[văn 9] cảm nhận của em về nhân vật bé Thu trong truyện "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng

  • Thread starter tjeudongta
  • Ngày gửi
  • Replies 93
  • Views 381,747

C

chienpro_9x

sự cẩu thả

1/: Giải thích ý kiến của Nam Cao:
Cẩu thả: làm việc thiếu trách nhiệm, vội vàng, hời hợt, không chú ý đến kết quả. Bất lương: không có lương tâm.
Nam Cao phê phán với một thái độ mạnh mẽ, dứt khoát (dùng câu khẳng định): cẩu thả trong công việc là biểu hiện của thái độ vô trách nhiệm, của sự bất lương.( Vấn đề cần nghị luận)
2/ Phân tích, chứng minh, bàn luận vấn đề: Vì sao lại cho rằng cẩu thả trong công việc là biểu hiện của thái độ vô trách nhiệm, của sự bất lương. Vì:
+Trong bất cứ nghề nghiệp, công việc gì, cẩu thả, vội vàng cũng đồng nghĩa với gian dối, thiếu ý thức,
+ Chính sự cẩu thả trong công việc sẽ dẫn đến hiệu quả thấp kém, thậm chí hư hỏng, dẫn đến những tác hại khôn lường.
3/ Khẳng định, mở rọng vấn đề:
Mỗi người trên bất cứ lĩnh vực, công việc gì cũng cần cẩn trọng, có lương tâm, tinh thần trách nhiệm với công việc; coi kết quả công việc là thước đo lương tâm, phẩm giá của con người.
Thực chất, Nam Cao muốn xây dựng, khẳng định một thái độ sống có trách nhiệm, gắn bó với công việc, có lương tâm nghề nghiệp. Đó là biểu hiện của một nhân cách chân chính.
Đối với thực tế, bản thân như thế nào?
 
C

chienpro_9x

tâm trạng của chí phèo

Nam Cao là nha văn hiện thực xuất sắc nhất của văn học Việt Nam 1930-1945. Người trí thức và nông dân nghèo là những hình ảnh quen thuộc trong các tác phẩm của ông.

- Chí Phèo là một tác phẩm được xem là kiệt tác của Nam Cao, kết tinh tài năng nghệ thuật, cái nhìn hiện thực sắc sảo và tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn. Đặc biệt, ở đó, Nam Cao đã khá thành công khi miêu tả diễn biến tâm lý và hành động của nhân vật Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở cho đến lúc tự tay cầm dao kết liễu cuộc đời mình.

2.Diễn biến tâm trạng và hành động của Chí Phèo

2.1.Trước khi gặp Thị Nở

- Chí Phèo gần như sống vô thức : Bây giờ thì hắn đã thành người không tuổi rồi. Ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi? Cái măt hắn không trẻ cũng không gìa; nó không còn phải là mặt người: nó là mặt của môộtcon vật lạ, nhìn mặt những con vật có bao giời biết tuổi? Chí Phèo cũng không biết ngày hay đêm vì đối với hắn không còn ngày tháng nữa. Bởi vì từ đấy, hắn bao giờ cũng say. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, thức dậy hãy còn say… Chưa bao giờ hắn tỉnh, và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ có hắn ở đời.

- Đôi với đồng loại, Chí Phèo đã là “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, tác quái cho bao nhiêu dân làng: Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chay máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện. Vì thế, tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua.

2.2.Sau khi gặp Thị Nở:

- Lúc đầu: Trước khi gặp Thị Nở, tối ấy Chí Phèo đã uống rượu ở nhà Tự Lãng, một lão vừa làm nghề thầy cúng, vừa làm nghề hoạn lợn. Ở đó, chưa bao giờ Chí Phèo được uống thoả thê đến thế… Người ta cư tưởng như cả làng Vũ Đại phải nhịn uống rượu để cho chúng uống. Khi trở về vườn, Chí đã quá say, không đi vào túp lều mà ra thẳng bờ sông đẻ tắm. Trên đường đi hắn gặp Thị Nở đang ngủ hớ hênh dưới trăng. Sự chung đụng ấy hoàn toàn ngẫu nhiên, mang tính bản năng của người đàn ông trong cơn say.

- Sự thức tỉnh:

Sáng hôm sau, khi đã trải qua 2 biến cố: gặp Thị Nở rồi bị trúng gió được Thị Nở đưa vào lều.

+Đầu tiên, Chí Phèo tỉnh rượu: Đây có lẽ là lần đầu tiên anh ta tỉnh rượu kể từ lúc ra tù về. Những lần trước, mỗi khi tỉnh rượu, anh lại uống, vì thế say kế tiếp say. Còn lần này, Chí Phèo tỉnh rượu với trạng thái khác hẳn: “ Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc; hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu như những người ốm sợ cơm”. Đó là điều rất lạ ở Chí.

+Từ tỉnh rượu, Chí Phèo dần thức dậy ý thức vốn có ở một người bình thường. Lần đầu tiên, nah ta nghe tiếng ríu rít bên ngoài, tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng gõ mái đuổi cá của anh thuyền chài. Tất cả những âm thanh ấy là những tiếng quen thuộc hôm nào chả có, nhưng hôm nay Chí Phèo mới nghe thấy, bởi xưa nay anh chưa bao giờ hết say.

Không những thế, Chí còn biết ngoài cái lều ẩm thấp chỉ có hơi lờ mờ của mình, mặt trời chắc đã lên cao, và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cũng như những người say tỉnh dậy, Chí Phèo thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Nhưng với anh, đây là cảm giác, cảm xúc vừa được đánh thức. Khi Chí Phèo nghe những âm thanh của cuộc sống và biết đuợc trời sớm hay muộn cũng chính là anh đã dần ý thức về cuộc sống. Rồi anh lại nhớ về quá khứ, rằng có một thời, đã ước mơ có một cuộc sống gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải. Bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Thông thường, người ta nhớ lại thời gian quã vẵng để hiểu hiện tại.Chí cũng vậy: Hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay ch đời! Có lí nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Hắn đã tới cái dốc kia của đời.

Rồi Chí Phèo đã hình dung được tương lai đầy bất trắc: Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao là chất độc, đày đoạ cực nhọc, mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa cuối mùa thu cho biết trời gió rét, này mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như đã trông trước thấy tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc… Càng nghĩ, Chí càng lo, vì cô độc đáng sợ hơn là đói rét và ốm đau. Nếu không có Thị Nở vào, cứ để hắn vẩn vơ, thì đến khóc được mất. Đến đay, không ai nghĩ Chí Phèo là con quỷ dữ của làng Vũ Đại nữa. Một người không những giàu cảm giác, cảm xúc, mà còn ý thức có phần sâu sắc về cuộc đời, về bản thân phải là con người bình thường chứ! Với bản thân Chí Phèo, anh đã trở lại hoàn toàn con đường tự ý thức.

- Khi được chăm sóc: Những ngày kế tiếp, Thị Nở sống chung với Chí Phèo. Anh ta ốm và Thị Nở trở thành người duy nhất chăm sóc. Nhà văn không kể lể nhiều về sự chăm sóc đó mà dừng lại miêu tả thật chi tiết bát cháo hành Thị Nở đã bón cho Chí.

+Với Thị Nở, việc ấy xuất phát từ sự đáng thương đối với một người đau ốm mà nằm chòng queo một mình, lòng yêu của một người làm ơn và có cả lòng yêu của người chịu ơn.

+Còn Chí Phèo, anh ta cảm nhận được rất nhiều: Lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Xưa nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì… Đời hắn chưa bao giờ đuợc săn sóc bởi một bàn tay “đàn bà” …Hắn chưa được người đàn bà nào yêu cả. Còn lần này, bát cháo hành của Thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn có thể tìm bạn được… Như vậy, qua bát cháo hành, Chí Phèo cảm nhận được sự chăm sóc yêu thương của người khác dành cho mình và chính anh ta cũng mong ước có niềm yêu thương ấy.

+Từ cảm nhận về tình yêu của Thị Nở, cảm xúc, cảm giác càng được đánh thức sâu sắc hơn ở Chí Phèo: Hắn thấy mắt hình như ướt ướt…Hắn nhìn bát cháo hành bốc khói mà bâng khuâng… Hắn thấy vừa vui vừa buồn… Hắn thấy lòng thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng Thị như với mẹ. Ôi sao mà hắn hiền… Không những thế, ở Chí còn giống một cái gì nữa như ăn năn… hối hận về tội ác khi không đủ sức mà ác nữa. Anh ta băn khoăn tự hỏi rồi tự trả lời, ngẫm nghĩ mà sợ hãi: Hắn đâu còn mạnh nữa. Và có lúc hắn ngẫm mình mà lo. Xưa nay hắn chỉ sống bằng giật cướp và doạ nạt. Nếu không còn sức mà giật cướp, dọa nạt nữa thì sao? Đã đành, hắn chỉ mạnh vì liều. Nhưng hắn mơ hồ thấy rằng sẽ có một lúc mà người ta không thể liều được nữa. Bầy giờ mới nguy!

+Bùng nổ trong tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở là khát vọng lương thiện. Đấy cũng là đỉnh điểm của sự tỉnh thức của Chí Phèo: Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với, vọi nguời biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lạo không thể đựơc. Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện… Chí đã đem cái khát vọng ấy ta thăm dò đặng tìm sự chia sẻ ở Thị Nở. Khi thị cười tin cẩn, Chí Phèo thấy tự nhiên nhẹ cả người và lòng thấy rất vuoi chứng tỏ anh ta đang tràn đầy hy vọng trở lại thế giới con người. Những ngày sau đó, Chí không còn kinh rượu nhưng cố uống thật ít. Để cho khỏ tốn tiền, nhưng nhất là để tỉnh táo mà yêu nhau. Đàn bà không có men như rượu nhưng cũng làm người say. Và hắn say Thị Lắm. Cả người kể chuyện ẩn hình, vốn rất lạnh lùng, cũng không giấu nổi cảm xúc cảm hình khi hình dung về tương lai của họ: Chúng sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi.

- Bị từ chối quyền làm người lương thiện:

Những ngày vui của Chí Phèo không kéo dài được bao lâu. Đến hôm thư sáu, thì Thị bỗng nhớ rằng có một ngưòi cô ở đời… Thị nghĩ bụng: hãy dừng yêu để hỏi cô Thị đã.

+Bà cô Thị Nở quyết liệt phản đối cháu gái lấy thằng Chí Phèo vì ai lại đi lấy thằng Chí Phèo, một thằng không cha, chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ. Đau đớn cho Chí Phèo, khi anh ta hiền và muốn làm hoà với mọi ngưòi thì chính họ vẫn sợ và vẫn nghĩ Chí Phèo là con quỷ dữ ở làng Vũ Đại! Đến bà cô của Thị Nở, một người năm muơi tuổi vẫn chưa lấy chồng, sống cái đời dằng dặc, uất ức, còn nghĩ về Chí như vậy huống chi ngườ khác. Sự phản đối của bà cô Thị Nở đồng nghĩa với việc đóng chặt con đường trở về với thế giới lương thiện của Chí Phèo. Vì thế, ban đầu còn ngơ ngác, hắn nghĩ ngợi một tí rồi hình như hiểu, hắn bỗng nhiên ngẩn người. Chí thấy cần thiết phải trả thù: Hắn phải đến nhà ****** Nở kia. Đến để đâm chết cả nhà nó. Nếu không đâm được, đến lúc ấy hãy đập đầu ra kêu làng. Với Chí, đập đàu hay kêu làng cũng là cách tỏ rõ sức mạnh của mình, một cách trả thù. Nhưng muốn đập đầu phải uống thật say. Không có rượu lấy gì làm cho máu nó chảy! Thế là Chí uống, song lần này càng uống lại càng tỉnh ra và đặc biệt hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Như vậy, đây cũng là lần đầu tiên trong đời, Chí Phèo uống rượu mà ngưòi lại tỉnh, khác với những cơn say dài mênh mông trước đó. Khi trong đầu anh cứ thoang thoảng mùi cháo hành chứng tỏ Chí không sao quên được những ngày ngắn ngủi từng được chăm sóc, vui sống. Bây giờ, tất cả những cái đó đã bị tước đoạt, vì thế Chí quyết phải đi trả thù, đi đòi lại lương thiện.

Khi nghe Thị Nở kể chuyện, Chí nghĩ ngay đến việc giết bà cô của thị để trả thù. Nhưng sau khi uống rất nhiều rượu, với một con dao ở thắt lưng, miệng lảm nhảm : “Tao phải đâm chết nó!”, Chí Phèo cứ thẳng đường mà đi đế nhà Bá Kiến. Anh không hề quên đường, bời bà cô Thị Nở không phải là người cướp đi những gì mà anh vốn có, càng không thể cho anh những gì đã mất. Đây có thể coi là giây phút tỉnh táo nhất khi Chí đi tù về. Tỉnh táo xác định kẻ thù : Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất được những vết mảnh trai trên mặt này? Tỉnh táo trong hành động tự sát vì không được sống lương thiện và không muốn trở lại kíêp sống thú vật như trước : Tao không thể làm người lương thiện nữa. Biết không? Chỉ có một cách…biết không?... Chỉ có một cách là …cái này ! Biết không !... Những câu nói đứt quãng vừa thể hiện quyết tâm trả thù, vừa bộc lộ niềm phẫn uất, nỗi bế tắc của Chí Phèo. Cái chét là cách chọn lựa duy nhất để Chí giải quyết bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người lương thiện. Vì thế, chết mà uất ức, vẫn còn muốn nói to với mọi người khát vọng của mình : …khi người ta đến thì hắn cũng đã giãy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi. Mắt hắn trợn ngược, mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói nhưng không ra tiếng. Ở cổ hắn, thỉnh thoảng máu vẫn còn ứ ra.

3. Kết luận

Bi kịch của Chí Phèo là bi kịch bị cự tước đoạt quyền làm người. Miêu tả diễn biến và tâm trạng của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở cho đến khi kết thúc cuộc đời, Nam Cao đã thể hiện cái nhìn hiện thực sắc sảo và sự cảm thông sâu sắc với khát vọng lương thiện của con người trong xã hội cũ.
 
C

chienpro_9x

Tuy sáng tác khá sớm, có những tphẩm được dư luận chú ý, nhưng Hoàng Cầm được biết đến nhiều hơn cả từ sau khi CMT8 thành công với những bài thơ mang hồn phách rất riêng của quê hương nhà thơ. Và nếu phải kể chỉ một bài thôi trong số ấy, chắc nhiều người sẽ không ngần ngại dẫn ra "BKSĐ"

Sông Đuống còn gọi là sông Thiên Đức, là một nhánh của sông Hồng nối với sông ThBình, chia tỉnh Bắc Ninh ra làm 2 phần hữu ngạn và tả ngạn. Khi thdân Pháp chiếm Nam phần Bninh-nơi quê hương, giđình tgiả sinh sống, ngay bên bờ sông Đuống-thì ông đang công tác ở VBắc. Trong cxúc kì lạ của một đêm giữa tháng 4.1948, khi nghe tin giặc đánh phá quê hương mình, HCầm xđộng và ngay đêm đó đã viết bài thơ "BKSĐ". Bài thơ đã thể hiện được khá sâu tâm tư của con người khchiến trong nỗi đau quê hương bị giặc daỳ xéo và ước vọng chđấu để giphóng đất nước, bvệ quê hương. Trong đó có đoạn: (Trích đoạn thơ)

Đây là một đoạn tiêu biểu và hay nhất trong bthơ "BKSĐ" vì nó đã nói được một phần quan trọng cxúc của tgiả: bởi tự hào lắm về quê hương nên cũng đau xót lắm. Từ cảnh ngộ hiện tại của quê hương bị giặc chiếm, nhà thơ nhớ lại quê hương ngày xưa thủa thanh bình và càng như đau đớn, xót xa và sôi sục lòng căm hờn đvới quân cướp nước hơn. Nỗi đau ấy ta đã gặp ở đoạn trên trong cảm giác xót đau tựa hồ như nỗi đau mất một phần cơ thể, thịt da tgiả: "Đứng bên này sông sao nhớ tiếc-Sao xót xa như rụng bàn tay"

Trở lại vơí đoạn chúng ta cần bình giảng, đó là phần chính của bthơ được mở ra bằng 4 chữ nhắc lại nhan đề bthơ-những chữ được hạ xuống mạch thơ như một âm hình chủ đạo:

"Bên kia sông Đuống"

Nhà thơ đang ở phía bên này sông và hướng sang bên kia sông, nơi quê hương đang bị thdân Pháp chiếm đóng. Bên kia sông Đuống là một vùng Kinh Bắc ngày xưa nổi tiếng là một vùng đất văn vật với nhiều di tích lsử, đền đài, miếu mạo và những truyền thuyết, huyền thoại, truyện cổ tích, tranh dân gian làng Hồ...và là quê hương của những làn điệu dân ca nổi tiếng rất đỗi quen thuộc với mỗi người Vnam. Và để giới thiệu về nơi chôn rau cắt rốn của mình, HCầm đã mở đầu bằng 3 chữ thật trìu mến, thân thương: "Quê hương ta...". Tgiả đã chọn những chi tiết thật chính xác để làm nổi bật sự phong phú của quê hương trên cả 2 mặt: đsống vchất và đsống tinh thần.

"Quê hương ta lúa nếp thơm nồng"

Nhắc đến "lúa nếp', đvới người Vnam không chỉ gợi nghĩ đến lúa mà còn là sự khơi gợi chí tưởng tượng con người với phong cảnh miền quê, những cánh đồng lúa chín, hương lúa chín và đbiệt là mùi hương rất riêng của loại lúa ấy. Nỗi đắm say và tình yêu thương của nhà thơ thể hiện rõ trong 2 từ "thơm nồng": đó là mùi thơm của cây lúa, của hạt gạo chứa đựng sức sống ở bên trong. Định nghĩa từ "nồng" đi sau từ "thơm" đã đóng góp rất nhiều cho việc tạo cảm giác trù phú, ấm áp cho một miền quê vốn no ấm khi thanh bình.

"Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong-Màu dtộc sáng bừng trên giấy điệp"

"Tranh Đông Hồ" hay tranh làng Hồ là những btranh được làm ra từ những nghệ nhân từ miền đất Bắc Ninh. Tranh có rất nhiều loại và cũng thể hiện nhiều đề tài đa dạng khác nhau. Nhưng quen thuộc nhất vẫn là những btranh lợn, gà...Những tphẩm này rất được ưa chuộng vì chúng nói lên ước nguyện về một csống no đủ của nhdân. Chúng được in tay và vẽ màu lên những tờ giấy có quét thêm bột vỏ điệp. Và vì thế, "tranh ĐHồ" đvới nhà thơ là một niềm tự hào về truyền thống quê hương. Những nét vẽ tươi sáng, trong trẻo như tâm hồn của người dân nơi đây. Và nhà thơ còn thấy "sáng bừng" trên giấy điệp kia không phải là một màu cụ thể mà là "màu dtộc"-màu sắc của tâm hồn con người. Từ "sáng bừng" được tgiả sdụng thật đsắc vì nó còn nói lên sự sáng bừng của kỉ niệm khi nhớ lại. Với HCầm, KBắc là như thế, đó là một nơi mà sự sống bao gồm và nhất thiết phải bao gồm hồn quê trong vhoá dân gian.

Tiếp theo, bước ngoặt của cxúc thơ được đánh dấu bởi môt câu thơ mạnh mẽ, đột ngột và quyết liệt của tgiả:

"Quê hương ta từ ngày khủng khiếp"

cũng với 3 chữ "quê hương ta" như ở đoạn trên, thay cho vị thơm nồng của lúa nếp hay nét tươi trong của tranh làng Hồ, quê hương giờ chỉ còn hiện ra những ấn tượng về sự hung tàn, khủng khiếp. Nhà thơ đã đặt tên cho thời điểm giặc đến quê hương mình là "ngày khủng khiếp" và h/ảnh tiêu biểu cho ngày đó là "ngùn ngụt lửa hung tàn". Chỉ với mấy từ đó thôi cũng đủ làm hiện lên những nét hiện thực hết sức sinh động: Thdân Pháp đã thực hiện dã tâm tam quang "đốt sạch, phá sạch, giết sạch" của chúng. Và hơn thế nữa, những từ này còn hàm chứa lòng căm giận của nhà thơ đvới hành động cướp nước bạo tàn của giặc. Nó tuy không trực tiếp nói về hành động bắn giết, đốt phá của giặc nhưng từ "kéo lên ngùn ngụt" lại đã bao hàm đầy đủ hết thảy. Nó tạo cảm giác thật mạnh mẽ và ấn tượng về sự bạo tàn nói trên. Hậu quả của ngọn lửa hung tàn đó là:

"Ruộng ta khô - nhà ta cháy"

Đó là những gì ta vẫn thường gặp trong chtranh. Nhưng giữa những hình ảnh bình thường, quen thuộc ấy, HCầm đã tìm ra được một nét riêng khi blộ nỗi căm giận của mình:

"Chó ngộ một đàn-Lưỡi dài lê sắc máu-Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang"

Hình ảnh đàn chó điên dại, hung hãn, độc địa thật khủng khiếp, gây chết chóc khiến cho "kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang", diễn tả thật dữ dội và sắc sảo hình ảnh bọn cướp nước. Tgiả đã không viết: "tận cùng" mà là "kiệt cùng" để nó hoà vào những từ "khô", "cháy"...được viết trước đó. Chúng đã giúp tgiả blộ rõ hình ảnh quê hương hoang tàn trong sự ám ảnh đầy sắc lửa và máu đỏ. Cảm giác tan tác, chia lìa không chỉ được hiện ra trong ý nghĩa mà còn trong cả nhịp điệu câu thơ. Dường như những câu thơ bị ngắt ra, gãy ra, khô khốc và không còn nguyên vẹn nữa.

Và một lần nữa, nỗi đau về một quê hương bị tàn phá của HCầm cũng phải được thấm thía vào vhoá-vào những btranh của làng Hồ. Một quê hương tan hoang dưới bóng giặc không chỉ hiện ra ở nhà cửa, nhõ xóm mà còn ở những btranh bị xé đôi, tan nát trong sự chia lìa của đàn lợn hay đám cưới chuột:

"Mẹ con đàn lợn âm dương-chia lìa đôi ngả-Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã-bây giờ tan tác về đâu"

"Mẹ con đàn lợn" mang những xoáy tròn âm dương tượng trưng cho sự hài hoà, thịnh vượng của đsống, và "đám cưới chuột" là 2 bức tranh nổi tiếng trong nghệ thuật tranh dân gian làng Hồ. Chtranh xảy ra, cùng với sự tan tác của con người, những btranh cũng tan tác. Đây là một tứ thơ rất sáng tạo vì những hình ảnh giđình đám cưới "tưng bừng, rộn rã" như vậy không chỉ là hình ảnh trong tranh mà nó chính là sinh hoạt trong đsống con người. Csống ấy đang êm ấm, thanh bình như một dòng chảy tự nhiên, bỗng chốc bị phá vỡ, bị "chia lìa đôi ngả", "tan tác về đâu".

Đoạn thơ rất thành công qua việc diễn tả nỗi đau trong tâm hồn của nhà thơ: nỗi đau vì quê hương bị tàn phá, csống bị huỷ diệt ở cả 2 phương diện vchất và tinh thần, cả hiện tại lẫn truyền thống. Nỗi đau ấy của tgiả đã xoáy sâu thành một câu hỏi không lời đáp mà nó không chỉ được nhắc một lần ở đoạn này:

"Bây giờ tan tác về đâu"

Bên cạnh đó, tính chất bạo tàn của cuộc chiến tranh đã được tô đậm bởi HC đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật tương phản giữa hiện tại đau thương và quá khứ thanh bình.Tình cảm của tgiả không được nói đến một cách trực tiếp,nhưng nó vẫn được hiện ra rất mãnh liệt qua các từ ngữ và h/ảnh. Đó là một tình yêu quê hương nông nàn,nỗi đau da diết và lòng căm giận sục sôi. Với người lính, những tình cảm này chính là sự bắt đầu cho hành động chiến đấu. Ngoài ra, đoạn thơ có cấu trúc rất nhịp nhàng, tự do, thoải mái nhưng không mất đi tính nhạc.

Đoạn thơ trong "BKSĐ" ở đề bài là những dòng tình cảm mãnh liệt, chân thành và trong sáng nhất mà HC đã dành cho quê hương yêu dấu của ông. Bài thơ miêu tả những nét rất riêng của một miền quê hương Kinh Bắc nhưng nó có tác động tới tình yêu quê hương của mọi ngưới VN, đặc biệt trong cảnh ngộ chung lúc bấy giờ khi đất nước bị chiến tranh tàn phá. Với tứ thơ độc đáo, giàu sức khơi gợi, tiết tấu nhịp nhàng, lời thơ giản dị phảng phất chất dân ca, "BKSĐ" đã đi vào tâm trí người đọc và có một vị trí xứng đáng , một sức sống lâu bền trong những sáng tác thơ thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954).
 
C

chienpro_9x

cam nhan ve bai tho dong chi

Chính Hữu thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp và hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.Đọc thơ Chính Hữu,ta thấy ông chủ yếu viết về đề tài người lính và chiến tranh qua một bút pháp cô đọng,hàm súc,giàu hình ảnh.Trong đó “Đồng Chí” được coi là một trong những bông hoa đầu muà trong vườn thơ kháng chiến viết về người lính trong văn học cách mạng thời kì chống Pháp.Bài thơ đã khắc họa vẻ đẹp bình dị mà cao cả của người lính vệ quốc quân –những người nông dân mặc áo lính trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp để từ đó tác giả kín đáo bộc lộ thái độ ngợi ca tình cảm đồng chí,đồng đội của họ trong hòan cảnh khó khăn,thiếu thốn,tình cảm đó cảm động,mạnh mẽ và thật đẹp.

Ở bài thơ,điều đầu tiên đập vào mắt ta chính là nhan đề của bài thơ:”Đồng chí”-một nhan đề đầy ý nghĩa.Đồng chí không chỉ đơn thuần là những người cùng chung lý tưởng ,chí hướng mà ở đây với nhan đề này nhà thơ đã ca ngợi tình cảm gắn bó keo sơn,sự sẻ chia bùi ngọt giữa những người lính xuất thân từ người nông dân chân lấm tay bùn,tình đồng chí đã giúp họ vượt qua những khó khăn gian khổ trong cuộc chiến đầy ác liệt bảo vệ quê hương,đất nước.Tình đồng chí luôn tỏa sáng trên mọi bước đường,mọi hoàn cảnh đã làm lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính. “Đồng chí” của Chính Hữu ra đời,chỉ với hai mươi câu thơ tự do thật hàm súc,bài thơ đã phác họa thành công chân dung người lính cùng mối tình đẹp đẽ của họ .Đồng thời bài thơ còn gợi cho người đọc những cảm súc,suy nghĩ sâu xa về quá khứ,hiện tại,tương lai,về con người,lẽ sống và cuộc đời.
Bài thơ được mở ra bằng những câu thơ tự sự trữ tình,nghe như một lời bộc bạch chân tình để lí giải cơ sở hình thành tình đồng chí
Thật vậy,từ mọi miền quê trên dải đất quê hương,những con người xa lạ bỗng đứng lên theo tiếng gọi của Tổ quốc,cùng họp lại với nhau,họ trở thành con người mới:Người lính.Họ là những người nông dân bình thường chân chất ,cùng đến từ những vùng quê lam lũ đói nghèo,đó là vùng”nước mặn đồng chua” hay là “đất cày lên sỏi đá” ,họ quanh năm chỉ biết đến con trâu mảnh ruộng,chỉ biết”bán mặt cho đất,bán lưng cho trời”:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Đất nước bị kẻ thù xâm lược,Tổ quốc và nhân dân đứng dưới một tròng áp bức,lòng yêu nước trong mỗi con người trỗi dậy,tạm biệt người thân,tạm biệt xóm làng,tạm biệt con đường làng với những rặng tre già đứng bất khất kề bên,tạm biệt bờ đê,ao cá,họ cầm súng lên đường theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc.Tiến gọi thiêng liêng ấy như một dây vô hình kéo những người lính lại gần với nhau ,để họ từ những ngưới “xa lạ”về đây chung một chiến hào,để họ nhanh chóng trở nên “quen nhau”,và rồi từ đây họ gắn bó thân thiết với nhau:
Súng bên súng,đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!
Họ đến với Cách Mạng cũng vì lý tưởng muốn dâng hiến cho đời “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”(Tố Hữu).Chung nhau nhiệm vụ theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc,họ về bên nhau,gắn bó cùng nhau.Cũng chính ý nghĩa thiêng liêng của cuộc đời,cuộc kháng chiến đã gằn kết họ-những con người xa lạ,nghèo khổ,đã thôi vào họ một tinh thần mới.Họ trở thành ngưới chung nhiệm vụ:”súng bên súng”,chung lý tưởng: “đầu sát bên đầu”,chung cuộc sống,họ chia sẻ với nhau những khó khăn trong cuộc chiến tranh đầy ác liệt:
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Câu thơ dường như không đơn thuần chỉ diễn tả cái khổ,cái nghèo,cái thiếu thốn về vật chất ở chiến trận mà cái chính là để thể hiện tình cảm sâu sắc giữa hai con người –hai người bạn “tri kỉ”:sự chia sẻ cùng nhau những gian khổ,buồn vui của cuộc sống,cái rét,cái khổ đã tạo nên tình tri kỉ giữa hai người lính chung chăn.Câu thơ nói đến cái rét,cái thiếu thốn mà sao ta thấy ấm áp một tình đồng đội,đồng chí giữa những con người đồng cảm.Như vậy có thể nói tình đồng chí đã bắt nguồn từ cơ sở của một tình tri kỉ sâu sắc từ cái chung của “anh”và “tôi”
Câu thơ thứ bảy kết thúc đoạn thơ chỉ gồm hai tiếng: “Đồng chí”.Nhưng với hai tiếng này,nhà thơ không chỉ đưa bài thơ lên tận cùng của tình cảm mà với sự ngắt nhịp đột ngột ,âm điệu hơi trầm và cái âm vang lạnh lùng cũn làm cho tình đồng chí đẹp hơn,cao quý hơn.Câu thơ chỉ có hai tiếng nhưng với âm điệu lạ lùng đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm,thân thương trong lòng người đọc.Trong muôn vàn nốt nhạc của tình cảm con người ta tự hỏi phải chăng tình đồng chí là cái cung bậc cao đẹp nhất,lí tưởng nhất.?Nó vang lên như một nốt nhấn nổi bật trong bản đàn,là sự kết tinh của mọi cảm xúc,tình cảm,một sự xúc động thiêng liêng,một niềm vui lớn lao của tình đồng đội.Tình đồng chí keo sơn,gắn bó là âm vang bất diệt làm cho bài thơ trở thành một phần đẹp nhất trong thơ Chính Hữu và sống mãi trong lòng người đọc,tình đồng chí ấy cũng là kỉ niệm đẹp mà người lính không bao giờ có thể quên.
Mười câu thơ tiếp theo vẫn tiếp tục phát triển chủ đề Đồng chí,đưa ra những biểu hiện cụ thể,xúc động trong tình đồng đội của người lính.
Đồng chí còn là cảm thông său sắc tâm tư nỗi niềm của nhau,những người lính thấu hiểu sâu xa hoàn cảnh,tâm sự của nhau.Thấm đẫm dư vị xót xa của người đồng đội dành cho bạn mình,câu thơ nói đến gia cảnh của người kia nhưng lại diễn đạt được tâm trạng bâng khuâng thương nhớ của người này.Câu thơ còn gợi lên sự hy sinh âm thầm của người lính dành cho cuộc kháng chiến:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
Theo tiếng gọi của non sông,anh đành gửi lại ruộng nương cho người bạn thân cày xới.Anh lên đường với một thái độ dứt khoát,mạnh mẽ qua hai chữ “mặc kệ”.Nó gợi cho ta nhớ đến hình ảnh nười chiền sĩ vệ quốc đoàn trong bài thơ “Đất nước”của Nguyễn Đình Thi:
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắn lá rơi đầy”
Thế nhưng ở bài thơ “Đồng chí”hình ảnh những cơn gió giật “lung lay”mái tranh nghèo vẩn in hiện trong tâm trí người xa quê.Họ đi dứt khoát đấy nhưng sao ta vẫn cảm thấy dường như trong lòng họ vẫn bâng khuâng,lưu luyến,vấn vương điều gì, họ cảm nhận rõ tiềng gió thổi mái tranh nghèo ,nửa như giã biệt,nửa muốn níu chân…,hai câu thơ không nói nhớ mà vẫn tạo cảm giác lắng sâu về nhớ.Gác bỏ tình riêng vì nghĩa lớn,họ quyết chí lên đường nhưng vẫn nặng lòng với quê hương,làng xóm,tâm hồn họ vẫn hướng về quê hương nơi có những khổ ruộng khô cằn không người cày cấy,nơi người thân của họ đang vất vả sớm khuya,những căn nhà không đang lung lay vì gió....Có lẽ vì vậy mà hình ảnh “giếng nước gốc đa”như làm sống lại trong lòn người lính cái bóng dáng quê nhà thân thương để rồi tình yêu và nổi nhớquê da diết cùng trỗi dậy tiếp thêm sức mạnh để người chiến sĩ tiếp tục chiến đấu.Đó có phải chỉ là tình cảm của người lính nơi chiền hào gửi về hậu phương hay đó còn là tình cảm của quê hương,của ngưới ở lại gửi ra tiền tuyến?Nhưng dù thế nào đi chăng nữa thì ta cũng có thể khẳng định tình yêu quê hương đã góp phần hình thành tình đồng chí,làm nên sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi thử thách gian lao,ác liệt thời máu lửa.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không gìày
Những câu thơ trên đã biểu hiện một cách chân thực cuộc sống khó khăn của người lính,của cuộc kháng chiến và của cả đất nước trong nhữn ngáy đầu kháng chiến chống thực dân Pháp,đó là: những cơn sốt rét rừng ác tính “sốt run người”,thiếu thốn về vật chất,quân trang,quân dụng “áo rách vai”, “quần có vài mảnh vá”, “chân không giày”.Nhưng điều quan trọng hơn người đọc cảm nhận được sự chia sẻ những gian khổ,thiếu thốn,họ chia nhau cả bệnh tật.Từng cơn sốt giữa họ-những người đồng chí với nhau là sự đồng cảm,gắn bó,tương đồng đến kì lạ.Bên cạnh đó nhà thơ ca ngợi thái độ,tình cảm của họ,trong hoàn cảnh kham khổ,thiếu thốn ấy ,những người chiến sĩ này vẫn lạc quan,tươi trẻ,nụ cười vẫn tươi nở trên môi họ: “Miệng cười buốt giá”-đó là nụ cười của sự lạc quan,bình thản,xem thường gian khổ.Một nụ cười không chỉ gây xúc động mà còn đem đến cho ta niềm cảm phục….Những câu thơ ở đây đầy xúc động nhưng không bi lụy,thảm thương.
Hình ảnh trong câu thơ cuối cùng của khổ thơ được diễn tả vô cùng xúc động:
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Mở đầu bài thơ là hình ảnh: “Anh với tôi đôi người xa lạ”nhưng kết thúc lại là: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.Thật là một hình ảnh giàu cảm xúc.Giữa hai người lính trận mạc chẳng có gì cả,chỉ có hai bàn tay nắm lấy nhau để sưởi ấm cho nhau những đêm giá rét.Nhưng hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay”đâu chỉ biểu hiện cho sự yêu thương;cho sự đoàn kết,gắn bó;cảm thông mà nó còn chứa đựng cả lời động viên cùng nhau đoàn kết vượt qua thử thách,cả niềm tin hứa hẹn lập công…Cách bộc lộ tỉnh cảm của những người chiến sĩ ở đây không ồn ào mà thật lặng lẽ để lại cho người đọc một nỗi bâng khuân xúc động khó tả nhưng lại rất sâu sắc.
Giờ đây trong những giây phút đối mặt với kẻ thù,tình đồng chí của họ trở nên cao đẹp nhất,thiêng liêng nhất:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Trước hết,đọc đoạn thơ ta thấy được một bức tranh hiện thực của cưộc kháng chiến,với từ “đêm nay”nhà thơ đã mở ra một thời điểm cụ thể cùng hình ảnh “rừng hoang sương muối”gợi lên trong lòng người đọc những khó khăn gian khổ mà người lính phải chịu,đó là những khắc nghiệt về thiên nhiên,nguy hiểm đang rình rập họ bởi họ đang ở trong một tình cảnh nguy nan:đứng “chờ giặc tới”.Thế nhưng mặc kệ những gì là gian lao,nguy hiểm họ vẫn “đứng cạnh bên nhau”,cùng nhau vào sinh ra tử ,để rồi họ chia sẻ cho nhau những gian lao.Có lẽ điều đó đã giúp họ chứng kiến được một hiện thực tuyệt đẹp được biểu hiện qua hình ảnh thơ “đầu súng trăng treo”.Người đọc bỗng cảm thấy sửng sốt,bất ngờ bởi hình ảnh thơ gợi lên nhiều những liên tưởng thú vị.Vần trăng tượng trưng cho cái đẹp,cho hòa bình như đang treo lơ lửng trên đầu mũi súng-tượng trưng cho chiến tranh.Nghĩa là người lính chiến đấu để bảo vệ hòa bình,bảo vệ cái đẹp của quê hương,đất nước.Qua hình ảnh thơ ta thật cảm động trước vẻ đẹp trong tâm hồn của người lính nông dân,trong giờ phút căng thẳng nguy hiểm nhưng họ vẫn dũng cảm đứng vững,tâm hồn họ vẫn bay bổng chất thơ,vẫn xao động trước vẻ đẹp của ánh trăng,của bầu trời.Điều gì đã giúp họ vượt lên trên giới hạn của bản thân,lên trên những gian nan khắc nghiệt và giúp họ dũng cảm đối diện với cái chết ?Lời thơ như khẳng định với chúng ta đó là tình đồng đội,đồng chí thiên liêng,là cội nguồn của sức mạnh và là điều làm nên chiến thắng.

Bài thơ với những hình ảnh chân thực,bình dị được chắt lọc từ cuộc sống thực của người lính,lời thơ mộc mạc,giản dị,giàu cảm xúc đã thể hiện một cách xúc động hình ảnh người lính và vẻ đẹp tinh thần của họ.Tình đồng chí,đồng đội,sự hy sinh cao đẹp của người lính buổi đầu cuộc kháng chiến-đó là cơ sở làm nên sức mạnh của người cầm súng,của cách mạng.
 
C

chienpro_9x

Ai hộ tui làm dàn bài bài viết số 7 Đề thứ 2 với . Đề về bài Làng đó . Cảm ơn trước nah
 
C

chienpro_9x

trời không biết năm nay thy vào bài phân tích gì đây....! các bạn giúp mình phân tích bài ánh trăng với....!
 
C

chienpro_9x

http://diendan.hocmai.vn/images/smilies/2.gif

:confused::confused:Hình ảnh bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc họa hết sức tinh tế và nhạy bén,là một cô bé giàu cá tính,bướng bỉnh và gan góc.Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm đến ghê gớm,khi mà trong mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng “Ba” ,hay khi hất cái trứng mà ông Sáu gắp cho xuống,cuối cùng khi ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại.Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá tính của bé Thu,nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách của bé,dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh,dù là bị dồn vào thế bí,dù là bị ông Sáu đánh,bé Thu luôn bộc lộ một con người kiên quyết ,mạng mẽ.Có người cho rằng tác giả đã xây dựng tính cách bé Thu hơi “thái quá”,song thiết nghĩ chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý.Trong tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người cha “chụp chung trong bức ảnh với má”.Người cha ấy không giống ông Sáu,không phải bởi thời gian đã làm ông Sáu già đi mà do cái thẹo trên má.Vết thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm biến dạng khuôn mặt ông Sáu.Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh,nó còn quá bé để có thể biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn,biết đến cái cay xè của mùi thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sỹ.Cái cảm giác đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh,nhiễu sách mà là sự kiên định,thẳng thắn ,có lập trường bền chặt,bộc lộ phần nào đó tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô gian liên giải phóng sau này.

Nhưng xét cho cùng,cô bé ấy có bướng bỉnh,gan góc,tình cảm có sâu sắc,mạnh mẽ thế nào thì Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ mới 8 tuổi,với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ.Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lý của trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến và trân trọng một cách đẹp đẽ,thiêng liêng những tâm tư tình cảm vô giá ấy.Khi bị ba đánh,bé Thu “cầm đũa gắp lại cái trứng cá để vào chén rồi lặng lẽ đứng dậy,bước ra khỏi mâm”.Có cảm giác bé Thu sợ ông Sáu sẽ nhìn thấy những giot nước mắt trong chính tâm tư của mình? Hay bé Thu dường như lờ mờ nhận ra mình có lỗi?Lại một loạt hành động tiếp theo “Xuống bến nó nhảy xuống xuồng,mở lòi tói,cố làm cho dây lòi tói khua rổn rang ,khua thật to,rồi lấy dầm bơi qua sông”.Bé Thu bỏ đi lúc bữa cơm nhưng lại có ý tạo tiếng động gây sự chú ý.Có lẽ co bé muốn mọi người trong nhà biết bé sắp đi ,mà chạy ra vỗ về,dỗ dành.Có một sự đối lập trong những hành động của bé Thu,giữa một bên là sự cứng cỏi,già giặn hơn tuổi,nhưng ở khía cạnh khác cô bé vẫn mong được yêu quý vỗ về.Song khi “Chiều đó,mẹ nó sang dỗ dành mấy nó cũng không chịu về”,cái cá tính cố chấp một cách trẻ con của bé Thu được tác giả khắc họa vừa gần gũi,vừa tinh tế.Dù như thế thì bé Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ 8 tuổi hồn nhiên,dẫu có vẻ như cứng rắn và mạnh mẽ trước tuổi.

Ở đoạn cuối,khi mà bé Thu nhận ra cha,thật khó để phủ nhận bé Thu là đứa bé giàu tính cảm.Tình cha con trong Thu giữ gìn bấy lâu nay,giờ trỗi dậy,vào cái giây phút mà cha con phải tạm biệt nhau.Có ai ngờ một cô bé không được gặp cha từ năm 1 tuổi vẫn luôn vun đắp một tình yêu bền bỉ và mãnh liệt với cha mình,dù người cha ấy chưa hề bồng bế nó,cưng nựng nó,săn sóc,chăm lo cho nó,làm cho nó một món đồ chơi kể từ khi nó bắt đầu làm quen với cuộc sống.Nó gần như chưa có chú ấn tượng nào về cha,song chắc không ít lần nó đã tự tưởng tượng hình ảnh người cha nó tài giỏi nhường nào,cao lớn nhường nào,có vòng tay rộng để ôm nó vào lòng ra sao?Tình cảm mãnh liệt trong nó ngăn không cho nó nhận một người đàn ông lại kia làm bố.Khi đến ngày ông Sáu phải đi,con bé cứng cỏi mạnh mẽ ngày hôm nào lại “như thể bị bỏ rơi”,”lúc đứng ở góc nhà,lúc đứng tựa cửa và cứ nìn mọi người vây quanh ba nó,dường như nó thèm khát cái sự ấm áp của tình cảm gia đình ,nó cũng muốn chạy lại và ôm hôn cha nó lắm chứ,nhưng lại có cái gì chặn ngang cổ họng nó,làm nó cứ đứng nguyên ở ấy, ước mong cha nó sẽ nhận ra sự có mặt của nó.Và rồi đến khi cha nó chào nó trước khi đi,có cảm giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào dâng.Nó không nén nổi tình cảm như trước đây nữa,nó bỗng kêu hét lên “Ba…”,”vừa kêu vừa chạy xô đến nhanh như một con sóc,nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”,”Nó hôn ba nó cùng khắp.Nó hôn tóc,hôn cổ,hôn vai,hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”.Tiếng kêu “Ba” từ sâu thẳm trái tim bé Thu,tiếng gọi mà ba nó đã dùng mọi cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua,tiếng gọi ba gần gũi lần đầu tiên trong đời nó như thể nó là đứa trẻ mới bi bô tập nói,tiếng gọi mà ba nó tha thiết được nghe một lần.Bao nhiêu mơ ước,khao khát như muốn vỡ òa ra tring một tiếng gọi cha.Tiếng gọi ấy không chỉ khiến ba nó bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng với nó.Lần đầu tiên nó cảm nhận mơ hồ về niềm sung sướng của một đứa con có cha.Dường như bé Thu đã lớn lên trong đầu óc non nớt của nó.Ngòi bút nhà văn khẳng định một nhân vật giảu tình cảm,có cá tính mạnh mẽ,kiên quyết nhưng vẫn hồn nhiên,ngây thơ:Nhân vật bé Thu
 
C

chienpro_9x

cho mình hỏi về câu số 4 SGK về ôn tập truyện nha
về phần ''nêu cảm nghĩ ''đó,càng nhanh càng tốt hen
thank you truoc
 
C

chienpro_9x

Có câu nói:”Những tình cảm đẹp sẽ là động lực mạnh mẽ trong tâm hồn mỗi người!”Vì lòng yêu cha,một cô bé nhỏ mới tám tuổi nhưng nhất quyết không nhận người khác làm bố,cho dù bị đánh.Vì lòng thương con,một người chiến sỹ dù ở sa trường vẫn luôn cặm cụi làm một chiếc lược để tặng đứa con gái bé bỏng.Có người nhận xét rằng “tình phụ tử không thể ấm áp và đẹp đẽ như tình mẫu tử”.Song nếu đọc truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng ,có thể bạn sẽ phải có cái nhìn khác mới mẻ và chân thực hơn.Câu chuyện khắc họa hình ảnh một nhân vật bé Thu đầy ấn tượng và tinh tế, hơn thế lại ca ngợi tình cha con thiêng liêng,vĩnh cửu dù trong chiến tranh.

Nguyễn Quáng Sáng sinh năm 1933 ở An Giang.Thời kỳ kháng chiến chống Pháp ông tham gia bộ đội và hoạt động ở chiến trường Nam Bộ.Sau năm 1945, ông tập kết ra Bắc và bắt đầu viết vănn.Có lẽ vì sinh ra va hoạt động chủ yếu ở miền Nam nên các tác phẩm của ông hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ.Các tác phẩm chính là Chiếc lược ngà(1968),Mùa gió chướng(1975),Dòng sông thơ ấu(1985),…Nguyễn Quang Sáng có lỗi viết văn giản dị,mộc mạc nhưng sâu sắc,xoay quanh những câu truyện đời thường nhưng ý nghĩa.Chiếc lược ngà viết năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ chống Mỹ ,là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Quang Sáng, khẳng định nghệ thuật miêu tả tâm lý đặc sắc,xây dựng tình huống bất ngờ và ca ngợi tình cha con thắm thiết.Vẫn viết về một đề tài dường như đã cũ song truyện mang nhiều giá trị nhân văn sâu sắc.

Câu truyện xoay quanh tình huống gặp mặt của bé Thu và ông Sáu.Khi ông Sáu đi kháng chiên chống Pháp,lúc đó bé Thu chưa đầy một tuổi.Khi ông có dịp thăm nhà thì con gái đã lên 8 tuổi.Song bé Thu lại không chịu nhận cha vì vết thẹo trên má làm ông Sáu không giống như bức ảnh chụp chung với má.Trong ba ngày ở nhà, ông Sáu dùng mọi cách để gần gũi nhưng con bé vẫn không chịu gọi một tiếng “Ba”. Đến khi bé Thu nhận ra cha mình thì cũng là khi ông Sáu phải ra đi. Ông hứa sẽ mang về tặng con một cái lược ngà.Những ngày chiến đầu trong rứng, ông cặm cụi làm chiếc lược cho con gái.Chiếc lược làm xong chưa kịp trao cho con gái thì ông đã hi sinh.Trước khi nhắm mắt ông chỉ kịp trao cây lược cho người bạn nhờ chuyển lại cho con mình.

Hình ảnh bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc họa hết sức tinh tế và nhạy bén,là một cô bé giàu cá tính,bướng bỉnh và gan góc.Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm đến ghê gớm,khi mà trong mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng “Ba” ,hay khi hất cái trứng mà ông Sáu gắp cho xuống,cuối cùng khi ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại.Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá tính của bé Thu,nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách của bé,dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh,dù là bị dồn vào thế bí,dù là bị ông Sáu đánh,bé Thu luôn bộc lộ một con người kiên quyết ,mạng mẽ.Có người cho rằng tác giả đã xây dựng tính cách bé Thu hơi “thái quá”,song thiết nghĩ chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý.Trong tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người cha “chụp chung trong bức ảnh với má”.Người cha ấy không giống ông Sáu,không phải bởi thời gian đã làm ông Sáu già đi mà do cái thẹo trên má.Vết thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm biến dạng khuôn mặt ông Sáu.Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh,nó còn quá bé để có thể biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn,biết đến cái cay xè của mùi thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sỹ.Cái cảm giác đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh,nhiễu sách mà là sự kiên định,thẳng thắn ,có lập trường bền chặt,bộc lộ phần nào đó tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô gian liên giải phóng sau này.

Nhưng xét cho cùng,cô bé ấy có bướng bỉnh,gan góc,tình cảm có sâu sắc,mạnh mẽ thế nào thì Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ mới 8 tuổi,với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ.Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lý của trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến và trân trọng một cách đẹp đẽ,thiêng liêng những tâm tư tình cảm vô giá ấy.Khi bị ba đánh,bé Thu “cầm đũa gắp lại cái trứng cá để vào chén rồi lặng lẽ đứng dậy,bước ra khỏi mâm”.Có cảm giác bé Thu sợ ông Sáu sẽ nhìn thấy những giot nước mắt trong chính tâm tư của mình? Hay bé Thu dường như lờ mờ nhận ra mình có lỗi?Lại một loạt hành động tiếp theo “Xuống bến nó nhảy xuống xuồng,mở lòi tói,cố làm cho dây lòi tói khua rổn rang ,khua thật to,rồi lấy dầm bơi qua sông”.Bé Thu bỏ đi lúc bữa cơm nhưng lại có ý tạo tiếng động gây sự chú ý.Có lẽ co bé muốn mọi người trong nhà biết bé sắp đi ,mà chạy ra vỗ về,dỗ dành.Có một sự đối lập trong những hành động của bé Thu,giữa một bên là sự cứng cỏi,già giặn hơn tuổi,nhưng ở khía cạnh khác cô bé vẫn mong được yêu quý vỗ về.Song khi “Chiều đó,mẹ nó sang dỗ dành mấy nó cũng không chịu về”,cái cá tính cố chấp một cách trẻ con của bé Thu được tác giả khắc họa vừa gần gũi,vừa tinh tế.Dù như thế thì bé Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ 8 tuổi hồn nhiên,dẫu có vẻ như cứng rắn và mạnh mẽ trước tuổi.

Ở đoạn cuối,khi mà bé Thu nhận ra cha,thật khó để phủ nhận bé Thu là đứa bé giàu tính cảm.Tình cha con trong Thu giữ gìn bấy lâu nay,giờ trỗi dậy,vào cái giây phút mà cha con phải tạm biệt nhau.Có ai ngờ một cô bé không được gặp cha từ năm 1 tuổi vẫn luôn vun đắp một tình yêu bền bỉ và mãnh liệt với cha mình,dù người cha ấy chưa hề bồng bế nó,cưng nựng nó,săn sóc,chăm lo cho nó,làm cho nó một món đồ chơi kể từ khi nó bắt đầu làm quen với cuộc sống.Nó gần như chưa có chú ấn tượng nào về cha,song chắc không ít lần nó đã tự tưởng tượng hình ảnh người cha nó tài giỏi nhường nào,cao lớn nhường nào,có vòng tay rộng để ôm nó vào lòng ra sao?Tình cảm mãnh liệt trong nó ngăn không cho nó nhận một người đàn ông lại kia làm bố.Khi đến ngày ông Sáu phải đi,con bé cứng cỏi mạnh mẽ ngày hôm nào lại “như thể bị bỏ rơi”,”lúc đứng ở góc nhà,lúc đứng tựa cửa và cứ nìn mọi người vây quanh ba nó,dường như nó thèm khát cái sự ấm áp của tình cảm gia đình ,nó cũng muốn chạy lại và ôm hôn cha nó lắm chứ,nhưng lại có cái gì chặn ngang cổ họng nó,làm nó cứ đứng nguyên ở ấy, ước mong cha nó sẽ nhận ra sự có mặt của nó.Và rồi đến khi cha nó chào nó trước khi đi,có cảm giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào dâng.Nó không nén nổi tình cảm như trước đây nữa,nó bỗng kêu hét lên “Ba…”,”vừa kêu vừa chạy xô đến nhanh như một con sóc,nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”,”Nó hôn ba nó cùng khắp.Nó hôn tóc,hôn cổ,hôn vai,hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”.Tiếng kêu “Ba” từ sâu thẳm trái tim bé Thu,tiếng gọi mà ba nó đã dùng mọi cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua,tiếng gọi ba gần gũi lần đầu tiên trong đời nó như thể nó là đứa trẻ mới bi bô tập nói,tiếng gọi mà ba nó tha thiết được nghe một lần.Bao nhiêu mơ ước,khao khát như muốn vỡ òa ra tring một tiếng gọi cha.Tiếng gọi ấy không chỉ khiến ba nó bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng với nó.Lần đầu tiên nó cảm nhận mơ hồ về niềm sung sướng của một đứa con có cha.Dường như bé Thu đã lớn lên trong đầu óc non nớt của nó.Ngòi bút nhà văn khẳng định một nhân vật giảu tình cảm,có cá tính mạnh mẽ,kiên quyết nhưng vẫn hồn nhiên,ngây thơ:Nhân vật bé Thu.

Không chỉ khắc họa thành công nhân vật bé Thu,truyện ngắn “Chiếc lược ngà” ca ngợi tình cha con sâu đậm mà đẹp đẽ.Bên cạnh hình ảnh bé Thu,hình ảnh ông Sáu được giới thiệu là người lính chiến tranh,vì nhiệm vụ cao cả mà phải tham gia chiến đấu,bỏ lại gia đình,quê hương;và đặc biệt ông là người yêu con tha thiết.Sau ngần ấy năm tham gia kháng chiến, ông Sáu vẫn luôn nung nấu khao khát cháy bỏng là được gặp con và nghe con gọi một tiếng cha.Nhưng cái ngày gặp lại con thì lại nảy sinh một nỗi éo le là bé Thu không nhận cha. Ông Sáu càng muốn gần gũi thì dường như sự lạnh lùng,bướng bỉnh của con bé làm tổn thương những tình cảm da diết nhất trong lòng ông.Còn gì đau đớn hơn một người cha giàu lòng thương con mà bị chính đứa con gái ấy từ chối.Có thể coi việc bé Thu hất cái trứng ra khỏi chén như một ngòi nổ làm bùng lên những tình cảm mà bấy lâu nay ông dồn nén,chứa chất trong lòng.Có lẽ ông biết rằng mình cũng không đúng vì suốt bảy năm trời chẳng thể về thăm con,chẳng làm gì được cho con,nên nhân những ngày này ông muốn bù đắp cho con phần nào.Giá gì không có cái bi kịch ấy,giá gì bé Thu nhận ra ông Sáu sớm hơn,thì có thể ông Sáu và bé Thu sẽ có nhiều thời gian vui vẻ,hạnh phúc.Nhưng sợ rằng một câu truyện như vậy sẽ chẳng thể gây được cảm động cho người đọc với những xúc cảm khác nhau,có lúc dồn nén,có lúc lại thương xót,có lúc lại “mừng mừng tủi tủi” cho ông Sáu khi mà bé Thu cất tiếng gọi “Ba”,tiếng gọi muộn màng nhưng lại có ý nghĩa đẹp đẽ!Ai có thể ngờ được một người lính dạn dày nơi chiến trường,quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng yếu mền trước con gái mình.Những giọt nước mắt hiếm hoi của một cuộc đời từng trải nhiều gian khổ vất vả,song lại rơi khi lần đầu tiên ông cảm nhận được sự ấm áp của cha con thực sự!(“Không ghìm được xúc động và không muôn cho con thấy mình khóc,anh Sáu một tày ôm con,một tay rút khăn lau nước mắt”).”Ba về!Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của con gái bé bỏng trong giây pút cha con từ biệt.Nhưng đối với người cha thì đó là mơ ước đầu tiên và duy nhất,cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng ông.Tình cảm ông Sáu dành cho bé Thu trở nên thiêng liêng,cao cả và mãnh liệt hơn biết bao khi ông tự tay làm chiếc lược ngà cho con.”Khi ông Sáu tùm được khúc ngà sung sướng như trẻ con vớ được quà”,” Ông thận trọng tỉ,mỉ…”,”Ông gò lưng khắc từng nét…”Một loạt hành động cảm động như khẳng định tình cha con sâu đậm.Tất cả tình yêu,nỗi nhớ con dồn cả vào công việc làm chiếc lược ấy. Ông nâng niu chiếc lược như nâng niu đứa con bé nhỏ của mình.Lòng yêu con đã biến một người chiến sỹ trở thành một nghệ nhân sáng tạo tài tình,dù chỉ sáng tạo môt tác phẩm duy nhất trong đời.Cuối truyện có chi tiết ông Sáu đưa tay vào túi,móc lấy cây lược,đưa cho bác Ba và nhìn một hồi lâu. Ông Sáu hi sinh mà không kịp trăn trối điều gì,chỉ có một ánh mắt với niềm ước nguyện cháy bỏng mong người bạn của mình sẽ là người thực hiện nốt lời hứa duy nhất của mình với con.Tình cảm của ông sáu khiến người ta phải thấy ấm lòng và cảm động sâu sắc.

Người mất,người còn nhưng kỷ vật duy nhất,gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại,chiếc lược ngà vẫn còn ở đây.Chiếc lược ngà là kết tinh tình phụ tử mộc mạc, đơn sơ mà đằm thắm,kỳ diệu,là hiện hữu của tình cha con bất tử giữa ông Sáu và bé Thu;và là minh chứng chứng kiến lòng yêu thương vô bờ bến của ông Sáu với con.Có thể chiếc lược ấy chưa chải đượcmais tóc của bé Thu nhưng lại gỡ rối được tâm trạng của ông. Chiếc lược ngà xuất hiện đánh dấu một kết cấu vòng tròn cho câu
chuyện,và cũng là bài ca đẹp tồn tại vĩnh cửu của tình cha con. (Nhan đề của chuyện cũng là “Chiếc lược ngà”!)
 
C

chienpro_9x

http://diendan.hocmai.vn/images/smilies/eek.gif

:eek::eek::)|:)|:D:D:(:(:):););):p:p:confused::confused::eek::eek:\sum_{i=1}^k a_i^n\sum_{i=1}^k a_i^nCái mất mát lớn nhất mà thiên truyện ngắn đề cập là những người đã khuất,là tổ ấm gia đình không còn trọn vẹn.(Người đọc có thể bắt gặp tình huống này một lần nữa ở truyện “Chuyện người con gái Nam Xương”). Đó thật sự là tội ác,những đau thương mất mát mà chiến tranh tàn bạo đã gây ra.Chính chiến tranh đã làm cho con người phải xa nhau,chiến tranh làm khuôn mặt ông Sáu biến dạng,chiến tranh khiến cuộc gặp gỡ của hai cha con vô cùng éo le,bị thử thác,rồi một lần nữa chiến tranh lại khắc nghiệt để ông Sáu chưa kịp trao chiếc lược ngà đến tận tay cho con mà đã phải hi sinh trên chiến trường.Câu chuyện như một lời tố cáo chiến tranh phi nghĩa gây đổ máu vô ích,làm nhà nhà li tán,người người xa nhau vĩnh viễn.Song cái chúng ta thấy lại không có sự bi lụy ma là sức mạnh,lòng căm thù đã biến Thu trở thành một cô giao liên dũng cảm,mạnh mẽ, đã gắn bó với cuộc đời con người mất mát xích lại gần nhau để cung đứng lên hát tiếp bài ca chiến thắng,

“Chiếc lược ngà” như một câu chuyện cổ tích hiện đại,thành công trong việc xây dựng hình thượng bé Thu và gửi gắm thông điệp đẹp về tình cha con.Nhân vật ông Ba-người kể chuyện hay chính là nhà văn Nguyễn Quang Sáng,phải là người từng trải,sống hết minh vì cách mạng kháng chiến của quê hương,gắn bó máu thịt với những con người giàu tình yêu,nhân hậu mà rất kiên cường,bất khuất,nha văn mới có thể nhập hồn được vào các nhân vật,sáng tạo nhiều hình tượng với các chi tiết sinh động,bất ngờ,hơn nữa lại có giọng văn dung di,cảm động!

Chiến tranh là hiện thực đau xót của nhân loại,nhưng từ chính trong gian khổ khốc liệt,có những thứ tình cảm đẹp vẫn nảy nở: tình đồng chí,tình yêu đôi lứa,tình cảm gia đình,và cả tình của một người cha với con gái.Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là một áng văn bất hủ ca ngợi tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng,với những con người giàu tình cảm và đẹp đẽ,như nhân vật bé Thu.
 
C

chienpro_9x

Kim Lân thuộc lớp các nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng Tháng 8 – 1945 với những truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hoá xứ Kinh Bắc. Ông gắn bó với thôn quê, từ lâu đã am hiểu người nông dân. Đi kháng chiến, ông tha thiết muốn thể hiện tinh thần kháng chiến của người nông dân
- Truyện ngắn Làng được viết và in năm 1948, trên số đầu tiên của tạp chí Văn nghệ ở chiến khu Việt Bắc. Truyện nhanh chóng được khẳng định vì nó thể hiện thành công một tình cảm lớn lao của dân tộc, tình yêu nước, thông qua một con người cụ thể, người nông dân với bản chất truyền thống cùng những chuyển biến mới trong tình cảm của họ vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
B- Thân bài
1. Truyện ngắn Làng biểu hiện một tình cảm cao đẹp của toàn dân tộc, tình cảm quê hương đất nước. Với người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến thì tình yêu làng xóm quê hương đã hoà nhập trong tình yêu nước, tinh thần kháng chiến. Tình cảm đó vừa có tính truyền thống vừa có chuyển biến mới.
2. Thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy trong sự thể hiện sinh động và độc đáo ở một con người, nhân vật ông Hai. ở ông Hai tình cảm chung đó mang rõ màu sắc riêng, in rõ cá tính chỉ riêng ông mới có.
a. Tình yêu làng, một bản chất có tính truyền thông trong ông Hai.
- Ông hay khoe làng, đó là niềm tự hào sâu sắc về làng quê.
- Cái làng đó với người nồn dân có một ý nghĩa cực kì quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần.
b. Sau cách mạng, đi theo kháng chiến, ông đã có những chuyển biến mới trong tình cảm.
- Được cách mạng giải phóng, ông tự hào về phong trào cách mạng của quê hương, vê việc xây dựng làng kháng chiến của quê ông. Phải xa làng, ông nhớ quá cái khong khí “đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá…”; rồi ông lo “cái chòi gác,… những đường hầm bí mật,…” đã xong chưa?
- Tâm lí ham thích theo dõi tin tức kháng chiến, thích bìh luận, náo nức trước tin thắng lợi ở mọi nơi “Cứ thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, cả súng cũng vậy, hôm nay dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích tiểu thành đại, làm gì mà thằng Tây không bước sớm”.
c. Tình yêu làng gắn bó sâu sắc với tình yêu nước của ông Hai bộc lộ sâu sắc trong tâm lí ông khi nghe tin làng theo giặc.
- Khi mới nghe tin xấu đó, ông sững sờ, chưa tin. Nhưng khi người ta kể rành rọt, không tin không được, ông xấu hổ lảng ra về. Nghe họ chì chiết ông đau đớn cúi gầm mặt xuống mà đi.
- Về đến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó “cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi”. Ông giận những người ở lại làng, nhưng điểm mặt từng người thì lại không tin họ “đổ đốn” ra thế. Nhưng cái tâm lí “không có lửa làm sao có khói”, lại bắt ông phải tin là họ đã phản nước hại dân.
- Ba bốn ngày sau, ông không dám ra ngoài. Cai tin nhục nhã ấy choán hết tâm trí ông thành nỗi ám ảnh khủng khiếp. Ông luôn hoảng hốt giật mình. Khong khí nặng nề bao trùm cả nhà.
- Tình cảm yêu nước và yêu làng còn thể hiện sâu sắc trong cuộc xung đột nội tâm gay gắt: Đã có lúc ông muốn quay về làng vì ở đây tủi hổ quá, vì bị đẩy vào bế tắc khi có tin đồn không đâu chứa chấp người làng chợ Dầu. Nhưng tình yêu nước, lòng trung thành với kháng chiến đã mạnh hơn tình yêu làng nên ông lại dứt khoát: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Nói cứng như vậy nhưng thực lòng đau như cắt.
- Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách cảm động nhất khi ông chút nỗi lòng vào lời tâm sự với đứa con út ngây thơ. Thực chất đó là lời thanh minh với cụ Hồ, với anh em đồng chí và tự nhủ mình trong những lúc thử thách căng thẳng này:
+ Đứa con ông bé tí mà cũng biết giơ tay thề: “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!” nữa là ông, bố của nó.
+ Ông mong “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”.
+ Qua đó, ta thấy rõ:
Tình yêu sâu nặng đối với làng chợ Dầu truyền thống (chứ không phải cái làng đổ đốn theo giặc).
Tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng với kháng chiến mà biểu tượng của kháng chiến là cụ Hồ được biẻu lộ rất mộc mạc, chân thành. Tình cảm đó sâu nặng, bền vững và vô cùng thiêng liêng : có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.
d. Khi cái tin kia được cải chính, gánh nặng tâm lí tủi nhục được trút bỏ, ông Hai tột cùng vui sướng và càng tự hào về làng chợ Dầu.
- Cái cách ông đi khoe việc Tây đốt sạch nhà của ông là biểu hiện cụ thể ý chí “Thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước” của người nông dân lao động bình thường.
- Việc ông kể rành rọt về trận chống càn ở làng chợ Dầu thể hiện rõ tinh thần kháng chiến và niềm tự hào về làng kháng chiến của ông.
3. Nhân vạt ông Hai để lại một dấu ấn không phai mờ là nhờ nghệ thuật miêu tả tâm lí tính cách và ngôn ngữ nhân vật của người nông dân dưới ngòi bút của Kim Lân.
- Tác giả đặt nhân vật vào những tình huống thử thách bên trong để nhân vật bộc lộ chiều sâu tâm trạng.
- Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại.
Ngôn ngữ của Ông Hai vừa có nét chung của người nông dân lại vừa mang đậm cá tính nhân vật nên rất sinh động.
C- Kết bài:
- Qua nhân vật ông Hai, người đọc thấm thía tình yêu làng, yêu nước rất mộc mạc, chân thành mà vô cùng sâu nặng, cao quý trong những người nông dân lao động bình thường.
- Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yếu đất nước là nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách mạng mà văn học thời kháng chiến chống Pháp đã chú trọng làm nổi bật. Truyện ngắn Làng của Kim Lân là một trong những thành công đáng quý.
 
C

chienpro_9x

http://diendan.hocmai.vn/images/smilies/tex/goc.gif

:):):(:(:(Ai hộ tui làm dàn bài bài viết số 7 Đề thứ 2 với . Đề về bài Làng đó . Cảm ơn trước nha
 
C

chienpro_9x

http://diendan.hocmai.vn/images/smilies/tex/phanso.gif

\{ABC}\{ABC}Suy nghĩ của em về đoạn trích chiếc lược ngà hả?
Em có suy nghĩ gì? Trả lời những câu hỏi sau nhé
câu 1: Hoàn cảnh của câu truyện ra sao? Em thấy cách xử sự của bé Thu thế nào? (trước khi nói tiếng ba và sau khi nói tiếng ba)
Câu 2: Em thấy tình cha con ntn? Tình cảm của cha dành cho con và của con dành cho cha
Câu 3: Cái gì đã chia cắt tình cha con ấy? Chiến tranh em ạ! Chiến tranh khiến bé Thu sống cuộc sống không có ba từ bé, chiến tranh khiến anh Sáu bị thương một vệt dài ở má. Chiến tranh cũng góp phần hình thành nên tính cách của bé Thu (thông minh, ngoan cố và nhất là giàu tình cảm với ba của mình, em nêu ví dụ: Tự múc nước gạo ra khỏi nồi cơm đang sôi, ôm chặt lấy ba khi ông sắp ra đi...
Câu 4: Cái gì đã gây ra chiến tranh, lên án giặc ngoại xâm đó em. Em có căm thù chúng ko?
 
C

chienpro_9x

http://diendan.hocmai.vn/images/smilies/4.gif

:p:p:):)Hình ảnh bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc họa hết sức tinh tế và nhạy bén,là một cô bé giàu cá tính,bướng bỉnh và gan góc.Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm đến ghê gớm,khi mà trong mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng “Ba” ,hay khi hất cái trứng mà ông Sáu gắp cho xuống,cuối cùng khi ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại.Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá tính của bé Thu,nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách của bé,dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh,dù là bị dồn vào thế bí,dù là bị ông Sáu đánh,bé Thu luôn bộc lộ một con người kiên quyết ,mạng mẽ.Có người cho rằng tác giả đã xây dựng tính cách bé Thu hơi “thái quá”,song thiết nghĩ chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý.Trong tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người cha “chụp chung trong bức ảnh với má”.Người cha ấy không giống ông Sáu,không phải bởi thời gian đã làm ông Sáu già đi mà do cái thẹo trên má.Vết thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm biến dạng khuôn mặt ông Sáu.Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh,nó còn quá bé để có thể biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn,biết đến cái cay xè của mùi thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sỹ.Cái cảm giác đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh,nhiễu sách mà là sự kiên định,thẳng thắn ,có lập trường bền chặt,bộc lộ phần nào đó tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô gian liên giải phóng sau này.

Nhưng xét cho cùng,cô bé ấy có bướng bỉnh,gan góc,tình cảm có sâu sắc,mạnh mẽ thế nào thì Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ mới 8 tuổi,với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ.Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lý của trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến và trân trọng một cách đẹp đẽ,thiêng liêng những tâm tư tình cảm vô giá ấy.Khi bị ba đánh,bé Thu “cầm đũa gắp lại cái trứng cá để vào chén rồi lặng lẽ đứng dậy,bước ra khỏi mâm”.Có cảm giác bé Thu sợ ông Sáu sẽ nhìn thấy những giot nước mắt trong chính tâm tư của mình? Hay bé Thu dường như lờ mờ nhận ra mình có lỗi?Lại một loạt hành động tiếp theo “Xuống bến nó nhảy xuống xuồng,mở lòi tói,cố làm cho dây lòi tói khua rổn rang ,khua thật to,rồi lấy dầm bơi qua sông”.Bé Thu bỏ đi lúc bữa cơm nhưng lại có ý tạo tiếng động gây sự chú ý.Có lẽ co bé muốn mọi người trong nhà biết bé sắp đi ,mà chạy ra vỗ về,dỗ dành.Có một sự đối lập trong những hành động của bé Thu,giữa một bên là sự cứng cỏi,già giặn hơn tuổi,nhưng ở khía cạnh khác cô bé vẫn mong được yêu quý vỗ về.Song khi “Chiều đó,mẹ nó sang dỗ dành mấy nó cũng không chịu về”,cái cá tính cố chấp một cách trẻ con của bé Thu được tác giả khắc họa vừa gần gũi,vừa tinh tế.Dù như thế thì bé Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ 8 tuổi hồn nhiên,dẫu có vẻ như cứng rắn và mạnh mẽ trước tuổi.

Ở đoạn cuối,khi mà bé Thu nhận ra cha,thật khó để phủ nhận bé Thu là đứa bé giàu tính cảm.Tình cha con trong Thu giữ gìn bấy lâu nay,giờ trỗi dậy,vào cái giây phút mà cha con phải tạm biệt nhau.Có ai ngờ một cô bé không được gặp cha từ năm 1 tuổi vẫn luôn vun đắp một tình yêu bền bỉ và mãnh liệt với cha mình,dù người cha ấy chưa hề bồng bế nó,cưng nựng nó,săn sóc,chăm lo cho nó,làm cho nó một món đồ chơi kể từ khi nó bắt đầu làm quen với cuộc sống.Nó gần như chưa có chú ấn tượng nào về cha,song chắc không ít lần nó đã tự tưởng tượng hình ảnh người cha nó tài giỏi nhường nào,cao lớn nhường nào,có vòng tay rộng để ôm nó vào lòng ra sao?Tình cảm mãnh liệt trong nó ngăn không cho nó nhận một người đàn ông lại kia làm bố.Khi đến ngày ông Sáu phải đi,con bé cứng cỏi mạnh mẽ ngày hôm nào lại “như thể bị bỏ rơi”,”lúc đứng ở góc nhà,lúc đứng tựa cửa và cứ nìn mọi người vây quanh ba nó,dường như nó thèm khát cái sự ấm áp của tình cảm gia đình ,nó cũng muốn chạy lại và ôm hôn cha nó lắm chứ,nhưng lại có cái gì chặn ngang cổ họng nó,làm nó cứ đứng nguyên ở ấy, ước mong cha nó sẽ nhận ra sự có mặt của nó.Và rồi đến khi cha nó chào nó trước khi đi,có cảm giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào dâng.Nó không nén nổi tình cảm như trước đây nữa,nó bỗng kêu hét lên “Ba…”,”vừa kêu vừa chạy xô đến nhanh như một con sóc,nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”,”Nó hôn ba nó cùng khắp.Nó hôn tóc,hôn cổ,hôn vai,hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”.Tiếng kêu “Ba” từ sâu thẳm trái tim bé Thu,tiếng gọi mà ba nó đã dùng mọi cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua,tiếng gọi ba gần gũi lần đầu tiên trong đời nó như thể nó là đứa trẻ mới bi bô tập nói,tiếng gọi mà ba nó tha thiết được nghe một lần.Bao nhiêu mơ ước,khao khát như muốn vỡ òa ra tring một tiếng gọi cha.Tiếng gọi ấy không chỉ khiến ba nó bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng với nó.Lần đầu tiên nó cảm nhận mơ hồ về niềm sung sướng của một đứa con có cha.Dường như bé Thu đã lớn lên trong đầu óc non nớt của nó.Ngòi bút nhà văn khẳng định một nhân vật giảu tình cảm,có cá tính mạnh mẽ,kiên quyết nhưng vẫn hồn nhiên,ngây thơ:Nhân vật bé Thu.
 
C

chienpro_9x

http://diendan.hocmai.vn/images/smilies/3.gif

;););):):)Thanhks yOU mọi người nha
em cần gấp.ok
 
C

chienpro_9x

http://diendan.hocmai.vn/images/smilies/22.gif

@};-@};-o=>o=>ok tôi sẽ đáp ưng hêt yêu cầu của các bạn
 
H

hanhhap1997

• Văn Học







Suy nghĩ về nhân vật bé Thu trong truyện Chiếc lược ngà
Truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng được viết năm 1966. Truyện thể hiện tỡnh cảm cha con sõu nặng trong hoàn cảnh ộo le của chiến tranh. Gấp sỏch lại rồi nhưng em vẫn không sao quên được hỡnh ảnh bộ Thu - một cụ bộ mới tỏm tuổi nhưng đầy cá tính, bản lĩnh.
Hình ảnh bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc họa hết sức tinh tế và nhạy bén, là một cô bé giàu cá tính, bướng bỉnh và gan góc. Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm đến ghê gớm,khi mà trong mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng “Ba”, hay khi hất cái trứng mà ông Sáu gắp cho xuống, cuối cùng khi ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại. Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá tính của bé Thu, nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách của bé, dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh, dù là bị dồn vào thế bí, dù là bị ông Sáu đánh, bé Thu luôn bộc lộ một con người kiên quyết, mạng mẽ. Có người cho rằng tác giả đã xây dựng tính cách bé Thu hơi “thái quá”, song thiết nghĩ chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý. Trong tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người cha “chụp chung trong bức ảnh với má”. Người cha ấy không giống ông Sáu, không phải bởi thời gian đã làm ông Sáu già đi mà do cái thẹo trên má. Vết thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm biến dạng khuôn mặt ông Sáu. Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá bé để có thể biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn, biết đến cái cay xè của mùi thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sỹ. Cái cảm giác đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiễu sách mà là sự kiên định, thẳng thắn, có lập trường bền chặt, bộc lộ phần nào đó tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô gian liên giải phóng sau này.
Nhưng xét cho cùng, cô bé ấy có bướng bỉnh,gan góc, tình cảm có sâu sắc, mạnh mẽ thế nào thì Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ mới 8 tuổi, với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ. Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lý của trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến và trân trọng một cách đẹp đẽ, thiêng liêng những tâm tư tình cảm vô giá ấy.Khi bị ba đánh, bé Thu “cầm đũa gắp lại cái trứng cá để vào chén rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm”. Có cảm giác bé Thu sợ ông Sáu sẽ nhìn thấy những giot nước mắt trong chính tâm tư của mình? Hay bé Thu dường như lờ mờ nhận ra mình có lỗi? Lại một loạt hành động tiếp theo “Xuống bến nó nhảy xuống xuồng, mở lòi tói, cố làm cho dây lòi tói khua rổn rang , khua thật to, rồi lấy dầm bơi qua sông”. Bé Thu bỏ đi lúc bữa cơm nhưng lại có ý tạo tiếng động gây sự chú ý. Có lẽ co bé muốn mọi người trong nhà biết bé sắp đi, mà chạy ra vỗ về, dỗ dành. Có một sự đối lập trong những hành động của bé Thu, giữa một bên là sự cứng cỏi, già giặn hơn tuổi, nhưng ở khía cạnh khác cô bé vẫn mong được yêu quý vỗ về. Song khi “Chiều đó, mẹ nó sang dỗ dành mấy nó cũng không chịu về”, cái cá tính cố chấp một cách trẻ con của bé Thu được tác giả khắc họa vừa gần gũi, vừa tinh tế. Dù như thế thì bé Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ 8 tuổi hồn nhiên, dẫu có vẻ như cứng rắn và mạnh mẽ trước tuổi.
Ở đoạn cuối, khi mà bé Thu nhận ra cha, thật khó để phủ nhận bé Thu là đứa bé giàu tính cảm. Tình cha con trong Thu giữ gìn bấy lâu nay, giờ trỗi dậy, vào cái giây phút mà cha con phải tạm biệt nhau. Có ai ngờ một cô bé không được gặp cha từ năm 1 tuổi vẫn luôn vun đắp một tình yêu bền bỉ và mãnh liệt với cha mình, dù người cha ấy chưa hề bồng bế nó, cưng nựng nó, săn sóc,chăm lo cho nó, làm cho nó một món đồ chơi kể từ khi nó bắt đầu làm quen với cuộc sống. Nó gần như chưa có chú ấn tượng nào về cha, song chắc không ít lần nó đã tự tưởng tượng hình ảnh người cha nó tài giỏi nhường nào, cao lớn nhường nào, có vòng tay rộng để ôm nó vào lòng ra sao? Tình cảm mãnh liệt trong nó ngăn không cho nó nhận một người đàn ông lại kia làm bố. Khi đến ngày ông Sáu phải đi, con bé cứng cỏi mạnh mẽ ngày hôm nào lại “như thể bị bỏ rơi”, lúc đứng ở góc nhà, lúc đứng tựa cửa và cứ nìn mọi người vây quanh ba nó, dường như nó thèm khát cái sự ấm áp của tình cảm gia đình, nó cũng muốn chạy lại và ôm hôn cha nó lắm chứ, nhưng lại có cái gì chặn ngang cổ họng nó, làm nó cứ đứng nguyên ở ấy, ước mong cha nó sẽ nhận ra sự có mặt của nó. Và rồi đến khi cha nó chào nó trước khi đi,có cảm giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào dâng.Nó không nén nổi tình cảm như trước đây nữa,nó bỗng kêu hét lên “Ba…”, “vừa kêu vừa chạy xô đến nhanh như một con sóc,nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”, “Nó hôn ba nó cùng khắp.Nó hôn tóc,hôn cổ,hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”. Tiếng kêu “Ba” từ sâu thẳm trái tim bé Thu, tiếng gọi mà ba nó đã dùng mọi cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua, tiếng gọi ba gần gũi lần đầu tiên trong đời nó như thể nó là đứa trẻ mới bi bô tập nói, tiếng gọi mà ba nó tha thiết được nghe một lần. Bao nhiêu mơ ước, khao khát như muốn vỡ òa ra trong một tiếng gọi cha. Tiếng gọi ấy không chỉ khiến ba nó bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng với nó. Lần đầu tiên nó cảm nhận được niềm sung sướng của một đứa con có cha. Dường như bé Thu đã lớn lên trong đầu óc non nớt của nó. Ngòi bút nhà văn khẳng định một nhân vật giảu tình cảm, có cá tính mạnh mẽ, kiên quyết nhưng vẫn hồn nhiên, ngây thơ: Nhân vật bé Thu.
Sau khi học xong truyện Chiếc lược ngà, em thấy mỡnh thật may mắn và hạnh phỳc vỡ được sống trong cảnh hũa bỡnh, trong tỡnh yờu thương của cha mẹ, được học hành vui chơi thoải mỏi. Em cảm thấy tự xấu hổ với bản thõn mỡnh vỡ chưa thật cố gắng trong học tập, chưa xứng đáng là con ngoan trò giỏi.
 
C

chienpro_9x

suy nghĩ về tình bạn

Vào một giây phút nào đó trong cuộc sống, ta tìm được một người có thể thay đổi cuộc sống của ta dù chỉ một phần nhỏ. Đó là một người không chỉ đến bên ta khi vui, khi thành công mà còn là người không rời bỏ ta khi buồn, lúc lâm nguy hay khi thất bại, khi những người xung quanh đã rời bỏ ta mà đi. Và ta gọi đó là một người bạn- một người bạn thân, một người bạn thật sự. Và ta tin rằng : “Bạn là người đến với ta khi mọi người đã bỏ ta đi”.

Trong cuộc sống, ta gặp gỡ nhiều người, cảm thấy thoải mái khi bên cạnh họ, ta giới thiệu với mọi người rằng đấy là bạn ta. Nhưng thực ra họ chỉ mới là những người quen biết. Có thể mời những người này đến nhà, cùng nhau đi chơi, cùng chia sẻ một số thứ. Nhưng không phải ai trong số họ cũng có thể trở thành người chia sẻ cuộc sống cùng với ta.

Bạn, hiểu đơn giản thì đó là người mà ta quen biết. Tuy nhiên không phải bất cứ ai ta quen cũng là bạn của ta. Một khi đã coi ai đã là bạn tức là người ấy với ta phải có quan hệ thân thiết, gần gũi ở một mức độ nào đó, là người biết đồng cảm và chia sẻ với ta. Ấy là chưa kể những người bạn thân, những người luôn lắng nghe khi ta có chuyện rắc rối, luôn bên ta lúc ta khó khắn và giúp ta vượt qua cơn hoạn nạn. Chỉ có người bạn thân thật sự mới là người ta có thể cùng sẻ chia cuộc sống. Đó là người ta yêu quý, quan tâm và thường xuyên chia sẻ với họ những vui buồn và ngược lại. Đó là một người bạn khiến ta cảm thấy an tâm khi ở bên cạnh bởi lẽ ta biết chắc họ quan tâm đến ta, luôn ở bên ta những khi ta gặp khó khăn buồn phiền. Đó cũng là người ngăn ta mắc sai lầm hoặc giúp ta sửa chữa khi ta phạm lỗi. Đó là người luôn gắn bó và ủng hộ ta. Họ nắm lấy tay ta để tiếp thêm sức mạnh và niềm tin. Họ dõi theo từng bước của ta trên đường đời, ngược lại, ta cũng dõi theo cuộc sống của họ và học hỏi từ đó. Vâng, chỉ có người bạn thân thiết và chân thành đó mới có thể là người “ đến với ta khi mọi người đã bỏ ta đi”. Để cuối cùng, sau bao thăng trầm của cuộc sống ta chợt nhận ra rằng ta có rất nhiều người quen nhưng ta không có nhiều bạn-những người bạn thân thật sự.

Khi ta ngã quỵ và thế giới quanh ta dường như quá đen tối, trống rỗng, người bạn ấy sẽ nâng ta lên và làm cho thế giới bỗng sáng lên và lấp đầy những trống rỗng ấy. Người bạn ấy có thể dắt ta qua những giây phút khó khăn của cuộc sống, nắm lấy tay ta và nói rằng mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.Cuộc sống không phải luôn trải hoa hồng , đôi khi ta phải đối mặt với những khó khăn tưởng như không thể vượt qua được , những thất bại tưởng như có thể làm ta gục ngã. Ấy là khi ta hiểu rõ giá trị của tình bạn hơn hết. Bên cạnh gia đình, tình yêu, thì tình bạn chân thành là chỗ dựa vững chắc cho mỗi người trong cuộc sống. Người bạn thật sự là người biết khích lệ , động viên khi ta đang vươn lên, biết mừng vui khi ta hạnh phúc, biết bật khóc sẻ chia khi ta đau buồn, biết tìm đến ta khi ta cô đơn. Nếu cuộc đời khắc nghiệt khiến ước mơ , niềm tin của ta trong vùng giông bão thì bờ vai của một người bạn luôn là chỗ dựa an toàn cho ta. Những người bạn thật sự sống dựa vào nhau bằng niềm tin mạnh mẽ nhất. Chính niềm tin ấy khiến chúng ta có thể chia sẻ cùng nhau cả những điều tốt đẹp lẫn khó khăn nhất trong đời bằng nụ cười.

Có những người bạn đã đến bên ta, trao cho ta niềm tin, nghị lực, làm chỗ dựa cho ta khi mọi người đã quay lưng lại với ta, khi số phận dường như không mỉm cười với ta.

Bạn là người đến bên ta khi mọi người đã bỏ ta đi ”.Ai cũng mong mình có được một người bạn như vậy trong đời. Vậy ta phải làm gì để có một người bạn như thế? “Cách duy nhất để có bạn tốt là chính bản thân mình phải là một người bạn chân thành”(Eurupide) . Tố Hữu viết rằng :

“Lẽ nào vay mà không trả?
Sống là cho đâu chỉ nhận cho riêng mình.”

Trong bất kì mối quan hệ nào cũng cần đến sự Cho- Nhận. Đặc biệt đối với tình bạn vì đó là một cuộc giao lưu vô vụ lợi của những người bình đẳng, không ai chỉ Cho hoặc chỉ Nhận. Ta hãy đối xử với bạn bè , yêu thương, quan tâm đến họ như chính bản thân mình.Hãy giúp đỡ mà không đòi hỏi trả công vì đến một lúc nào đó ta sẽ nhận lại được sự giúp đỡ của họ trong cuộc sống. Và thường thì nó nhiều hơn những gì ta nghĩ mình có thể nhận được. Hãy san sẻ mà không toan tính, cho đi mà không chờ nhận lại. Hãy trao yêu thương từ đáy lòng chứ không phải vì những âm mưu vụ lợi, để đó là tình cảm của trái tim chứ không phải toan tính của lý trí...Một mối quan hệ lâu dài là những bài học phải học suốt đời. Học cách yêu thương và quan tâm đến người bạn của mình . Học cách tha thứ cho lỗi lầm và giúp họ tránh những sai lầm như vậy. Học cách chấp nhận khuyết điểm của người khác… Tình bạn đôi khi là những điều giản đơn mà đôi khi cuộc sống bộn bề làm ta quên đi mất. Đôi khi đó chỉ là ánh nhìn động viên, một cái siết tay lúc mềm yếu, hay một bờ vai, một sự yên lặng để lắng nghe tất cả nỗi lòng của bạn bè.Tình bạn không có khuôn mẫu cũng không có chuẩn mực nhất định để thể hiện. nhưng luôn có những điều nhỏ nhặt, những tình cảm chân thành kết nối những người bạn với nhau.

Có được một người bạn thân đã khó , giữ được tình bạn ấy còn khó hơn. Bạn hãy nắm một nắm cát đầy trong tay đi. Bạn biết không, nắm cát trong lòng bàn tay của bạn cũng giống như bạn bè của bạn vậy. Những hạt cát quá xa lòng bàn tay bạn sẽ theo kẻ hở giữa những ngón tay bạn mà rơi ra ngoài. Nếu bạn càng siết chặt bàn tay thì chúng càng rơi ra nhiều hơn. Chỉ có những hạt cát nằm giữa lòng bàn tay bạn, được giữ chặt trong đó mới còn lại mà thôi. Đó chính là những người bạn thân thiết mà chúng ta thật sự cần, những người bạn này sẽ ở lại với ta dù bất cứ chuyện gì xảy ra. Nhưng, bạn thấy đó, những hạt cát này rất ít và dễ dàng rơi ra nếu ta không biết giữ gìn. Hãy giữ gìn và nâng niu chúng bằng tình cảm của mình. Chúng sẽ ở bên cạnh bạn và không rơi ra đâu.Cũng giống như cát, muốn giữ được bạn không phải nắm thật chặt mà phải biết nâng niu, trân trọng với tất cả sự yêu mến và tôn trọng.

Thực tế cuộc sống quanh ta đã chỉ ra rằng trong nhiều trường hợp có nhiều người đến với ta nhưng không phải là bạn ta. Chảng hạn như khi bạn là một người giàu có, thành đạt, tương lai rộng mở, quanh bạn có nhiều người tìm đến nhưng có phải tất cả những người trong số họ đều là bạn của bạn? Họ còn đến vì những mục đích gì? Cầu cạnh, nhờ vả, lợi dụng và biết đâu đấy, một ngày khi bạn sa cơ họ lại chẳng lạnh lùng bỏ đi, không chút bận tâm. Vậy mới nói : “ Bạn là người đến bên ta khi mọi người đã bỏ ta đi.”

Tuy nhiên trong thực tế cũng chỉ ra rằng có trường hợp mọi người quanh bạn bỏ đi và có người tìm đến với bạn nhưng không vì mục đích chia sẻ, giúp đỡ, không có mục đích tốt thì họ cũng không thể được coi là bạn.

Trong cuộc sống của chúng ta, có nhiều điều dễ dàng đến rồi đi, nhanh chóng và mỏng manh như một làn khói, dễ tan vỡ như lâu đài cát trước những cơn sóng gào. Chỉ có tình cảm là điều duy nhất có thể vượt qua mọi bão giông cuộc đời, là nền tảng, là gốc rễ cho mọi niềm vui và nguồn hạnh phúc. Và không có gì tuyệt vời hơn được trao gửi tình cảm của mình cho một người khác, và rồi cảm nhận được sự bình yên khi gọi nhau là bạn
 
Top Bottom