Văn [Văn 9] Phân tích bài thơ Sang Thu - Hữu Thỉnh

  • Thread starter iloveyou247_tintin
  • Ngày gửi
  • Replies 29
  • Views 355,168

H

hoan1793

-Cảm nhận về 3 câu thơ đầu:
Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa thiêng liêng mà nồng ấm
" 1 bếp lửa chờn vờn sương sớm
1 bếp lửa ấp iu nồng đượm"
Bếp lửa chờn vờn sương sớm là 1 hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong mỗi gia đình từ bao đời nay. "Ấp iu" gợi lên bàn tay khéo léo và tấm lòng chi chút của người bà. Hình ảnh bếp lửa rất tụ nhiên, đánh thức dong cảm xúc hồi tượng của cháu về bà " cháu thương bà biét mấy nắng mưa".
-Phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ:
Hìng ảnh bếp lửa là hình ảnh thực, trên cơ sở đó nhà thơ xây dựng thành công hình ảnh bếp lửa mang tính biểu tượng.Sự phát triển của hình ảnh bếp lửa không chỉ khởi dậy kỉ niệm mà còn khơi dậy niềm tin vào cái đẹp của tâm hồn tình cảm. hình ảnh bếp lửa gần gũi với hình ảnh người bà làm cho mạch tho vượt qua sự kể nể thuần thúy khiến cho màu sắc trữ tình và màu sắc triết lý trở lên sâu sắc hơn, có sức lan tỏa hơn.
- Hình ảnh người bá trong hồi tưởng của cháu:
Bài thơ mở đầu bằng hỉnh ảnh ngọn lửa nhưng phía sau hình ảnh này là bàn tay khéo léo và tấm lòng nhân hậu cua bà "1 bếp lửa ... nồng đượm". Câu thơ trước nói về ngọn lửa có thực trong mỗi gia đình nhưng ở câu sau với hai chữ "ấp iu" hìng ảnh ngọn lửa được mở rộng hơn vửa nói lên chính xác công việc nhóm lửa vừa nói lên tình yêu thương chăm chút của bà.Từ đó, bài thơ gợi lại cả 1 thời thơ ấu bên người bà. Tuổi thơ ấy nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn " năm ấy ... ngựa gầy"trong những năm tháng gian khổ nhất, nạn đói năm 1945, cuôc kháng chiến gian khổ, mẹ cha đi công tác xa bà luôn ở cạnh cháu, nuôi dạy cháu lên người " bà bảo cháu ... học". bà là người phụ nữ tần tảo chịu thương chịu khó. Bà là điểm tựa ting thần của cháu
"Rồi sớm ... ủ sẵn"
Một ngịn lửa chứa niềm tin dai dẳng"
Đây là những câu thơ vừa cụ thể vừa khái quát. Cụ thể ở hình ảnh bếp lửa bà nhem mỗi chiều.Khái quát ở hình ảnh biểu tttuwowngj: ngọn lửa trong lòng bà . Đó là ngọn lửa của tình yêu nồng hậu, ngịn lửa của niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.
-Hình ảnh người bà đươc nhắc đến nhiều lần có ý nghĩa:
bếp lửa luôn gắn liền với hình ảnh người bà. Nhớ đến bếp lửa là cháu nhớ đến người bà thân yêu, và cuộc sống gian khổ. Bếplửa- bàn tay bà nhóm lên mỗi sớm là nhóm niềm yêu thương, niềm vui sưởi ấm san sẻ.Bếp lửa là tình bà bình dị mà thân thuộc, khì diệu mà thiêng liêng.
Hết. ngô hồng hạnh _9a
 
C

chuanbibai01289

Bài này có chỗ mình không hiểu .sao lại phê phán những con người từng trải già dặn. Với lại việc nhận xét hình ảnh chim vội vã sông dềnh dàng là ám chỉ 1 bộ phận con người là những suy diễn đi quá xa so với mục đích của nhà thơ
 
K

khang_pro2211

mình thấy các bài phân tích trên của các bạn rất hay nhưng mình thấy phần mb cần có j đó ấn tượng hơn là cứ dc tác giả khác hoặc nói về tác giả luôn
 
C

c0_p3_dang_iu

Với tâm hồn nhạy cảm sâu sắc và tình yêu thiên nhiên tha thiết, Hữu Thỉnh trong bài thơ "Sang thu" đã nêu lên những cảm nhận tinh tế của mình về sự biến đổi của đất trời từ cuối hạ sang đâu thu.
Tân hồn nhạy cảm của tác giả hòa quyện vài khoảnh khắc giao mùa, với một cảm giác mơn man khó tả:

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

Khoảnh khắc giao mùa đến với tác giả bằng nhiều giác quan: Khứu giác (hương ổi), xúc giác (gió se lạnh), thị giác (sương chùng chình). Mỗi giác quan man đến cho tác giả một cảm nhận riêng và mỗi giác quan là một dấu hiệu nhận biết sự chuyển mùa. Đầu thu, hương ổi lan tỏa đi khắp nơi hòa quyện vào làn gió se lạnh trở thành một mùi thơm đặc biệt, nồng nặc cả hai cánh mũi. Thứ hương thơm ấy cứ nhẹ trôi trong không gian, xoa dịu lòng người và bất ngờ đến với tác giả ("bỗng"). Những màn sương giăng mắc bắt đầu xuất hiện. "Chùng chình" là cố ý chậm lại, quyến luyến không muốn bước qua "ngõ" - ngưỡng cửa của thời gian. Hình ảnh "Sương chùng chình qua ngõ" vừa có tính tạo hình trong không gian vừa diễn tả sự chuyển mùa. Tất cả chì là những cảm nhận ban đầu của tác giả ("hình như"), không có một căn cứ xác thực cho "sang thu".

Mùa thu sần được hiện ra qua những kinh nghiệm của tác giả:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Bằng kinh nghiệm của mình tác giả nhận ra cái đặc trưng của mùa thu. Thu sang, sông không còn chảy gấp gáp, cuộc khúc nữa mà nhẹ nhàng trôi, êm ả như đang suy ngẫm. Ngược lại, những chú "chim bắt đầu vội vã" tìm nơi trú ẩn vì gió se lạnh đã đến. "Đám mây mùa hạ" "vắt nửa mình sang thu" gơi cho ta hình ảnh một cô gái thướt tha với chiếc khăn the uốn lượn. Đặc biệt, tác giả đã sáng tạo nên hình ảnh "vắt nửa mình sang thu" vừa có tính tạo hình trong không gian vừa diển tả sự chuyển mùa. Đám mây cứ nhẹ trôi và thời gian thì cũng trôi heo. Đến đây mùa thu đã hiện ra một cách rõ ràng, không thể nào phủ nhận được.

Mùa thu hiện ra, tác giả dang tay đón nhận cùng những suy ngẫm triết lí của mình.

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi

Mùa thu sang, nắng giảm dần, không còn gắt, những cơn mưa giảm dần và sấm thì cũng vơi đi. Mọi thứ đến một cách nhẹ nhàng, êm dịu, không ồn ào gấp gáp. Hình ảnh "Sấm cũng bớt bất ngờ - Trên hàng cây đứng tuổi" có thể hiểu theo hai lớp nghĩa. Thứ nhất, những cây đã lớn không còn bất ngờ trước tiếng sấm. Thứ hai, những người từng trải thì không còn sợ hãi trước sóng gió cuộc đời nữa. Có phải chăng tác giả muốn gởi đến ta một triết lí của cuộc đời con người. Những người khi "sang thu" thì không vòn sôi nổi như khi còn trẻ, nhưng họ đã từng trải, đã bước qua những thời khắc khó khăn nhất của cuộc đời thì không còn ngại sóng gió nữa.

"Sang thu" là tiếng lòng của tác giả, của một người với tâm hồn nhạy cảm và tình yêu thiên nhiên tha thiết. Nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ cùng cách chọn lọc từ ngữ tinh tế đã làm nên thành công của bài thơ.
 
H

hihi_uyenthu

Với tâm hồn nhạy cảm sâu sắc và tình yêu thiên nhiên tha thiết, Hữu Thỉnh trong bài thơ "Sang thu" đã nêu lên những cảm nhận tinh tế của mình về sự biến đổi của đất trời từ cuối hạ sang đâu thu.
Tân hồn nhạy cảm của tác giả hòa quyện vài khoảnh khắc giao mùa, với một cảm giác mơn man khó tả:

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

Khoảnh khắc giao mùa đến với tác giả bằng nhiều giác quan: Khứu giác (hương ổi), xúc giác (gió se lạnh), thị giác (sương chùng chình). Mỗi giác quan man đến cho tác giả một cảm nhận riêng và mỗi giác quan là một dấu hiệu nhận biết sự chuyển mùa. Đầu thu, hương ổi lan tỏa đi khắp nơi hòa quyện vào làn gió se lạnh trở thành một mùi thơm đặc biệt, nồng nặc cả hai cánh mũi. Thứ hương thơm ấy cứ nhẹ trôi trong không gian, xoa dịu lòng người và bất ngờ đến với tác giả ("bỗng"). Những màn sương giăng mắc bắt đầu xuất hiện. "Chùng chình" là cố ý chậm lại, quyến luyến không muốn bước qua "ngõ" - ngưỡng cửa của thời gian. Hình ảnh "Sương chùng chình qua ngõ" vừa có tính tạo hình trong không gian vừa diễn tả sự chuyển mùa. Tất cả chì là những cảm nhận ban đầu của tác giả ("hình như"), không có một căn cứ xác thực cho "sang thu".

Mùa thu sần được hiện ra qua những kinh nghiệm của tác giả:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Bằng kinh nghiệm của mình tác giả nhận ra cái đặc trưng của mùa thu. Thu sang, sông không còn chảy gấp gáp, cuộc khúc nữa mà nhẹ nhàng trôi, êm ả như đang suy ngẫm. Ngược lại, những chú "chim bắt đầu vội vã" tìm nơi trú ẩn vì gió se lạnh đã đến. "Đám mây mùa hạ" "vắt nửa mình sang thu" gơi cho ta hình ảnh một cô gái thướt tha với chiếc khăn the uốn lượn. Đặc biệt, tác giả đã sáng tạo nên hình ảnh "vắt nửa mình sang thu" vừa có tính tạo hình trong không gian vừa diển tả sự chuyển mùa. Đám mây cứ nhẹ trôi và thời gian thì cũng trôi heo. Đến đây mùa thu đã hiện ra một cách rõ ràng, không thể nào phủ nhận được.

Mùa thu hiện ra, tác giả dang tay đón nhận cùng những suy ngẫm triết lí của mình.

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi

Mùa thu sang, nắng giảm dần, không còn gắt, những cơn mưa giảm dần và sấm thì cũng vơi đi. Mọi thứ đến một cách nhẹ nhàng, êm dịu, không ồn ào gấp gáp. Hình ảnh "Sấm cũng bớt bất ngờ - Trên hàng cây đứng tuổi" có thể hiểu theo hai lớp nghĩa. Thứ nhất, những cây đã lớn không còn bất ngờ trước tiếng sấm. Thứ hai, những người từng trải thì không còn sợ hãi trước sóng gió cuộc đời nữa. Có phải chăng tác giả muốn gởi đến ta một triết lí của cuộc đời con người. Những người khi "sang thu" thì không vòn sôi nổi như khi còn trẻ, nhưng họ đã từng trải, đã bước qua những thời khắc khó khăn nhất của cuộc đời thì không còn ngại sóng gió nữa.

"Sang thu" là tiếng lòng của tác giả, của một người với tâm hồn nhạy cảm và tình yêu thiên nhiên tha thiết. Nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ cùng cách chọn lọc từ ngữ tinh tế đã làm nên thành công của bài thơ.
 
J

jijajijune

tại sao không ai phân tích thời điểm sáng tác nữa nhỉ thu 1977 trước 1975 2 năm ý
 
F

flytoyourdream99

tại sao không ai phân tích thời điểm sáng tác nữa nhỉ thu 1977 trước 1975 2 năm ý


mình cũng thấy vậy
khi mở bài giới thiệu tác giả và tác phẩm, sáng tác..hoàn cảnh ..sau đó đi vào vấn đề

các bạn mở bài kiểu mở, các bạn thấy hay

nhưng mình thì không thấy vậy
vẫn cần cái cốt lõi
- tác giả
- tác phẩm
- hoàn cảnh
- nêu nội dung
- có thể đưa ít nghệ thuật cũng được...> cái này không cần cũng được
 
Last edited by a moderator:
N

nhoclovely1021

Nếu mùa xuân là một hội tụ của cái đẹp, căng tràn nhựa sống vào buổi bình minh với những chồi non lộc biếc, tiếng chim ca vui về làm tổ, với những nàng xuân dịu dàng hát câu quan họ…, thì mùa thu lại là mùa quyến rũ lòng người bởi nét đẹp của buổi chiều với sắc lá vàng bay và hương vườn quen thuộc, nhẹ nhàng, thướt tha, đằm thắm… Cùng với mùa xuân, mùa thu đã trở thành đề tài truyền thống của thơ ca. Thu đi qua lăng kính tâm hồn người nghệ sĩ và là món quà vô giá mà thiên nhiên ban tặng cho con người, là chất men để lòng người đắm say mê mải. Khác với các thi nhân khi viết về mùa thu thường là độ giữa thu hay cuối thu, nhà thơ Hữu Thỉnh góp một tiếng thu giao mùa. Truyền thống và sáng tạo là sự kết hợp hài hoà trong thơ Hữu Chỉnh. Cùng đi với “Sang thu”, ta sẽ thấy rõ điều đó.
Với tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, Hữu Thỉnh đã phát hiện ra những biến chuyển rất nhẹ nhàng của đất trời khi mùa thu đến mà nếu như với những bộn bề công việc, người ta rất khó có thể nhận ra. Với bài thơ “Sang thu” (1977), Hữu Thỉnh đã góp vào nền thơ hiện đại Việt Nam một bức tranh thu với những mới mẻ, sáng tạo, đầy ắp hơi thở của sự sống.
Khổ thơ thứ nhất là những dự cảm mùa thu đã về :
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Trong biết bao nhiêu hương vị thân thuộc của làng quê, Hữu Thỉnh giật mình thảng thốt khi nhận ra cái làn hương ngây ngất ngọt ngào của trái ổi đầu mùa. Hương ổi thân thương qua như chính mùi vị của vườn, làng quê nơi đồng bằng bắc Bộ yêu thương hương ổi là tín hiệu đặc trưng của mùa thu. Phải chăng lúc này đây thu đã sang ? Nhưng tại sao sứ giả của mùa thu trong thơ Hữu Thỉnh lại là làn hương ngọt ngào của trái ổi đầu mùa mà không phải là hương hoa thiên lí như trong bài thơ Nguyễn Bính Mùi hoa thiên lý thoảng hương đưa (Chiều thu).
Hay hương cốm trong bài thơ “Đất nước”
Sáng mát trong như sáng năm x ưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
(Nguyễn Đình Thi)
Hương ổi có nét gì đặc biệt đến thế, phải chăng mùi hương ấy là nét riêng của làng quê Bắc Bộ, phải chăng nó gọi về trong tâm trí tác giả bao nhiêu kỉ niệm êm đềm cùng bạn bè treo cây hái ổi của một thời tuổi trẻ đã qua ? Chẳng thế mà hương ổi không phải chỉ một lần xuất hiện trong thơ ông :
Hẹn mùa thu ổi chín
Đón mùa khô bước vào
(Hương vườn)
Từ bỗng như được gieo lên trong niềm ngỡ ngàng ngạc nhiên. Từ bao giờ nhỉ, thu về ? Tất cả đến với tác giả nhẹ nhàng, mà đột ngột quá, thu về với đất trời quê hương, với lòng người mà không hề báo trước. Để rồi trong phút giây ngỡ ngàng, nhà thơ mới chợt nhận ta hương ổi :
Phả vào trong gió se
Động từ “phả” sử dụng trong câu thơ mang đầy ý nghĩa. Liệu có thể thay thế từ ngữ ấy bằng một số từ khác như “thoảng, toả, lan…” thôi cũng đã mang lại cho hương ổi một sức mạnh vô hình nào đó để có thể tràn ngập trong không gian, có sức lan toả về mặt cảm xúc. Động từ “Phả” nhờ nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã đem đến cho bức tranh giao mùa một sức sống mạnh mẽ đến kì lạ.
Hương ổi từ đó mà lan toả mãi trong không gian và rồi được cuốn trong gió se là cơn gió heo may khô lạnh đầu mùa. Gió se tràn về xua tan đi bao oi bức nóng nực của mùa hè, đem lại cho con người cảm giác thoải mái dễ chịu.
Trong cái dư vị ngây ngất của trái ổi đầu mùa, nhà thơ nhận thấy :
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Hai câu thơ mang âm hưởng thật nhẹ nhàng. Màn sương qua từ láy gợi hình “chùng chình” được nhân hoá như vẻ duyên dáng của nàng thiếu nữ đôi mươi. Màn sương ấy hiện ra trong mờ mờ ảo ảo như sắc màu cổ tích khiến cho cảnh vật nơi làng quê ngõ xóm trở thành một thế giới thần kì tuyệt diệu. Ta cũng đã từng bắt gặp hình ảnh màn sương trong Đây mùa thu tới của nhà thơ Xuân Diệu :
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ …
Và câu thơ Hình như thu đã về đã kết lại dòng xúc cảm bất ngờ đột ngột của nhà thơ. Tất cả những tín hiệu ở trên cuối cùng rồi cũng đi đến một nghi vấn : thu đã về ? Từ “Hình như” diễn tả sự ngỡ ngàng thảng thốt, thu đến với đất trời thật rồi sao ?
Từ điểm nhìn cận cảnh, cùng sự quan sát tinh tế, cảm nhận dấu hiệu thiên nhiên bằng khiếu giác (hương ổi), xúc giác (gió se) và thị giác (màn sương), nhà thơ Hữu Thỉnh đã chứng tỏ một hồn thơ tinh tế nhạy cảm khi cẩm nhận tiết giao mùa nơi làng quê thanh bình.
Nếu như khổ thơ thứ nhất là cảm xúc đột ngột, ngỡ ngàng khi nhận ra thu đang về với đất trời thì đến khổ thơ thứ hai, nhà thơ đã nhìn rộng hơn trong việc quan sát cảnh vật thiên nhiên :
Sông đựoc lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nữa mình sang thu
Từ khung cảnh chật hẹp nơi làng quê, nhà thơ đã dần hé mở thêm cho không gian cả chiều cao, chiều rộng, lẫn chiều sâu. Đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên đất trời lúc sang thu. Đầu tiên, nhà thơ quan sát sự vật ở tầng thấp :
Sông được lúc dềnh dàng
Chất liệu thực ra thật rõ. Cái “dềnh dàng” của dòng sông là phút hiếm hoi sau lúc gập ngềnh leo thác nhọc nhằn rồi lại ồ ạt xối xả dưới những cơn mưa rào mùa hạ. Từ “đựơc lúc" diễn tả cái hiếm hoi thưa thớt.
Từ láy gợi hình “dềnh dàng” chỉ sự chuyển động chậm chạp. Đã lâu lắm rồi con sông mới có dịp nghỉ ngơi thanh thản như thế.
Tuy nhiên, dòng sông trở nên chậm chạp hơn khi thu sang, không không đồng nghĩa với sự vật nào cũng như vậy. Ta hãy đọc câu thơ tiếp theo : Chim bắt đầu vội vã.
Cón gió heo may lãnh lẽo đầu mùa tràn về khiến đàn chim phải bắt đầu vội vã bay về phương nam tránh rét. Phép đối và nghệ thuật tương phản giữa hai câu thơ (dềnh dàng><vội vã) đã được tác giả gửi gắm vào đó một triết lý : cuộc đời không có giây phút nào phẳng lặng êm đềm, sự sống vẫn chuyển không ngừng, chính vì thế con người phải biết cách chuẩn bị đầy đủ để ứng phó và theo kịp mạch chảy của dòng đời.
Và ở hai câu thơ tiếp theo, không gian đất trời lại tiếp tục được mở thêm một tầng mới :
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Đám mây mùa hạ là hình ảnh độc đáo, thể hiện trí liên tưởng phong phú của tác giả. Dường như đám mây mùa thu còn vương nắng hạ nên nhà thơ mới có liên tưởng sáng tạo đến thế.
Trong khoảnh khắc giao mùa, đám mây trên bầu trời cao đã trở thành ranh giới giữa mùa hạ với mùa thu. Từ “vắt ” mang hiệu quả diễn đạt rất lớn. Nó làm cho đám mây kia có khả năng nối liền giửa hai mùa thiên nhiên hay nói đúng hơn là mùa hạ và mùa thu đang chênh vênh giữa một đám mây. Từ cái giây phút giao mùa vô hình trừu tượng, tác giả đã biến thành sự vật hữu hình cụ thể để người đọc cảm nhận rõ hơn về tín hiệu của mùa thu.
Trong bài thơ “Chiều sông thương", Hữu Thỉnh cũng đã có những ý thơ tưong tự :
Đám mây trên Việt Yên
Rủ bóng về bố hạ
Cùng viết về mùa thu ở làng quê, Nguyễn Khuyến – nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam cũng đã từng viết :
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lững trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
(Thu điếu)
Có lẽ cũng như Nguyễn Khuyến, mùa thu và làn quê như một phần máu thịt trong con người Hữu Thỉnh. Ông đã viết rất nhiều về mùa thu :
Đi suốt cả ngày thu
Vẫn chưa về tới ngõ
Dùng dằng câu quan họ
Chiều tím bờ sông thưong
(Chiều sông thương)

Ta hãy đọc khổ thơ cuối cùng :
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Nắng cuối hạ vẫn còn nhưng độ nóng, độ chói không còn gay gắt. Cơn mưa nhẹ hạt hơn so với trận mưa rào xối xả những ngày hè đã qua. Sấm bất thình lình nổi trận lôi đình, hàng cây như già dặn hơn.
Đó là những gì mà nhà thơ Hữu Thỉnh cảm nhận được về các hiện tượng thiên nhiên khi thu sang.
Nhưng “nắng, mưa, sấm” làm sao có thế cân, đo ấy thế mà Hữu Thỉnh với các từ ngữ “Vẫn còn bao nhiêu, vơi, bớt” mang tính chất giảm nghĩa, nhà thơ đã biến chúng thành các vật có trọng lượng thực sự để đối chiếu so sánh với mùa hè.
Từ sự hiện thực quan sát thiên nhiên ta có thể phát hiện ra đựoc một triết lí mà nhà thơ muốn gửi gắm. "Nắng, mưa, sấm" là những hình ảnh ẩn dụ cho sự khắc nghiệt và biến chuyển của cuộc đời, "hàng cây đứng tuổi” chỉ những con người từng trải. Cả đoạn mang ý nghĩa : con người từng trải luôn vững vàng trước những biến đổi cuộc đời. Phải chăng nhà thơ đang gợi chúng ta nhớ về truyền thống cao đẹp của người dân Việt nam và những trải nghiệm ở đời qua thử thách, qua hai cuộc kháng chiến thần thánh chống Pháp và chống Mĩ của dân tộc, đó là hành trang để thế hệ trẻ hôm nay bước vào đời.
Đọc Sang thu, ta không chỉ cảm nhận được những khoảnh khắc giao mùa tuyệt vời của mùa thu nơi làng quê Bắc Bộ mà còn thấy được tâm hồn tinh tế nhạy cảm, tấm lòng yêu thiên nhiên cùng biết bao học triết lí, kinh nghiệm sâu sa ; chúng ta ở đời đâu phải luôn chủ động và tự tin để có thể vượt qua mọi thử thách, sóng gió của cuộc đời Sang thu của Hữu Thỉnh không còn tính chất cổ điển, ước lệ tượng trưng như thơ Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu mà sẽ sống mãi trong lòng người đọc với những nét mới mẻ sáng tạo của một tiếng thu đầy ắp hơi sự sống.
 
T

thaygiaothu

Phân tích bài thơ Sang Thu - Hữu Thỉnh

Bài làm
“Sang thu” là một bài thơ tái hiện lại một cách nhẹ nhàng sự chuyển mùa tinh tế, trời đất lúc sang thu có chút gì đó bối rối, có chút gì đó ngập ngừng và hơn hết là sự ngỡ ngàng, bồi hồi của nhà thơ khi nhận ra sự thay đổi của trời đất. Mùa thu về, mùa thu mang lại cho con người ta những giai điệu dịu êm nhất.

Dấu hiệu của mùa thu trong thơ Hữu Thỉnh thực sự rất bình dị và gần gũi, không phải là hương cốm mùa thu, không phải mặt hồ tĩnh lặng, cũng không phải những mùa lá rụng. Mùa thu trong thơ ông chính là “hương ổi”, là thứ hương đặc trưng của vùng quê Việt Nam mỗi khi thu về.

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Phải thật tinh tế, thật khéo léo tác giả mới có thể nhận ra được thứ hương rất đỗi nhẹ nhàng và có thể bị gió cuốn đi lúc nào. Cụm từ “bỗng nhận ra” giống như một phát hiện mới, một sự ngạc nhiên rất thú vị như khi khám phá ra điều gì đó đẹp đẽ. Đây là cụm từ diễn ra trạng thái ngỡ ngàng của tác giả khi nhận ra mùa thu đã chạm ngõ chỉ với “hương ổi”, mùi hương đồng nội thân quen khiến những người con xa quê khó quên được. Mùi hương ổi ấy đã “phả” vào trong “gió se” đầu mùa thu dịu nhẹ, se sắt. Động từ “phả” đã làm toát lên thần thái của mùa thu, của hương ổi. Nó diễn tả sự quyện chặt vào, sự gắn kết giữa hương ổi và làn gió đầu mùa.

Chỉ qua hai câu thơ đầu, Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc một cảm nhận mới về mùa thu, về sự chuyển mùa tinh tế nhất, về nhưng điều bình dị ở xung quanh chúng ta.

Sương chùng chỉnh qua ngõ

Hình như thu đã về

Hai câu thơ rất duyên, rất tinh tế nhưng rất sâu sắc, gợi lên sự mơ hồ của giây phút chuyển mùa. HÌnh ảnh “sương chùng chình qua ngõ” khiến người đọc tương tưởng ra khung cảnh sương đang ngập ngừng giăng mắc ở đầu ngõ. Từ láy “chùng chình” dùng rất đắt, đã làm toát lên thần thái của mùa thu, không vội vàng, hồ hởi mà luôn tạo nên sự mơ hồ và mông lung nhất. Tác giả phải thốt lên “hình như” , là chưa chắc chắn, không chắn chắn nhưng thực ra là tác giả tự khẳng định rằng mùa thu về thật rồi.
Để xem đầy đủ hơn:http://thuvienvanmau.com/phan-tich-bai-tho-sang-thu-cua-huu-thinh.html
 
Top Bottom