vấn đề cán bộ quyết định tất cả”, tức là vấn đề phải có một loạt nhà văn của thời đại. Thời đại mới của chúng ta cần phải có những nhà văn của nó; mà việc “đào tạo cán bộ” ấy đòi hỏi một thời gian. Thời đại cũ, dưới Pháp thuộc và phong kiến, nếu ta chỉ kể có từ 1900 trở đi, cũng đã phải mất trên dưới ba mươi năm để đào tạo ra cái loạt nhà văn, nhà thơ của phong trào văn học khá rầm rộ khoảng 1930 - 45. Lấy thơ làm ví dụ, thì lớp thi sĩ của phong trào “thơ mới” (1932-45) là đẻ ra đã hít thở cái buồn của chiến tranh 1914-18; họ lớn lên, và trong tuổi biết khôn, tuổi dậy thì của họ, là tuổi nhiều xúc cảm nhất, tuổi nẩy nở các mầm tài năng, thì xã hội đã bày sẵn ra trước mắt họ một cảnh bế tắc nghiêm trọng rồi. Vào tuổi trẻ, họ thốt ra thơ, thì thơ họ đã làm một với tiếng kêu thương của thời đại. Một mặt khác, lớp thi sĩ đó, vô hình trung hay có ý thức, được đào tạo qua cả một quá trình vài chục năm thành công hay thất bại của nhiều thi sĩ trước họ, như Hải Nam Đoàn Như Khuê, Á Nam Trần Tuấn Khải, Nguyễn Mạnh Bổng, v.v… và bao nhiêu người khác đăng thơ trên các mục “Văn uyển” hồi bấy giờ. Cái buồn lãng mạn cá nhân chủ nghĩa của họ vốn đã được giáo đầu từ trước trong những Giọt lệ thu của bà Tương Phố, trong những nỗi lòng của Tố Tâm, Đạm Thuỷ, và nhất là, trước họ, thi sĩ Tản Đà (1888-1938) đã gặt, bó một mùa hoa buồn đời: “Sầu không có mối, cắt sao cho đứt; sầu không có khối, đập sao cho tan…”. Có thể nói: cái hắt hiu của thời đại cũ đã lọc qua mấy lớp thi nhân và chảy vào đến tâm thần thế hệ thi sĩ 1932-45, thì đã đến lúc cô đọng, tập trung, như trở thành một thứ “tinh tuý” vậy. Quá trình “đào tạo cán bộ” của văn học trước Cách mạng thật khá dài. Trong hệ thống xã hội trước kia, văn học cũ là một sự gặt mùa, trong hệ thống xã hội của ta hiện giờ, văn học mới, trên đại cục, là hãy còn tiếp tục gieo hạt. Như vậy, chúng ta có thể cắt nghĩa dễ dàng cái nhuần nhuyễn của một số tác phẩm trước Cách mạng. Thời đại cũ không những đã sản sinh một lớp nhà văn ra tự trong lòng nó; nó lại còn đứng dừng lại, với các điển hình nhân vật chín mõm mòm, cho nhà văn cũ tha hồ quan sát; hơn thế nữa, nhà văn cũ, vì đã nhập tâm xã hội cũ, lại còn có thể lấy cái hắt hiu đã quánh lại trong tâm trí mình mà tăng thêm cái điệu hắt hiu cho đời sống bên ngoài!

Cuộc sống mới của chúng ta, trái lại, không đứng dừng lại một phút nào, nó rất trẻ, rất hăng, nó luôn sáng tạo, nó bồi dưỡng luôn những điển hình mới; nó thì cuộn sùng sục lên như thế, mà việc đào tạo cán bộ của nền văn học mới thì hãy đang còn tiến hành, hiện nay chưa phải là đã đạt. Cái chống chếnh, cái chưa ổn của tình hình văn học ta hiện nay, theo ý tôi, mấu chốt là do sự giáp hạt các tài năng; các nhà văn thời đại của ta chưa chín, và vì thế, các tác phẩm của ta chưa chín. Rồi do vì ta chưa có những tác phẩm thật là trứ tác, mang đầy máu huyết của thời đại ta, để chứng minh bằng kết quả hai năm rõ mười cho bản chất ưu việt của nền văn học cách mạng, nên những tư tưởng nghi ngờ, dao động, thậm chí những kẻ xấu bụng, có đất để đòi “xét lại” đường lối. Thật là một sự nhầm lẫn vấn đề.



Không thể sốt ruột

Nhưng trong khi chúng ta cải tiến sự lãnh đạo văn học cho mềm dẻo hơn, chiếu cố đầy đủ đặc trưng của việc sáng tác văn học, ngõ hầu rút được càng ngắn càng hay cái thời gian đào tạo một lớp nhà văn mới, thì chúng ta vẫn cứ phải nhìn thấy thực tế rằng: việc đào tạo đó không thể sốt ruột được đâu.

Ở Liên Xô, từ khi giai cấp vô sản cướp được chính quyền, đến 15 năm sau, mới thành lập được Hội duy nhất của các nhà văn Xô Viết (1932). Nhà văn hào Trung Quốc Lỗ Tấn, năm 1927, cũng có nói [3] : - “Khi đã đến thời cách mạng lớn, không có văn học nữa, không có tiếng tăm nữa, bởi vì mọi người đều bị sóng cách mạng dồi dập, mọi người đều từ kêu gào mà xoay qua hành động, bận rộn về cách mạng, không có nhàn rỗi để mà nói chuyện văn học. Lại còn, lúc đó đời sống vất vả, cố tìm cho ra miếng bánh mì mà ăn còn không được, còn lòng dạ nào nói đến văn học nữa?...”. “Đợi đến sau khi cách mạng lớn thành công, trạng thái xã hội đã hoà hoãn, sự sống của mọi người đã dồi dào, lúc bấy giờ văn học lại sản sinh ra…”. Tôi dẫn mấy câu này, không phải để ta dựa vào đó đặng mà trì trệ; nhưng để chúng ta thông cảm rằng: từ Tổng khởi nghĩa 1945 đến Hội nghị Giơ-ne-vơ 1954 tức là thời kỳ Cách mạng lớn của Việt Nam ta đó. Thế mà trong mười năm đại cách mạng ấy, chúng ta vẫn có được những bước đầu của nền văn học mới, và có một số tác phẩm thành tựu đầu tiên; ta nên nhận rõ như thế mà phấn khởi, chứ đừng quá sốt ruột.

Thời đại ta là thời đại giải phóng các dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, là thời đại tiến lên dưới sự lãnh đạo của các Đảng của giai cấp vô sản, với động lực chính là quần chúng công nông giác ngộ. Những nhà văn của thời đại, tức là những nhà văn chính yếu nói được cái điều trên đây, chứ chính yếu không phải điều nào khác. Những nhà văn của thời đại hiểu đúng nghĩa như vậy, ở nước ta, từ đâu mà có?

Một là từ những nhà văn cũ trước Cách mạng tháng Tám cải tạo đi, theo tinh thần và lập trường của giai cấp công nhân. Việc thay da đổi óc này không phải là dễ dàng và mau chóng. Chỉ một cái tập quán nông nghiệp lạc hậu, là đi làm và đi họp không đúng giờ, mà hơn ba năm hoà bình rồi, ta vẫn chưa chữa được. Huống chi việc thay đổi cả hệ thống tư tưởng, cách nhìn và lối cảm đã thâm căn cố để từ lâu. Trong hoàn cảnh ở thành thị yên bình hiện nay, đã có cá biệt những nhà văn cũ truy lĩnh trở lại những điều không đúng mà trong Kháng chiến họ đã từ bỏ. Nhưng đại bộ phận vẫn kiên trì tiếp tục tự cải tạo mình, và họ dần dần trở thành những nhà văn mới; mới hay cũ không ở tuổi tác, mà ở cái tính cách quần chúng trong nhà văn, ở đảng tính của nhà văn. Theo tôi nghĩ, cái khả năng diễn đạt thời đại chỉ nâng lên được trong nhà văn cùng với cái chất quần chúng, cùng với Đảng tính được tăng cường. Thực tế văn học Liên Xô đã chứng minh rằng những nhà văn cũ trước Cách mạng tháng Mười, bền chí đi với Đảng và quần chúng, đã thành những nhà văn mới thật ưu tú. Ở nước ta, để cho các nhà văn của thời đại hơn lên một mức nữa, cũng cần phải thêm một thời gian gắng công, rèn luyện.

Cái nguồn thứ hai để luyện dưỡng thành những nhà văn thời đại của ta, là lớp nhà văn trẻ bắt đầu viết từ sau Cách mạng trở đi. Phần lớn họ là những người đã được đi học, họ vào Cách mạng với một gánh quá khứ nhẹ nhàng, họ hấp thụ cái mới của thời đại ta chóng hơn. Họ cần mở rộng kiến thức thêm nhiều, cần học tập nhiều về nghề nghiệp. Nhưng không phải hễ cứ tuổi trẻ là đảm bảo tư tưởng không sai lệch. Cùng với lớp nhà văn trước, họ vẫn phải học tập quần chúng nhiều hơn, sâu hơn nữa. Để cho tài năng của họ chín – tôi hiểu tài năng là bao gồm cả tư tưởng – cũng cần phải có một thời gian.

Cái nguồn thứ ba là hướng nhìn về tương lai xa hơn. Nền văn học mới do Đảng lãnh đạo, cái nền văn học của một xã hội sẽ tiến mạnh lên xã hội chủ nghĩa mai sau gồm toàn những người lao động, cần phải có những nhà văn xuất thân từ nhà máy, từ nông thôn hợp tác hoá. Cái công chúng hoàn toàn mới, gồm bằng công nhân, nông dân lao động, hiện giờ đang hoàn thành thoát nạn mù chữ, hoặc học bổ túc bình dân, và rồi sẽ học cao hơn nữa, sau đây họ sẽ cầm đọc các tác phẩm văn học. Họ, những người mà bản chất dễ thông cảm nhất với các vấn đề và nhân vật của xã hội mới, họ lại thuộc những giai cấp từ xưa chưa bao giờ được rèn luyện để viết văn. Đó là điều bất công mà Đảng ta sẽ sửa chữa. Đặt nhiều ước vọng vào loạt nhà văn ấy của thời đại, không công nông chủ nghĩa chút nào hết; trái lại, chỉ nhìn quanh quất có làng văn hiện nay, là không thấy xa hơn mũi mình. Cố nhiên, đào tạo loạt nhà văn này đòi hỏi nhiều thời gian.


“Vấn đề cán bộ” của văn học chúng ta đặt ra là như vậy.

Đó đúng là vấn đề mấu chốt. Thời đại ta có đầy đủ chiến công, sự nghiệp, nhưng còn thiếu cái chín của các nhà văn. Khi các nhà văn đã chín rồi, họ có thể sẽ quay trở lại viết về những ngày Cách mạng tháng Tám, viết về Kháng chiến mà viết rất hay, rất đúng, dù có trường hợp họ phải dựa vào tài liệu lịch sử chứ chưa được mắt thấy tai nghe. Trái lại, khi họ chưa chín, thì đang sống giữa kháng chiến nhãn tiền, họ vẫn chưa viết được đúng, hay về kháng chiến. – Nói điều này, tức là nhấn mạnh: nhà văn cần phải cấp bách nhập tâm lấy thời đại; mà muốn được như vậy, cần phải lăn lộn vào thực tại cách mạng hơn nữa, hoà mình vào quần chúng cách mạng hơn nữa, chứ không phải thấy mình đi vào thực tế mà chưa có kết quả, thì đã nản lòng, rút lui.

Những nhà văn trong ba loại trên đây thi đua với nhau ráo riết và lâu dài, không kể tuổi, không kể thành phần xã hội xuất thân, mà kể về tư tưởng, tài năng, để trở thành những nhà văn chân chính của thời đại. Văn học trước Cách mạng phải mất ba mươi năm và hơn nữa để có được một cuộc nở hoa về nhân tài; văn học mới cần phải rút thời gian này ngắn hơn nhiều nữa. Chúng ta phân tích sự “giáp hạt tài năng”, không kiếm cớ cho sự chậm chạp, mà để ta cứ tiến bước vững vàng.



Câu chuyện thiên tài

Trong cuộc tranh luận về tập Việt Bắc năm 1955, có người đã lấy thơ Nguyễn Du, thơ Hồ Xuân Hương để đập thơ Tố Hữu. Nhiều người khác chân thành thắc mắc: Thời đại của ta vĩ đại như thế, tại sao chưa có một Nguyễn Du? Và cũng có nhiều người nữa nhìn sang Liên Xô, thật thà đặt câu hỏi: Chế độ xã hội chủ nghĩa vĩ đại và ưu tú, nhưng tại sao văn học xô viết chưa có một Tôn-stôi, chưa có một Púc-kin?

Đây cũng lại là một sự lẫn lộn vấn đề. Vấn đề Nguyễn Du, Tôn-stôi, Púc-kin là vấn đề thiên tài. Trong bước đi lên của lịch sử nhân loại, đã sản sinh ra những thiên tài văn nghệ kỳ diệu như thế; thi sĩ Pháp Bô-đơ-le đã gọi đó là những hải đăng chói lọi, chiếu sáng trong khoảng rộng và trong khoảng lâu. Theo tôi hiểu, hiện nay con người ta chưa tìm ra được cái quy luật để tạo nên các thiên tài. Mác và Ăng-ghen đã có nói: vấn đề không phải là “mỗi người đều phải thay thế cho Ra-pha-en [4] , mà là một người nào mang Ra-pha-en ở trong mình, đều phải được phát triển tự do”. Chế độ xã hội chủ nghĩa không nói rằng sẽ đẻ ra rất nhiều Sét-spia [5] và Gớt-tơ [6] , nhưng đảm bảo cho những ai có mầm mống trở thành Sét-spia và Gớt-tơ đều không bị chết non vì đói rét, bị thui chột vì thất học, bị bán văn non để nuôi miệng và vợ con, như Goóc-ki đã từng than rằng dưới những chế độ bạo lực cũ, có lẽ đã chết phí hàng chục thiên tài, hàng trăm vĩ nhân. Trái lại, những chế độ của chúng ta tạo điều kiện tối đa cho nhân tài nẩy nở.

Người ta không thể đem những thiên tài của quá khứ để chứng minh rằng nền văn học đi theo sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân hiện nay là kém, là xoàng. Chuyện thiên tài là chuyện bất thường, xuất sáo. Người nào có tà ý mới đem Nguyễn Du để đập các tác giả đang nảy nở hiện nay. Và Nguyễn Du đã sinh ra trong thời đại cuối vua Lê chúa Trịnh, đầu Nguyễn, việc đó không nói rằng chế độ phong kiến đang tan rã là chế độ tốt.

Một mặt khác, những thiên tài kỳ diệu thật, nhưng cũng không phải là “người trời” cử xuống; thiên tài có hai điều kiện: sinh lý và xã hội, nhưng chủ yếu là xã hội; trên cơ sở một bẩm sinh xuất chúng, họ phải học để thông kim bác cổ, họ phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân và thời đại; “thiên tài là một sự gắng sức lâu dài”, “thiên tài là sự vượt bực của một quần chúng”, hai yếu tố này đều đúng [7] . Thiên tài mà dựa được trên một thế giới quan tiền tiến thì tránh được những sai lầm tai hại, và, như nữ văn sĩ Ni-cô-lai-ê-va [8] nói, còn lớn mạnh hơn gấp trăm lần.

Vào dịp kỷ niệm bốn mươi năm Cách mạng tháng Mười, I-li-a Ê-răng-bua có viết bài “Cuộc đời chúng tôi chỉ mới là bắt đầu”, trong đó ông nói: từ năm nghìn năm xưa trở lại, đã từng có những nền văn minh rực rỡ, nhưng những nền văn minh đó là của một thiểu số làm và để cho một thiểu số hưởng, cho nên, khi gặp tai nạn, thì các nền văn minh đó đổ sụp như lầu dựng bằng lá bài, vì những người nô lệ không chịu bảo vệ nó. Với chính quyền Xô viết, “Lần đầu tiên, con người ta mới bắt đầu sáng tạo một nền văn minh nó không phải là công làm, cũng không phải là của hưởng của một nhúm người: nó do mọi người sáng tạo và nó là của chung mọi người. Với một nền văn minh như thế, không có một sự đụng phá nào hại nổi”… “Bốn mươi năm, là một khoảng thời gian ngắn, và khi những kẻ hoài nghi ở phương Tây bảo tôi: “Tôn-stôi của các anh đâu nào?”, tôi không trỏ với họ các nhà văn của chúng tôi, mà trỏ những độc giả của chúng tôi. Những người độc giả như thế này, Tôn-stôi chưa được biết đâu; và những Tôn-stôi của chúng tôi thì hiện giờ có lẽ chỉ mới đang học A, B, C, hoặc đang vọc cát trong các vườn hoa công cộng”. Văn học Xô Viết chưa có Tôn-stôi, chưa có Púc-kin, nhưng văn học Xô Viết sống trong lòng mỗi làng xóm, trong mỗi lòng người.

Văn học mới của Việt Nam đang bắt rễ sâu trong quần chúng, nhựa đang chạy lên cây, lên lá, hoa và trái chỉ mới chớm thôi, nhưng ta không thể thay bằng một cây hoa trái giấy nào khác.
 
T

tranquang

Chủ nghĩa hiện thực phê bình không đủ nữa

Ngồi chiêm ngưỡng dưới bóng cổ thụ sum sê của các tác phẩm cổ điển kỳ thú, ngúng nguẩy với việc đi trồng những cây mới của thời đại ta nay, đó lại là một khía cạnh nữa của sự lẫn lộn vấn đề. Không ai quý trọng, đề cao cái gia tài văn học ưu tú của dân tộc và của nhân loại bằng các Đảng Mác – Lê-nin. Nhưng chúng ta không thể lấy đó làm món ăn tinh thần duy nhất hay chính yếu cho những người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Chúng ta còn đòi hỏi một nền văn học mới khác nữa, con đẻ rứt ruột của thời đại chúng ta.

Một số nhà văn có thể nhầm lẫn về vấn đề này, chứ công chúng không nhầm lẫn. Vì số nhà văn đó quá mơ đến cái pho tượng của bản thân mình, nghĩ rằng những văn hào xưa nói đến cái buồn rầu, cái xam xám hắt hiu và được hậu thế tạc tượng, thì mình bây giờ cũng có thể viết như thế, và cũng để lại sự nghiệp được như thường. Quần chúng thì đọc Nguyễn Du, Ban-dắc, Sê-khốp… rất say sưa xong rồi, quần chúng vẫn cứ hỏi: Còn cái Điện Biên Phủ của chúng tôi, sao chưa thấy một tác phẩm nào diễn đạt cho xứng đáng?

Chúng ta nay, học tập những kinh nghiệm nghiên cứu của một nhà văn như Pha-đê-ép [9] cũng thấy rằng có những nhà văn cổ điển không những chỉ làm hiện thực phê bình, mà còn trông thấy, tạo ra những nhân vật tích cực của thời đại họ. Mặt khác, chúng ta cũng thấy rằng đó không phải là trường hợp chung của tất cả các nhà văn cổ điển. Nếu ta đứng về phương diện cần phải cải tạo cuộc sống, chứ không những tìm hiểu nó, nếu ta đứng về phía những người hiện nay vẫn đang còn bị mất nước và bị áp chế, bóc lột, họ đang cần một thứ văn học trực tiếp giúp họ phá cũi chặt xiềng, thì ta rất thông cảm với lời Lỗ Tấn [10] : “Trước cách mạng lớn, tất cả văn học đại khái là đối với mọi trạng thái xã hội thấy là bất bình, thấy là thống khổ, bèn kêu khổ, gào bất bình, trong văn học thế giới chẳng ít gì thứ văn học thuộc về loại ấy. Có điều thứ văn học kêu khổ gào bất bình ấy đối với cách mạng chẳng có ảnh hưởng gì, vì kêu khổ, gào bất bình mà không có lực lượng gì, thì kẻ áp bức mình vẫn không thèm đếm xỉa; con chuột tuy chít chít kêu, mặc dầu kêu ra được thứ văn học xuất sắc, mà con mèo vẫn cứ mạn phép ăn nó đi…”. Lỗ Tấn lại còn nói thêm rằng thứ văn học kêu khổ, gào bất bình kia chẳng khác nào người sắp thua kiện phát tờ kêu oan, kẻ áp bức đối với văn học đó lại thấy yên lòng là khác!

Khi chúng ta khâm phục các thiên tài cổ điển, không phải là chúng ta xoá nhoà hết tất cả ranh giới giữa hiện thực phê bình và hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cùng với Goóc-ki, chúng ta vẫn cứ thấy chủ nghĩa hiện thực phê bình rất bị giới hạn, rất không đầy đủ. Ví dụ như đọc Sê-khốp, ta gọi ông là Sê-khốp kỳ diệu”, viết hay đến nỗi ta phải giơ trang giấy lên soi xem có cái gì lạ ở trong ấy không… Nhưng không phải vì phục thiên tài Sê-khốp mà ta hoàn toàn tán thành cái thế giới quan của Sê-khốp.

Trong bài nói đầu tập truyện dịch Sê-khốp [11] , bạn Nguyễn Tuân không đồng ý với lời của tôi cho rằng “Tchékov nói tất cả cái đau xót dưới chế độ Nga hoàng, nói rất thiên tài, nhưng rồi dẫm chân một chỗ, không biết làm sao thoát ra được” [12] ; và để chứng minh rằng Sê-khốp không “giẫm chân tại chỗ”, Nguyễn Tuân trích dẫn những lời của một số nhân vật của Sê-khốp, như: “… mỗi ngày tôi lại nhủ tôi rằng chúng ta đang đi gần lại sự chiến thắng huy hoàng có thể được, và tôi muốn sống tới lúc đó để góp phần mình vào”, hoặc: “… tất thảy rồi sẽ đột biến như trong phép thần thông. Và rồi như thế đó, nơi đây sẽ mọc lên những lâu đài đồ sộ, những hoa viên kỳ diệu, những tia nước vòi rồng phi thường…”; hay là: “… Này đây là hạnh phúc, hạnh phúc đang cất bước…”. Và tác giả Sê-khốp cũng có nói: “Cuộc sống ấy, tôi không được thấy đâu, nhưng tôi biết rằng nó sẽ khác hẳn…”. Nếu với những lời mơ ước và tin tưởng kiểu như thế, mà Nguyễn Tuân đã thoả mãn, thì Khổng Phu Tử cũng đã từng lạc quan trước đó mấy nghìn năm rồi! (Đạo lớn mà làm được thì trẻ con có chỗ nuôi, người già có nơi dưỡng v.v…) Rất nhiều người đã mơ được như vậy dưới thời Nga hoàng và trong thời Pháp thuộc ở Việt Nam. Nguyễn Tuân cho như vậy là “những bước chuyển, những bước đi lên” của nhân vật, nhưng Elsa Triolet, người dịch và trình bày sách Sê-khốp cũng nói trong mào đầu kịch Ba chị em: “Những nhân vật họ cứ nói là đi, là chủ trương việc này việc nọ, và, cũng như trong một ca kịch mà người ta hát “Chạy lên, ta chạy lên nào…”, họ cứ dẫm chân tại chỗ”. Thực ra, thì ngay đến lúc Cách mạng tháng Mười 1917 đã thành công, cũng chưa có được cái “tất cả rồi sẽ đột biến như trong phép thần thông”, cái “hạnh phúc đang cất bước”, cái “những tia nước vòi rồng phi thường” mà Sê-khốp cho nhân vật nói đâu, mà trước mắt lại có quân đế quốc và bạch quân, có máu và nước mắt, đói và rét, có cơn thử lửa ghê gớm.

Nguyễn Tuân viết: “Nếu chúng ta đừng khó tính đòi Sê-khốp phải tiến bộ bất chấp cả điều kiện lịch sử của Sê-khốp, thì chúng ta sẽ công bằng hơn…”; với Nguyễn Du, sinh năm 1765, trước cả Cách mạng tư sản Pháp 1789, thì chúng ta trách tại sao bắt Từ Hải chết đứng, là trách sai; nhưng với Sê-khốp, thì chúng ta rất có thể đòi hỏi ít nhiều. Vì Sê-khốp cũng sống trong những điều kiện lịch sử như Goóc-ki. Thế mà khoảng thời gian trước sau Cách mạng Nga 1905, Sê-khốp thì viết kịch Ba chị em (diễn năm 1901), Trại anh đào (diễn năm 1904), còn Goóc-ki thì viết truyện Người Mẹ (1906), là truyện có một hiệu lực phi thường, được hàng trăm ngàn người vô sản hưởng ứng, được Lê-nin khen ngợi nồng nhiệt, bởi nó đã biểu hiện bản chất cách mạng của cái lực lượng xã hội sẽ nắm chắc được tương lai, sẽ xây dựng được xã hội mới. Goóc-ki trước sau vẫn tôn kính Sê-khốp vào bậc thầy, nhưng Goóc-ki không thể dừng lại ở cách nhìn của Sê-khốp. Goóc-ki viết trong một bức thư gửi cho Sê-khốp (1900): “Sau ông, không có một người nào có thể tiến bộ hơn trên con đường đó, không có người nào có thể mô tả những sự việc thật thà một cách chân thực như ông. Thời đại cần sự mô tả những anh hùng đã đến. Mỗi người đều đòi hỏi những cái rực rỡ có tính cách kích thích, những cái đó có thể không giống đời sống thực tế, nhưng ưu việt hơn, tốt hơn, đẹp đẽ hơn đời sống. Văn học hiện tại cần phải kiên quyết bắt đầu thấm vào đời sống. Có làm như vậy, bản thân đời sống mới có màu sắc, nghĩa là con người có thể sống một cách phóng khoáng hơn, rực rỡ hơn…”

Thiên tài Sêkhốp thật là kỳ diệu, nhưng tôi không thể quên được rằng, năm 1944, ở Hà Nội, dưới ách Pháp-Nhật thuộc, tâm trí tôi bí đường đến cùng cực, tôi đã đọc truyện Ba năm của Sê-khốp, và đọc xong, cái không khí hắt hiu trong đó chỉ càng củng cố thêm cái buồn của tôi. Và nói chung, sách của nhiều thiên tài xưa đã không giúp gì được tôi phá cái nhà tù tư tưởng siêu hình, chứ đừng nói gì phá cái nhà tù đế quốc! Tôi thiết nghĩ, nếu lúc đó tôi được đọc một quyển như Người Mẹ, thì chắc chắn sẽ đưa mầm sống lại cho tư tưởng tôi! Nhưng những sách cứu đời như vậy, thì đế quốc cấm tiệt. Lê-nin nói: Nhận giữ một cái gia tài và tự bằng lòng với cái gia tài đó, là hai việc khác nhau. Tôi rất đồng ý với nữ tác giả Mùa gặt, nói đến “những cố gắng vô ích của Sê-khốp để tìm một con đường đúng đưa đến “bầu trời kim cương”. Và tôi nghĩ rằng một truyện rất hay như Phòng số 6, nói cái xã hội dưới thời Nga hoàng là cả một cái nhà thương điên, nên in vào sách hơn là đăng thành “Phòng 6 số” trên sáu số báo Văn, vì một tuần báo của ta nay nên ưu tiên dành chỗ cho những truyện ngắn, phóng sự về chống hạn, sửa sai, hay xây dựng nhà máy.

Có một thực tế, là khác với Goóc-ki, Sê-khốp đã đạt tới mức cao nhất của hiện thực phê bình và không tiếp tục tiến lên được nữa. Còn Sê-khốp có dẫm chân tại chỗ hay không, thì không cần cãi nhau về danh từ.

Tôi lại thấy rằng chúng ta nay không nên dựa vào uy tín của một Sê-khốp để lại chủ trương nguyên xi như Sê-khốp: “… Về những vấn đề chuyên môn, chúng ta có những vị chuyên gia; công tác của những người này là phán xét về tập đoàn, về số phận tư bản, về độc hại của rượu, về hia ủng, về bệnh lý phụ nữ…” [13] Tôi rất đồng ý là người nghệ sĩ không nên (và cũng không thể) giải quyết những vấn đề đặt ra có tính cách chuyên môn quá, ví dụ như rượu, hia ủng, bệnh lý phụ nữ mà Sê-khốp nói; nhưng còn cái số phận của những tập đoàn tư bản, của chế độ tư bản, mà nhà văn của thời đại ta không quan tâm, thì quan tâm cái gì? Tôi lại nghĩ rằng nhà văn của thời đại ta gọi ra được bệnh và đề ra được cách chữa, ít nhất là hướng chữa, thì mới là đầy đủ nhiệm vụ, vì “kỹ sư tâm hồn” thì cũng phải bằng kỹ sư thường: nghĩa là tháo được máy ra, thì có thể lắp được máy lại, chứ tháo cho lung tung, be bét, thì chỉ là người phá hoại máy thôi, và một nhà văn xấu chỉ là một sâu mọt của tâm hồn. Tuy nhiên, tôi cũng nghĩ rằng: ở thời đại ta, cũng có thể có những trường hợp nhà văn chỉ mới đặt ra được câu hỏi, chứ chưa giải quyết được. Nhưng phải làm đúng như Sê-khốp nói, là “những câu hỏi đã được đặt ra xác đáng”. Mà đặt câu hỏi được xác đáng, thì phương ngôn Âu Tây bảo rằng: “biết đặt vấn đề, là đã giải quyết vấn đề”. Nhà văn ta có thể đặt vấn đề có tệ quan liêu, chứ không thể đặt vấn đề chính quyền dân chủ nhân dân là một bộ máy quan liêu, có thể hỏi là: Đảng làm thế nào lãnh đạo văn nghệ cho tốt?, chứ không thể hỏi là: Đảng có thể lãnh đạo văn nghệ được không? Nghĩa là nhà văn có thể đặt những vấn đề ra để cho nhân dân càng tăng cường cảnh giác, càng tự nghiêm khắc với những tệ lậu còn lại, càng thấy làm cách mạng không phải là đi ngao du, v.v… chứ không phải là buông thõng ra rất nhiều câu hỏi đặt rất sai để gieo rắc hoang mang vào quần chúng!

Đến như Nguyễn Tuân dựa vào Sê-khốp rồi nghĩ rằng chữa bệnh là “cái việc chuyên trị của người khác làm có kết quả hơn, trong một cái xã hội tiến bộ đã có sự phân công rành rọt”, thì là bạn đã nhầm lẫn quá! Ở đây ta đang nói bệnh của xã hội, bệnh của tâm hồn, chứ không phải bệnh lao hay bệnh đau mắt hột; và ở đây ta đang ở cái xã hội tiến bộ của Việt Nam dân chủ cộng hoà, chứ không phải cái xã hội tiến bộ thời Nga hoàng. Sự “phân công rành rọt” mà bạn nói đó, là phân công của xã hội kỹ nghệ tư bản, trong đó nhà văn chỉ được chuyên trị “tìm cái đẹp, cái tinh vi”, trong đó nhà văn không thèm chữa cái bệnh nào cả, mà bản thân mình lại là một con bệnh nặng hơn quần chúng. Chứ còn ở trong xã hội của ta, công tác có phân công rành rọt thật đấy, người thì lo viết văn, người thì lo lãnh đạo, nhưng trách nhiệm với toàn xã hội thì không phân, trách nhiệm thì là chung. Các bác sĩ đồng thời cũng là kỹ sư tâm hồn của bệnh nhân, để chữa chóng khỏi hơn, các cán bộ đi phát động tư tưởng quần chúng, các nhà giáo dục, v.v… đều là kỹ sư tâm hồn; đồng thời các nhà văn cũng lãnh đạo tư tưởng quần chúng tiến lên xã hội chủ nghĩa bằng phương tiện của mình là văn học. Chúng ta ở nước ta năm 1957, sao lại chép nguyên xi của Sê-khốp? Goóc-ki sống đồng thời với Sê-khốp, Goóc-ki vạch cho chúng ta con đường văn học cách mạng, con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa, nó vừa phê bình, vừa xây dựng, nó nặng về mở đường xây dựng, mà bao gồm cả phê bình.



Cái mới của văn học chúng ta

Những nỗi khó khăn có thật của một nền văn học trẻ không thể làm lu mờ cái tính chất chân lý của văn học cách mạng Việt Nam. Chúng ta phải xây dựng văn học ta nay với cái chất của cuộc đời mới này, với cái chất đã làm nên Điện Biên Phủ và giải phóng nửa nước Việt Nam, với cái chất đang dần dần thiết lập một xã hội không còn người bóc lột người trên miền Bắc này, chứ không với cái chất nào khác. Đó là cái chất quý báu, chắt chiu nảy ra từ xương máu của nhân dân quần chúng, cái chất người mới nhất của lịch sử, là con người sáng suốt dùng vũ khí đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc để giải phóng mình, nước mình, và toàn thể loài người. Đúng như vậy, không thể có hai tầng cách nhau, một tầng quần chúng nhân dân tạo ra cái chất lao động và đấu tranh, còn một tầng các nhà văn dùng một chất khác để tạo văn học.

Tôi thấy các nhà văn về trước nhấn mạnh quá nhiều vào cái điểm: tôi viết văn vì tôi thích, tôi viết văn cho tôi. Như vậy, họ xuất phát từ bản thân mình để làm nghệ thuật. Từ khi các Đảng Mác – Lê-nin lãnh đạo văn học, các nhà văn chân chính vẫn viết văn vì mình thích, vì cần thấy viết, không viết không sống được; nhưng với cái nhu cầu chủ quan sâu sắc ấy, họ hiểu rằng sáng tác văn học trước tiên là một sự việc của xã hội; tôi dám chắc người văn sĩ nào thích cô đơn nhất, (chẳng hạn như Sa-tô-bơ-ri-ăng [14] đến lúc chết vẫn còn thích cheo veo một mình một nấm mộ trên tảng đá của bờ biển Thánh Ma-lô) cũng sẽ không viết văn làm gì, nếu anh ta sống một mình, vĩnh viễn không có ai đọc văn anh. Con người là sản phẩm của sự lao động và của đời sống xã hội, thì văn học cũng là sản phẩm của xã hội, do những nhà văn làm. Sáng tác văn học là một nhiệm vụ xã hội giao cho nhà văn, một cuộc đặt hàng của xã hội. Nhấn mạnh vào điều ấy, đặt điều ấy lên trước nhất, là cái mới của văn học chúng ta.

Trong thời Pháp-Nhật thuộc ở nước ta, tôi đã phải ghê sợ trước cái tinh thần vô trách nhiệm của một số người viết văn, làm thơ, giữa cái xã hội đã sa đoạ đến cùng, lại còn lấy văn học kích thích cho nó sa đoạ hơn nữa; tôi đã phải thốt lên trong một bài báo: “… Có thời đại nào trong văn học ta mà trơ trẽn loã lồ đến như thế hay không?... Cái thơ thuốc phiện, cái thơ ê chề, chán chường, không tin tưởng, cái thơ lạnh như thịt người chết, sẽ theo cái thời đại truỵ lạc mà đi mất trong thời gian…” [15] Nhìn sang văn học tư sản của một nước như nước Pháp, từ trước 1945 và cho đến hiện bây giờ, tôi càng kinh hãi gấp nghìn lần. Có thể nói đó là một cảnh “tất cả dồn ra cống” (tout à l’égout): những người viết văn tha hồ tuôn vào văn học tất cả những sự giết người, ăn cướp, tự tiêm thuốc độc vào mình, băm vằm người yêu, bán dâm, truỵ lạc, điên loạn, thi nhau tả những thứ đó rất là tinh vi, thích thú; văn học thành ra một thứ cống rãnh để đón lấy hàng trăm, hàng ngàn nước bẩn, chất độc từ bút nhà văn “lấy của xã hội lại trả về cô đặc hơn cho xã hội”. Chúng ta không có thứ “tự do sáng tác vô hạn độ” ấy! Các bạn nhà văn thân mến của văn học mới chúng ta! Nếu rất nhiều khi chúng ta thấy đặt bút xuống khó khăn, chính là vì xã hội ta đặt nhiệm vụ nhà văn rất cao; chúng ta lo nghĩ đến tác dụng xã hội của cái mình viết; chúng ta tự nguyện chiếu cố đến khía cạnh này, lại khía cạnh khác; không phải ta chỉ viết cho đẹp, mà phải viết cho đúng, cho tốt, cho có lợi, và cho đẹp.

*


Ở đây, tôi chưa kiểm điểm những thành tựu của văn học mới chúng ta. Tôi hãy xét bản chất. Có cái gì mới đã nảy ra không?

Ta hãy xét về mặt thơ. Không phải bỗng chốc mười ba năm mà ta đã có được những Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Thị Điểm, Xuân Hương của thời nay; những tài lớn lao kia là kết tinh của năm, sáu trăm năm văn học cổ điển. Nhưng những thiên diễm tuyệt của các bậc đó, trên đại cục, có phải là “lựa chi những khúc tiêu tao” quá chăng? Có phải là “người buồn văn có vui đâu bao giờ” chăng? Đến nụ cười của Xuân Hương cũng là đắng cay nước mắt! Rồi tiếp theo, thơ Việt Nam trong thời mất nước thuộc Pháp, có phải cái buồn càng nặng nề, u uất, càng đi đến thuỷ tận sơn cùng của tâm trí, buồn đến chết, đến điên chăng? Nếu Cách mạng và quần chúng không đem đến cái vui của cần cù lao động, của gian khổ đấu tranh, nếu Đảng Cộng sản Đông Dương và Đảng Lao động Việt Nam không đem đến cái vui của tư tưởng, thì thơ Việt Nam còn khóc đến bao giờ? Trừ một số nhỏ thơ lạc loài từ lúc hoà bình (trong Kháng chiến, những trường hợp này rất hiếm) thì ta có thể nói: mặc dầu nghệ thuật chưa cô đúc, mặc dầu còn sơ lược hay gì gì nữa, ta có thể vốc lên trong toàn bộ thơ mới Việt Nam một niềm vui, một nguồn lạc quan dào dạt.

Trước kia, câu thơ cứ lửng lơ, cứ mềm, cứ đuối (Một cánh chim thu lạc cuối ngàn – Trăng vàng đã xế non tây ngậm buồn – Ấp úng không ra được nửa lời v.v…) bây giờ, những câu thơ trung bình cũng (thơ bộ đội):

Trung đội anh đóng bên bờ suối trong
Gió núi vang vang rạo rực lòng…

Ví dụ điển hình nhất có lẽ là hai câu ca dao sau đây:

Xưa:

Núi cao chi lắm núi ơi
Núi che mặt trời, không thấy người thương!

Con người trong chế độ cũ khiếp phục trước thiên nhiên, núi chắn trước mặt, núi chắn cả cuộc đời, cả số mệnh. Bây giờ:

Đèo cao thì mặc đèo cao
Trèo lên đến đỉnh, ta cao hơn đèo!

Bộ đội, dân công coi cái đèo, cái núi cùng lắm cũng chỉ như một con voi, có thể trèo lên cưỡi cổ được! Đồng ý, vài người có thể bảo câu trên nhiều nghệ thuật tính hơn, “hay” hơn, vì đứt ruột đứt gan hơn! Nhưng muốn làm cho được câu dưới, phải có cả một cuộc cách mạng! Câu dưới sảng khoái hơn, làm vui sướng lòng người hơn, tại sao nó lại không hay?

Trước kia, thơ nói con người bị động trước số mạng, (Bắt phong trần phải phong trần [16] , trước cảnh vật (Mỗi bận thu sang em lại vò lòng than khóc [17] , trước tâm hồn mình (Cứ lặng chuồi theo giòng cảm xúc [18] , bị động trước tất cả (Thuyền ơi thuyền theo sóng hãy lênh đênh [19] ; nay, những người công nhân kháng chiến chuyển một cái máy nặng hàng chục tấn, dưới trời mưa, và nhất quyết dành lấy chủ động, con người nhất định không lùi, không đuối, nhất định cải tạo thế giới:

Tay có trơn, ta xoa cát mà lôi,
Chân có trợt, bấm sâu thêm chút nữa…

Mưa bao giờ rụng hết lá rừng cây:
Chặt vài cành che thay nón đêm nay,
Và đường trơn dẫu có bằng đổ mỡ,
Cành cây đây ta làm thêm chân nữa.

Tôi thấy cùng với những câu thơ trèo đèo chuyển mây ấy, đã nảy ra một chất thơ mới lạ mà trước đây, thắp đuốc lên cũng không tìm thấy trong lịch sử thơ Việt Nam!

Trước đây, trong thơ chính thống của các thi sĩ, hình ảnh của quần chúng như thế nào? Tiếp theo những nàng con gái ông Viên ngoại họ Vương, là những tiểu thư nhà giàu hay những cô bán hàng cho mẹ, buồn tàn thu ngồi đan áo len. Bây giờ, những mẹ đĩ thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng được là cô “gái Bắc Giang” vào trong thơ rất là đường hoàng, cái cuốc phá đường của cô bóng trăng dọi vào rất là kính mến! Những “con mụ già nhà quê” trước kia, bây giờ đã thành Bầm ơi được đặt ngang hàng cùng với tổ quốc, yêu bầm yêu nước cả đôi mẹ hiền. Giật lấy một chỗ ngồi đẹp đẽ trong thơ cho quần chúng như vậy, những ai coi thường điều đó? Những ai cứ nhất định nhắm mắt lại không nhìn thấy cái mới trong thơ ta?

Xin lấy một ví dụ cá nhân. Bạn Tế Hanh [20] nhân mấy câu thơ trong bài Gió của tôi:

Hồn ta cánh rộng mở
Đôi bên gió thổi vào
Nghĩ những điều hớn hở
Như trời cao, cao, cao.

mà đặt vấn đề: “Không lẽ chỉ giai cấp bóc lột mới ngắm trăng? Nhưng thử hỏi những câu thơ ấy thuộc về tư tưởng giai cấp gì? Tư sản ư? Vô sản ư?...”. Tôi xin cả quyết rằng đó là tư tưởng của giai cấp vô sản; nhất định tư tưởng tư sản hiện nay không thể nhìn trăng, nhìn gió, không thể có cái vũ trụ quan như vậy. Bản thân tôi, trước Cách mạng, đã từng nghĩ rằng đời cứ đi đến chỗ suy, chết là quy luật cuối cùng của vũ trụ (1934):

Hoa nở để mà tàn
Trăng tròn để mà khuyết.

Đứng trước vũ trụ, tôi rụt cổ lại (1939):

Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo.
Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da.

Nhìn vũ trụ bao la rồi cụp đầu xuống thấy mình chỉ là một hạt bụi, thấy vô cùng cũng là một với hư vô, đó là “tôi” trước Cách mạng. Và hệ thống tư tưởng tư sản sa đoạ hiện nay, nó co cúm lại sợ cái chết của giai cấp nó, nó “suy bụng ta ra bụng của vũ trụ”, nó buồn tận thế, nó làm sao có thể lạc quan! Chính vũ trụ quan mác-xít đã cho tôi được thấy “Trời tròn như buồm căng, Tất cả lên đường mới”, thấy vũ trụ (cũng như thế giới) tái tạo mãi, tiến bộ mãi, và trong bài Gió, tôi có ý thức bắt tư tưởng tôi phải tiến theo. Chỉ có đi với Cách mạng, tôi mới có cái nhìn như vậy được.

*


Trên đây, tôi có nói văn học trước cách mạng có một số tác phẩm nhuần nhuyễn. Nhưng đó không phải là trường hợp phổ biến. Cũng như không thể nhìn những tác phẩm của ta nay đều là sơ lược. Chúng ta cần đề phòng cái tâm lý cứ quay về thi vị hoá những ngày xưa, nhất là những ngày đó gắn liền với thời còn đi học, với tuổi trẻ phơi phới của mình. Tôi có anh bạn cứ nhắc mãi “thuở Phong hoá, Ngày nay”, nhưng khi những tác phẩm cũ được in lại, thì trừ một số anh vẫn thấy có giá trị, còn nhiều quyển thì anh đến tìm tôi, kêu rằng bây giờ anh đọc lại thấy tầm thường, “sơ lược”, không ngờ trước kia mình dễ tính thế. Quả có như vậy, một số người còn quá quen miệng với những món ăn cũ, quá lạ miệng với những món ăn mới. Các tác giả ngày nay phải nấu nướng cho tốt lành hơn nhiều nữa, thơm ngon hơn nhiều nữa, nhưng mặt khác, nhiều độc giả cũng phải cải tạo cái lưỡi của mình. Nếu họ cứ chỉ thích cho thật béo, thật chua, thật cay, thật nhiều dầu dấm, thật giật gân cái lưỡi, thì văn học ta e cũng khó chiều được họ. Văn học chúng ta quan niệm con người trước tiên là một sinh vật lao động, một sinh vật biết nghĩ đến quyền lợi của tập thể, một sinh vật làm cách mạng, nó rất biết hưởng những sinh thú của ăn uống, yêu đương, nhưng nó không phải sống để chuyên môn tìm khoái cảm. Có người đã từng nói rằng Cholokhov [21] cũng tầm thường thôi, là Boris Polévoi [22] không phải nhà văn. Họ không hiểu rằng Liên Xô là nước văn minh nhất, vì văn minh là chăm sóc cho con người; họ không hiểu rằng văn học Liên Xô, đứng về mặt tính chất, nội dung, và tác dụng xã hội mà nói, là nền văn học tiền tiến nhất, giầu tư tưởng tính nhất trên thế giới, diễn đạt những con người mới nhất trong lịch sử. Nếu chúng ta nhìn bằng con mắt của quần chúng Việt Nam, yêu cầu rằng các nhân vật trong tiểu thuyết, trên sân khấu không những là Thuý Kiều, Kim Trọng, hay Loan, Dũng [23] , mà chính yếu phải là những Nguyễn Thị Chiên, những Ngô Gia Khảm, những Trần Bình Lục, v.v…, nếu chúng ta đòi hỏi một nền văn học phản ánh thời đại, thì ta quý mến, cổ võ mỗi thành tựu của nền văn học mới. Có những chương, những trang của Vùng mỏ, Đất nước đứng lên, Truyện Tây Bắc, Xung kích, Truyện anh Lục, Đôi mắt, Con đường sống, Con trâu, Làng, v.v… mặc dầu tôi cho rằng các tác phẩm hiện nay chưa nhuần nhuyễn, tôi đọc rất ưa thích, và tự hỏi: Sao lại cứ phải nói là thua văn trước Cách mạng? Trái lại, có những ưu điểm mà văn trước Cách mạng không thể nào có nổi!


Nhìn tới đằng trước

Cái xã hội có giai cấp có đến hàng vạn tuổi; cái xã hội không giai cấp chỉ mới có bốn mươi tuổi ở Liên Xô (đó là chưa trừ những năm nội chiến, và thời kỳ chưa xoá hết giai cấp). Trong những nghìn năm tích luỹ văn hoá về trước, nhân loại đã sinh ra được những thiên tài văn học cổ điển mà chúng ta nay vô cùng tôn trọng và tha thiết học tập. Mặt khác, những xã hội xã hội chủ nghĩa nay và mai, trong thời gian lồng lộng trước mặt, ai dám bảo là sẽ không sinh ra nhiều thiên tài? Chúng ta tưởng tượng khi những xã hội không giai cấp này chỉ được một trăm tuổi thôi, sự nảy nở của nền văn học mới sẽ không biết đến thế nào mà nói.

Và ngay hiện giờ, trong những nhà văn cộng sản và những nhà văn đi theo ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới, chúng ta có thể thấy những văn tài lớn lao như Gorki, Maiakovski, Alexis Tolstoi, Cholokhov (Liên Xô), Henri Barbusse, Romain Rolland, Aragon (Pháp), Bertolt Brecht (Đức), Andersen Nexo (Đan Mạch), Nazim Hikmet (Thổ-nhĩ-kỳ), Pablo Neruda (Si-li), Jorge Amado (Bờ-rê-din), Lỗ Tấn, Quách Mạt Nhược (Trung Quốc) và bao nhiêu văn tài ưu tú khác!

Con đường đúng, thì ta theo, dù có deo neo, vất vả. Cái cây tốt, thì ta trồng, ta tưới, đừng có nóng ruột nhổ rễ lên xem; dù hoa trái còn lưa thưa, nhưng vun gốc to, sẽ được nhiều trái lớn. Văn học nước ta phải cắm rễ vào quần chúng, phải phục vụ công nông binh là đa số, phải gắn chặt với đấu tranh thống nhất và đấu tranh tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, văn học phải có tư tưởng tính cao và nghệ thuật tính đẹp, đó là cái mới khẳng định của văn học chúng ta.

1-1958

 
Top Bottom