[Văn 9]: Phân tích Kiều ở lầu ngưng bích

K

kill_dauto_97

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Phân tích đoạn thơ:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi​

Kiều ở lầu Ngưng Bích - Truyện Kiều​
:confused::confused::confused:

Chú ý: [Văn 9]:+tiêu đề
Đã sửa!
 
Last edited by a moderator:
C

candyxbaby

Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du , đoạn nói về tâm trạng của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích vẫn được người đọc xưa nay coi là một trong những đoạn thơ tuyệt vời về nghệ thuật tả cảnh và tả tình. Thế nhưng cái hay của cả đoạn thơ như ngưng đọng lại trong những câu thơ cuối cùng, ở bốn bức tranh :
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?
Buồn trông nội cỏ dàu dàu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Tám câu thơ trên là cảnh nhưng thực sự là tình, Nguyễn Du tả cảnh nhưng thực sự là tả tình.
Bốn bức tranh đều được nhà thơ khởi đầu bằng hai tiếng "buồn trông" nghĩa là nỗi buồn đã ssẵn tự trong lòng trước khi nhìn vào cảnh và ngắm cảnh cùng với nỗi buồn ấy, vừa ngắm vừa buồn, càng ngắm càng buồn, càng buồn càng ngắm. Nói như thế thật là hợp lý, thật đúng với tâm trạng Thúy Kiều lúc này. Vì sao vậy ? Vì nỗi buồn của Kiều là nỗi buồn lớn, không phải là một nỗi buồn thoáng vqua vì một duyên cớ chốc lát, mà là nỗi buồn đeo đẳng suốt cả đời người. Quả thạt, trong suốt phần đầu của Truyện Kiều, chưa bao giờ Kiều buồn như lúc này, bởi chưa bao giờ Kiều kịp có lúc để nhìn vào chuyện buồn của mình, ngẫm cho kỹ, thấm cho sâu về chuyện buồn ấy. Xa Kim Trọng, phải bán mình chuộc cha, Kiều chỉ kịp đau đớn. Nhưng gia biến nặng nề, nỗi đau của cha, nỗi đau của mẹ, nỗi buồn của các em, những điều ấy đòi hỏi Kiều phải đứng vững, tạm quên mình đi để giải quyết việc nhà cho trọn đạo một người con, một người chị. Phải rời gia đình, cùng Mã Giám Sinh ra đi, trong nỗi buồn vì không vẹn tình với Kim Trọng, Kiều có niềm an ủi đã cứu được gia đình. Vừa đến Lâm Tri, bước vào nhà mụ Tú Bà, chưa kịp hồi sức sau một chặng đường dài "Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh " , Kiều đã hoảng hốt vì quang cảnh nhà mụ, Kiều gặp ngay một trận "tam bành" của con mụ buôn thịt người ác độc ấy. Có lẽ Kiều đã đau, đã nhục,đã căm hờn,nhưng chưa kịp buồn.
 
H

heroineladung

Bài làm:
Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn thơ hay nhất của “Truyện Kiều”, kiệt tác của thi hào dân tộc Nguyễn Du. Bi kịch nội tâm của Thuý Kiều trên con đường lưu lạc những ngày đầu đã được ngòi bút thiên tài của nhà thơ miêu tả qua hình thái ngôn ngữ nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Những vần thơ buồn thương mệnh mang đã gieo vào lòng người đọc nhiều xót xa khôn nguôi về những kiếp người “bạc mệnh” ngày xưa…
Sáu câu đầu là bức tranh thiên nhiên tại lầu Ngưng Bích . Gợi tả hòan cảnh cô đơn của Kiều
Trước hết là hình ảnh bị giam lỏng : “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân”.
Khóa xuân là khóa kín tuổi xuân, ý nói là bị cấm cung. Hai chữ cấm cung cho thấy Kiều bị giam trong lầu Ngưng Bích như co gái bị cấm cung . Nàng trơ trọi giữa một khung cảnh thiên nhiên vắng lặng, heo hút , không một bóng người :
“Vẻ non xa tấm trăng gần soi chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”.
Câu thơ "Bốn bề bát ngát xa trông” như mở ra trước mắt Kiều một không gian rợn ngợp. Từ lầu cao nhìn ra là những dãy núi bát ngát điệp trùng xa mờ và mảnh trăng gần gũi như sắp chạm đầu. Trước mắt nàng là cảnh vật bốn bề xa trông bát ngát, bên thì từng đụn cát vàng nhấp nhô như sóng lượn , bên thì những đám bụi hồng trải khắp dặm xa.
Cảnh thiên nhiên mênh mông hoang vắng đó càng làm nổi bật hơn nỗi niềm cô đơn, buồn tủi của Kiều khiến nàng thêm bẻ bàng chua xót :
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya. Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Cụm từ “mây sớm đèn khuya” là từ thời gian khép kín. Khuya và sớm, đêm và ngày Kiều lẻ loi trơ trọi chỉ biết làm bạn với mây và đèn . Có thể nói đây là lúc nàng cô đơn tuyệt đối.
Trong xúc cảm, trước hết, nàng nhớ đến Kim Trọng. Nàng hình dung ra người yêu đang sầu tư ngóng đợi. Có lẽ hơn lúc nào hết, trong lúc này, Kiều thương Kim Trọng vô hạn. Trong tình thương ấy có một chút ân hận ,nàng cảm thấy như mình có lỗi với chàng. Để chàng phải ngày đêm trông ngóng, đau khổ, mòn mõi “rày trông mai chờ”, Kiều xót xa, ân hận như một kẻ phụ tình.
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng. Tin sương luống những rày trông mai chờ”.
Càng thương nhớ người yêu , càng tiếc nuối mối tình đầu không trọn vẹn, Kiều càng thấm thía tình cảnh bơ vơ nơi đất khách quê người của mình và càng hiểu tấm lòng sắt son của mình đối với Kim sẽ không bao giờ phai nhạt.
“Bên trời góc bểbơ vơ. Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”.
Ở bốn câu thơ còn lại , Kiều xót xa thương nhớ cha mẹ :
“Xót người tựa cửa hôm mai . Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ ? Sân Lai cách mấy nắng mưa. Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Với cha mẹ, nỗi nhớ thương của Kiều cũng ngập tràn xót xa, da diết . Tuy đã bán mình cứu cha và em khỏi cảnh ngục tù nhưng Kiều vẫn thấy mình chưa trọn đạo làm con . Nàng hình dung ra bóng song thân giàyếu đang ngày đên “tựa cửa” ngóng trông mình và xót xa tự nghĩ ai sẽ là người thay mình chăm sóc cha mẹ . Chỉ với bốn câu thơ độc thọai nội tâm, tác giả đã thể hiện một cách sinh động , cao đẹp và đầy xúc cảm tấm lòng hiếu thảo của Kiều.
Trong đọan thơ này , tài năng của thi hào Nguyễn du còn thể hiện ở chỗ đã đặt tình trước hiếu khi viết về tâm trạng Kiều. Để nàng nhớ người yêu trước rồi mới nhớ đến cha mẹ. Điều này thật chuẩn xác và khách quan vì đối vơi cha mẹ Kiều đả tự bán mình, như vậy cũng đã đền đáp được một phần chữ hiếu, công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Còn đối với Kim Trọng, Kiều đã thấy mình lỗi hẹn như một người bạc tình:
“Kim lang ơi, hỡi Kim lang. Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
Đây là một chi tiết nhỏ nhưng nó cho thấy cái tinh tế trong tâm lý nhân vật mà Nguyễn Du nhận ra đã thể hiện một cách cực kỳ chính xác.
Tám câu cuối là tâm trọang buồn lo của Kiều qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình :
“Buồn trông cửa bể chiều hôm. Thuyền ai thấp thóang cánh buồm xa xa.
Buồn trông ngọn nước mới sa. Hoa trôi man mác biết là về đâu.
Buồn trông nội cỏ dàu dàu. Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”.
“Buồn” và “trông”. Buồn và cô đơn, nhìn đâu cũng thấy cảnh vật như có hồn, như cũng buồn theo mình. Cụm từ “buồn trông” như một điệp khúc vừa tạo ra nhạc điệu du dương vừa thể hiện nỗi buồn lớp lớp trào dâng trong lòng Kiều. Có những nét tả thực với “cửa bể, cánh buồm, chân mây, tiếng sóng…” nhưng đều chứa đựng nhiều nghĩa ẩn dụ , gợi mở những liên tuởng phản ảnh nỗi lòng Kiều . Kúc này nàng đang cảm thấy số phận cô đơn mong manh trong hiện tại và hãi hùng trước tương lai bão táp như đang chực chờ, đe dọa:
“Buồn trông gió cuốm mặt ghềnh. Ào ào tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Nàng tưởng tượng như mình đang ở giữa biển khơi, bốn bề ầm ầm sóng vỗ . sóng dữ gào thét, cuồng nộ, tiếng dội bên tai dâng tràn dội cả vào tâm hồn , vây bủa nàng như dự báo cơn giông bão sẽ đổ ập xuống đầu không biết vào lúc nào…
Tóm lại, “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn thơ kỳ diệu. Một bức tranh đa dạng, phong phú về ngoại cảnh và tâm trạng khắc hoạ nỗi đau buồn, sợ hãi mà Kiều đang nếm trải, dự báo sóng gió bão bùng mà nàng phải trải qua trong 15 năm trời lưu lạc “thanh lâu hai lựơt, thanh y hai lần”, có lửa nồng, có dấm thanh, cười ra tiếng khóc, khóc nên trận cười…
 
K

kenzy_ly_98

Mình k có nhìu nhưng up lên các pn coj thử...Bài tự làm nên đừng chê nhé...
-Cảnh thiên nhiên qa kon mắt đau thơng của Kiều,tàn tạ và héo úa,có hoa có cỏ nhưng chỉ là hoc trôi cỏ héo. Trời mây mịt mờ,dòng nước cuốn trôi những cánh hoa rơi. Gió cuốc sóng xô ầm ầm đầy đe dọa.Nỗi đau thương trong lòng người tràn qua đôi mắt thấm đẫm qua cảnh vật.
-Mỗi cảnh vật gợi một nỗi buồn khác nhau của Kiều:nhìn cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển xa xa gợi lên trog lòng nàng nỗi buồn cô đơn, hi vọng đoàn tụ với gđình, mỏng manh như ảo ảnh phía chân trời.H/ảnh cánh hoa tàn héo trôi trên dòng nước đục gợi 1 nỗi buồn vỳ dự cảm số phận trôi dạt ko có điểm dừng.
-Bao vây xung quanh là một không gian mịt mờ, ảm đạm: Cỏ nội héo úa, trời mây nhạt nhòa. Nỗi tuyệt vọng,xót xa trào dâng khi nàng nghĩ đến tương lai không lối thoát. Âm thanh ầm ầm của tiếng sóng gợi tâm trạng lo sợ đến hãi hùng, vì dự cảm hiểm họa có thể ập tới bất cứ lúc nào.Bút pháp tả cảnh ngụ tình được Nguyễn Du thật điêu luyện.
-Hệ thống từ láy thuần việt được Nguyễn Du sử dụng rất tinh tế: ầm ầm,xanh xanh...vừa gợi nỗi nhạt nhòa của cảnh, vừa gợi những cung bậc khác nhau đang chất chứa. Từ buồn cô đơn đến buồn lo,tiếp tới là buồn tuyệt vọng, cuối cùng là sợ hãi khủng khiếp. Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật tài hoa điên luyện bậc thầy.Đặc biệt là bút pháp tả chảnh ngụ tình độc đáo,sử dụng ngôn ngữ tinh tế sáng tạo. Nổi bật là hệ thống từ láy,hình ảnh thơ chọn lọc,hàm súc,gợi hình gợi cảm...
......................................................................................................................................................................................................................................................................................

8-|8-|8-|8-|8-|8-|8-|8-|8-|8-|
;) Thủy ♥ Tùng ;);)
 
T

trungsuvan

Đại thi hào Nguyễn Du sinh ra và lớn lên trong gia đình có truyền thống làm quan thời Lê – Trịnh. Ông là người có kiến thức sâu rộng , am hiểu văn hóa dân tộc và văn chương Trung Quốc. Cuộc đời từng trải, đi nhiều, tiếp xúc nhiều đã tạo cho Nguyễn Du một vốn sống phong phú và niềm cảm thông sâu sắc với những đau khổ của nhân dân. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giá trị lớn bằng chữ Hán và chữ Nôm, trong đó phải kể đến tác phẩm chữ Nôm xuất sắc nhất của ông – “Đoạn trường tâm thanh”, thường được gọi là Truyện Kiều. Một trong những nét đặc sắc của nghệ thuật Truyện Kiều chính là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tiêu biểu là 8 câu thơ cuối trong trích đoạn “Kiều ở Lầu Ngưng Bích” :
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Lúc Kiều bị giam lỏng, Nguyễn Du đã chọn “ tình trong cảnh ấy và cảnh trong tình ấy”, hay nói cách khác là biện pháp tả cảnh ngụ tình, để miêu tả tâm trạng nàng. Mỗi hình ảnh thiên nhiên trong bức tranh phong cảnh đồng thời là 1 ẩn dụ của tâm trạng Kiều. Hình ảnh cánh buồm thấp thoáng nơi cửa bể chiều hôm gợi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết của Kiều. Hình ảnh cánh hoa trôi man mác dưới dòng nước gợi nỗi buồn về số phận trôi nổi, lênh đênh không biết đi đâu về đâu của Kiều. Hình ảnh nội cỏ rầu rầu giữa chân cây mặt đất gợi số phận bi thương khi nhìn vào tương lai mờ mịt, nhạt nhòa. Thiên nhiên dữ dội với “ gió cuốn mặt duềnh” ; “ ầm ầm tiếng sóng” cho thấy sự lo sợ hãi hùng trước những tai họa đang rình rập nàng Kiều. Mỗi biểu hiện của cảnh vật, từ cảnh chiều tà trên bờ biển, từ cánh buồm thấp thoáng đến hình ảnh cánh hoa trôi man mác, từ nội cỏ rầu rầu đến gió cuốn mặt duềnh, ầm ầm tiếng sóng đều thể hiện rõ nét tâm trạng và cảnh ngộ cảu Kiều. Cảnh từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động cũng giống như tâm trạng của Kiều, mong mỏi nỗi buồn man mác, mông lung đến lo âu kinh sợ
Hai câu cuối với hình ảnh ngọn gió cuốn mặt duềnh, với tiếng sóng ầm ầm kêu quanh ghế ngồi như báo hiệu trước dông bão số phận sẽ nổi lên vùi dập số phận Kiều. Điệp ngữ “ Buồn trông” đứng đầu 4 câu thơ đã diễn tả nỗi buồn dằng dặc, triền mien như những lớp sóng trào đang dồn dập, đang tới tấp xô đến cuộc đời Kiều. “Buồn trông” là điệp khúc của đoạn thơ và cũng là điệp khúc của tâm trạng Thúy Kiều
 
V

vjtkon_hokiu

Em đang cần cái này bác ạ

Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du , đoạn nói về tâm trạng của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích vẫn được người đọc xưa nay coi là một trong những đoạn thơ tuyệt vời về nghệ thuật tả cảnh và tả tình. Thế nhưng cái hay của cả đoạn thơ như ngưng đọng lại trong những câu thơ cuối cùng, ở bốn bức tranh :
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?
Buồn trông nội cỏ dàu dàu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Tám câu thơ trên là cảnh nhưng thực sự là tình, Nguyễn Du tả cảnh nhưng thực sự là tả tình.
Bốn bức tranh đều được nhà thơ khởi đầu bằng hai tiếng "buồn trông" nghĩa là nỗi buồn đã ssẵn tự trong lòng trước khi nhìn vào cảnh và ngắm cảnh cùng với nỗi buồn ấy, vừa ngắm vừa buồn, càng ngắm càng buồn, càng buồn càng ngắm. Nói như thế thật là hợp lý, thật đúng với tâm trạng Thúy Kiều lúc này. Vì sao vậy ? Vì nỗi buồn của Kiều là nỗi buồn lớn, không phải là một nỗi buồn thoáng vqua vì một duyên cớ chốc lát, mà là nỗi buồn đeo đẳng suốt cả đời người. Quả thạt, trong suốt phần đầu của Truyện Kiều, chưa bao giờ Kiều buồn như lúc này, bởi chưa bao giờ Kiều kịp có lúc để nhìn vào chuyện buồn của mình, ngẫm cho kỹ, thấm cho sâu về chuyện buồn ấy. Xa Kim Trọng, phải bán mình chuộc cha, Kiều chỉ kịp đau đớn. Nhưng gia biến nặng nề, nỗi đau của cha, nỗi đau của mẹ, nỗi buồn của các em, những điều ấy đòi hỏi Kiều phải đứng vững, tạm quên mình đi để giải quyết việc nhà cho trọn đạo một người con, một người chị. Phải rời gia đình, cùng Mã Giám Sinh ra đi, trong nỗi buồn vì không vẹn tình với Kim Trọng, Kiều có niềm an ủi đã cứu được gia đình. Vừa đến Lâm Tri, bước vào nhà mụ Tú Bà, chưa kịp hồi sức sau một chặng đường dài "Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh " , Kiều đã hoảng hốt vì quang cảnh nhà mụ, Kiều gặp ngay một trận "tam bành" của con mụ buôn thịt người ác độc ấy. Có lẽ Kiều đã đau, đã nhục,đã căm hờn,nhưng chưa kịp buồn.






Cho em xin...tội là hơi ngắn thôi ạ[YOUTUBE][/YOUTUBE]@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-@};-:p:p:p:p:p:p:p:p:p:p:p:p:p:p:p:p:p:p:p:p:p:p:p:p:p:p:p:p:p:p:p:p
 
S

s_word

''Kiều ở lầu Ngưng Bích'' là đoạn trích nằm ở đoạn hai: gia biến và lưu lạc. Đây là một trong những đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả nội tâm và bút pháp tả cạnh ngụ tình. Đoạn thơ cho ta thấy tình cảnh cô đơn và tấm lòng hiếu thảo, thủy chung của Thúy Kiều.
Sáu câu đầu trong đoạn trích chính là hoàn cảnh cô đơn đáng thương của Thúy Kiều khi giam mình ở lầu Ngưng Bích
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ
 
Last edited by a moderator:
T

tayhd20022001

Nếu toàn cảnh Truyện Kiều có bộ tranh thơ Tứ Bình nổi tiếng, thì ở một góc độ nào đó, bốn khung tranh tâm trạng độc đáo này cũng là bộ Tứ Bình về cảm xúc. Vừa có nhạc điệu từ điệp từ liên hoàn buồn trông, vừa khắc họa cảnh sắc từ nhiều góc độ, tám câu cuối Kiếu ở lầu Ngưng Bích thật đúng là một trong những đoạn thơ đỉnh cao trong hơn ba nghìn dòng thơ Truyện Kiều.

Chủ đề: Bức tranh tâm trạng qua tám câu cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
Nền văn học Việt Nam xưa được ví như bức tường cao dày của xúc cảm và tri thức. Trước những bước đi của thời gian, dường như nó càng thêm vững chãi, uy nghi và lộng lẫy hơn bao giờ hết. Bằng chứng là, dù có mấy trăm, mấy nghìn năm trôi qua, người ta vẫn không ngừng lần mò, tìm về với tinh hoa nghệ thuật của nền cổ văn vốn đã ít nhiều nằm khuất dưới lớp bụi mờ thời gian. Một trong những thi phẩm cho đến tận bây giờ vẫn không giảm sức hút, vẫn được cho là còn quá nhiều để hiểu, để khám phá, chính là Đoạn trường tân thanh- kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du, biểu tượng lớn cho văn học trung đại Việt Nam. Xuyên suốt tác phẩm là nét gợi hình, tả cảnh, lối tự sự độc đáo, đầy sáng tạo. Không ngoại lệ, nghệ thuật tả tâm cũng là yếu tố đẩy Truyện Kiều lên đỉnh cao rực rỡ. Hai mươi dòng lục bát Kiều ở lầu Ngưng Bích thể hiện rõ ánh nhìn sâu của Nguyễn Du trong từng xúc cảm mỏng manh của Kiều.

Đoạn trích nằm ở phần thứ hai của truyện- Gia biến và lưu lạc, như những cụm mây đen đầu tiên che phủ lên cuộc đời Kiều. Đành đoạn dứt tình với Kim Trọng, nàng nguyện hiến thân cứu cha. Cái trong trắng của một tiểu thư từ nhỏ được mẹ cha bảo bọc, tình phụ tử sâu nặng và lòng hiếu thảo của đứa con ngoan đã đẩy nàng Kiều vào vòng lừa lọc từ những kẻ buôn người. Nỗi uất ức của nàng được Tú Bà xoa dịu bằng ngày tháng giam cầm ở lầu cao với cớ rằng để nàng tịnh tâm, bình phục. Ngọn lầu ấy tên là Ngưng Bích, một cái tên quá đẹp so với những cô đơn, tẻ nhạt mà nàng Kiều phải trải qua tại đây. Tọa lạc ở một vùng nổi tiếng với kỹ nghệ ngọc trai thu hút nhiều thương gia, lầu Ngưng Bích như hạt ngọc bích quý giá ngưng đọng, cốt để khóa chặt cái thời xuân sắc tươi đẹp nhất của người con gái họ Vương. Trái hẳn với không khí buôn bán sầm uất bên ngoài, bao trùm lấy không gian trong lầu chỉ là tiếng sóng vỗ ào, ngọn gió biển nặng nề lướt qua, và những suy tư khó nhọc của một phận hồng nhan. Lầu Ngưng Bích nói cho cùng cũng chỉ mới là điểm khởi đầu cho đắng cay về sau của Kiều, nhưng âm điệu buồn da diết của cả đoạn trích đã cho thấy bao đau thương dồn nén trong hồn người, thấm đẫm cả một vùng trời đất rồi lại sắt se vào lòng. Một khoảng mênh mang trĩu nặng trao qua nhận lại giữa người với cảnh đã làm nên khúc thiên sầu Kiều ở lầu Ngưng Bích, đặc biệt là tám dòng tuyệt bút cuối cùng.

Chưa bước vội vào tấm tranh ảm đạm của tâm trạng nàng Kiều, Nguyễn Du khéo léo gợi mở trước không gian nơi lầu son cao đẹp về hình thức nhưng mang đến cho con người ta cái bi thảm về tinh thần. Nếu nói sáu dòng thơ mở đầu là bức họa bằng ngôn từ thì đó thật sự là một bức họa đẹp. Có núi chập chình ngoài xa, có vầng trăng treo trên đỉnh đầu, không gian khoáng đãng mênh mông. Nhưng trong cái cao rộng mỹ mãn của thiên nhiên lại thiếu nét đẹp con người. Khung cảnh mờ ảo chìm trong cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia vắng vẻ đến quạnh hiu, nàng Kiều dường như chỉ là cái bóng nhỏ lạc lõng giữa cảnh vật xung quanh. Một ngày từ sớm cho đến khuya, Kiều chỉ biết quanh quẩn với mây với đèn. Nàng đối cảnh nhiều tới nỗi một phần đất trời quạnh quẽ như hóa tâm trạng, làm dâng đầy cái niềm xót xa đau đáu trong lòng bấy lâu. Càng hướng ra thiên nhiên, Kiều càng thấy rõ sự cô đơn vây kín từng ngày, càng day dứt khôn nguôi, nhớ cha, nhớ mẹ và nhớ chàng Kim ngày nào cùng hẹn ước. Với Kim Trọng, nàng vẫn chưa thể dẹp yên suy nghĩ phụ bạc, chính nàng đã tự tay cắt đứt sợi tơ hồng, đã đẩy chàng vào mỏi mòn trông ngóng. Niềm tin sắt đá vào lời thề dưới trăng đêm ấy sẽ là lưỡi dao nhọn đâm vào tim chàng, khi mà giờ đây, thân phận nàng đã “hạc nội mây ngàn”, không biết rồi lưu lạc về đâu. Kiều bây giờ có lẽ đã thấm thía cái trơ trọi, bơ vơ nơi đất khách, nhưng mối tình đầu đẹp như mộng ngày ấy vẫn gieo cho Kiều khát vọng son sắt, thủy chung. Với cha mẹ, nàng thương xót hình dung cảnh đấng phụ thân, phụ mẫu thấp thỏm chờ trông. Qua cơn biến cố, rồi mẹ cha sẽ như thế nào? Nàng đi rồi, ai lo phụng dưỡng bậc sinh thành? Đành là dứt tình vì cha, nhưng trong tận thâm tâm một đứa con hiếu thảo, bấy nhiêu vẫn chưa thật tròn đạo làm con. Hết cái day dứt phụ tình Kim, nàng lại nghĩ đến cái tội phụ công sinh dưỡng, không thể chăm sóc cha mẹ khi về già là một trong những nỗi niềm cứ canh cánh trong Kiều lúc bấy giờ. Từ những nỗi niềm buồn thương đó, cụ Nguyễn Du đã khéo léo tô thêm màu xám trên ánh nhìn xa xăm của Kiều, đẩy sầu não lên thành đỉnh điểm, qua tám câu khép lại đoạn trích:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Tâm trạng buồn nhớ của Kiều giờ đi cả vào ánh mắt. Người buồn thì cảnh cũng buồn. Vẫn là cảnh đó, không gian đó, nhưng đã chất chứa phần nào nỗi lòng Kiều. Khung tranh buồn thứ nhất mở ra ngay thời điểm chiều hôm- là thời điểm quen thuộc của nghệ thuật, của những lưu luyến khó tả. Cửa bể chiều hôm gợi trước mắt ta hình ảnh những tia nắng leo lắt cuối ngày phản chiếu lên mặt biển xanh thẳm rồi lan ngay ra không gian xung quanh, khiến mọi thứ nhuốm màu sẫm tối, có cái gì da diết như đêm luyến ngày, như niềm lưu luyến tha thiết của Kiều về ngày tháng êm đềm xưa kia. Cửa biển trong ánh chiều tà yếu ớt bao trùm luôn cả những con thuyền căng buồm lộng gió ngoài xa- những con thuyền chở hy vọng của nàng Kiều được một lần tự do ngoài bầu trời rộng mở, vượt khỏi cái tù túng tẻ nhạt nơi lầu son gác tía. Những cánh buồm đều ở rất xa, thoắt ẩn thoắt hiện trong ánh hoàng hôn trĩu buồn, như niềm hy vọng của nàng chỉ là những chấm nhỏ ngoài khơi xa mịt mờ, những từ thấp thoáng, xa xa càng khiến hy vọng nhạt nhòa.

Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Qua khung tranh thứ hai, vẫn là ánh nhìn vào nước, nhưng đã gần hơn. Có lẽ nào nàng Kiều đã bắt đầu nhượng bộ trước những xa xăm của cuộc đời, nhìn gần để có thêm ít hy vọng, dù nhỏ. Ngờ đâu, cái mà nàng trông thấy còn dữ tợn hơn bội phần. Cánh hoa mỏng manh dập dìu trước ngọn nước từ trên cao đổ xuống. Thử hỏi, cánh hoa mỏng manh ấy làm sao chịu nổi sức nước tràn? Thân phận Kiều cũng vậy, quá bé nhỏ trước dòng đời. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng cho thấy sự nhạy cảm của Kiều. Cái man mác trôi của hoa thể hiện cái băn khoăn, lo lắng cho thân phận lạc loài, vô định của nàng. Kiều bây giờ cũng như bông hoa kia, không còn người thân bên cạnh, tự nàng phải bước lên những chông gai của cuộc đời.

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Rồi Kiều bắt đầu đảo mắt đến cái sắc xanh nối tiếp của trời và đất. Tuy nhiên, bãi cỏ không mang màu xanh tươi như tiết thanh minh tháng ba, từ láy rầu rầu gợi cho ta sự tàn úa đến thảm thương. Xanh trời nối tiếp xanh đất nhưng xanh nào cũng là màu xanh tàn úa, héo hắt. Màu xanh tàn héo ấy khiến xanh xanh cả đất trời. Kiều nhìn vào màu xanh mong tìm kiếm chút hy vọng nhỏ nhoi lần nữa, nhưng cũng như những lần trước, Kiều quay đi với nỗi thất vọng ngập tràn. Cảnh buồn hay vì người buồn nên cảnh mới buồn thì không biết, chỉ biết lần này, nàng Kiều đã thật sự tuyệt vọng, chẳng còn đối cảnh nào khiến nàng thấy ý muốn níu kéo của mình là đúng. Mọi thứ đều đưa nàng vào suy nghĩ dằn vặt và đau xót hơn.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Trong lúc tuyệt vọng nhất, Kiều thấy mình dường như chao đảo. Từng ngọn gió mạnh thổi sóng vỗ ầm ầm. Quang cảnh đã thôi yên lặng, mặt biển dậy sóng, lòng Kiều cũng dậy sóng. Những đợt sóng dữ dội như dự báo trước điều bất an, như cảnh báo một tương lai bão táp đang chờ Kiều trước mắt. Người con gái tài sắc trong hoàn cảnh đó đã hoảng loạn vô cùng.

Tám dòng thơ cuối này tạo nên bốn khung tranh tâm trạng của nàng Kiều. Mỗi khung tranh là một trạng thái tâm lý khác nhau. Điệp từ buồn trông diễn tả cái tăng tiến đến choáng ngợp của từng cung bậc xúc cảm trong Kiều. Nỗi buồn tủi ban đầu đã dồn nghẹn trong lòng thành niềm lo sợ về thân phận lạc loài, cái héo hắt, tuyệt vọng trước thực tại, trào ra thành nỗi hoảng sợ tột độ, hoàn toàn mất phương hướng. Yếu tố không nhỏ giúp cho sự tăng tiến về cảm xúc trở nên dữ dội mà lại sít sao, tự nhiên vô cùng chính là hệ thống từ láy tầng tầng lớp lớp, khiến mấy dòng thơ từ tha thiết trở thành mạnh mẽ, từ mạnh mẽ lại trở về tha thiết. Có thể nói, đại thi hào Nguyễn Du là một nhà bác học của ngôn từ và cảm xúc. Những từ ngữ ông sử dụng luôn uyên thâm nhưng vững nghĩa và dễ hiểu. Nghệ thuật dụng từ trong tám câu cuối của đoạn trích này đã góp phần đưa nó thành thiên sầu khúc. Ngoài ra, cái tài của cụ Nguyễn là vừa để cho Kiều nhìn cảnh bằng con mắt chủ quan của tâm trạng, lại vừa ngầm thể hiện sự xót thương thân phận người trong cảnh từ địa vị của một nhà nhân đạo chủ nghĩa, làm cho dòng thơ có sức gợi cảm mãnh liệt, chinh phục bao tầng lớp độc giả.

Nếu toàn cảnh Truyện Kiều có bộ tranh thơ Tứ Bình nổi tiếng, thì ở một góc độ nào đó, bốn khung tranh tâm trạng độc đáo này cũng là bộ Tứ Bình về cảm xúc. Vừa có nhạc điệu từ điệp từ liên hoàn buồn trông, vừa khắc họa cảnh sắc từ nhiều góc độ, tám câu cuối Kiếu ở lầu Ngưng Bích thật đúng là một trong những đoạn thơ đỉnh cao trong hơn ba nghìn dòng thơ Truyện Kiều.
Nguồn- https://www.google.com.vn/url?sa=t&...FANPzsseN_QxuYkZ0hKhHhA&bvm=bv.49478099,d.cGE
 
N

nguyenyenvntn99

xong thanks mềnh ha ^-^!!!!!!!!!!!!!!!!!!????????????<3

Buồn biết bao khi phải dấn thân vào nơi vô định. Buồn biết bao khi phải mãi mãi xa cách người yêu. Buồn biết bao khi có cha, mẹ mà không được phụng dưỡng sớm hôm. Một nổi buồn mênh mông như đè nặng, bao quanh lấy nàng. Nhìn đâu nàng cũng thấy buồn, cảnh vật dù có đổi thay nhưng nỗi buồn của nàng thì như cố định. Nàng cảm nhận được những gì sẽ đến với mình như một định mệnh không sao thoát ra được. Điều đáng quý ở đây là: trong hoàn cảnh cô đơn, bẽ bàng vậy mà Kiều lại quên phận mình, thương nhớ tới người thân. Đó chính là đức hi sinh, lòng vị tha, tấm lòng chung thuỷ và hiếu thảo của Kiều, đây chính là nét đẹp tâm hồn của Kiều.

Kiều nhớ thương cha mẹ, quê hương mong ước có ngày đoàn tụ:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buôm xa xa?

Kiều đau đớn cho thân phận của mình, xót cho tình yêu dở lỡ, ám ảnh về cuộc đời vô định:

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Một màu cỏ "rầu rầu" héo úa, tâm trạng chán chường cho hiện tại. Cảnh vật được miêu tả qua tâm trạng, tâm trạng nhuốm lên cảnh vật. Cảnh vật vừa hư, vừa thực "thuyền ai thấp thoáng" “hoa trôi man mác” "chân mây" và "mặt đất" một màu xanh mờ ảo.

Nếu như “Thuyền ai thấp thoáng” làm nàng chạnh nghĩ đến cuộc đời trôi nổi, bấp bênh hy vọng lóe lên rồi chợt tắt thì cảnh “nước chảy hoa trôi” lại gợi đến cảnh đời lưu lạc-một cuộc sống vô định, không còn phương hướng “biết là về đâu”. Đến cái hướng cuối cùng thì nổi buồn hầu như đã dâng lên tột đỉnh:

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Âm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Âm thanh của tiếng sóng "ầm ầm" dữ dội va vào vách đá ngay dưới "ghế ngồi" liên tưởng như cơn sóng gió cuộc đời sắp ập đến, dự báo một tương lai nhiều khổ đau, nhiều biến động của Kiều.

Đây là đoạn tả cảnh ngụ tình hay nhất trong truyện Kiều. Với nghệ thuật khắc họa nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại, bốn cặp thơ như bộ tứ bình, điệp ngữ "buồn trông" lập lại ở đầu mỗi câu thơ, cùng với hệ thống từ láy "thấp thoáng", " xa xa", "man mác", "rầu rầu", "xanh xanh" gợi lên nỗi buồn da diết, triền miên, thăm thẳm và chồng chất.

“Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn thơ kỳ diệu, một trong những đoạn thơ hay nhất của “Truyện Kiều”, kiệt tác của thi hào dân tộc Nguyễn Du, miêu tả bi kịch nội tâm của Thuý Kiều trên con đường lưu lạc. Những vần thơ buồn thương mệnh mang đã gieo vào lòng người đọc những xót xa khôn nguôi về kiếp người tài hoa bạc mệnh. Đoạn thơ có giá trị nhân bản sâu sắc. Một tấm lòng nhân hậu yêu thương, cảm thông của nhà thơ đối với nỗi đau của Thuý Kiều mãi mãi để lại ấn tượng sâu sắc trong trái tim người đọc.
 
Top Bottom