Hỗn mang chứ không phải hỗn loạn. Hỗn loạn là một phần, một trạng thái của sự sống, cuộc sống. Hỗn mang nghĩa là chưa có sự sống, cuộc sống. Thế giới qua lời kể trong con mắt người xưa thuở ấy được hình dung tưởng tưởng tượng thật đáng sợ, chứ tuyệt nhiên không kì thú như vào cái lúc, cái thời người ta đang kể chuyện( thời gian diễn xướng ): Khi đã có ngôi sao đo đỏ ngọn cỏ xanh xanh,khi đã có sông Quanh mó Vận, khi đã có sông Sàng mó Li,khi đã có đường đi lối lại, khi đã có đồi cái đồi con…khi đã có người vụng người tài.Đọc hiểu đoạn văn bản mở đầu này,nhất thiết phải phân tích ngay từ câu mở đầu “ Ngày xưa sinh đời trước”.Trong tiếng Mường có hai từ sinh và đẻ đồng nghĩa nhưng khác nhau về nguồn gốc và hướng nghĩa.Đẻ là sự đẻ, là hành động đẻ rất cụ thể trong một không-thời gian xác định, là một từ gốc Mường cổ( tẻe).“Sinh” lại là một từ mượn có gốc Hán-Việt,có tính khái quát rộng lớn. Sẽ thấy rõ ý nghĩa này khi so sánh với câu 9 “ Chưa đẻ đồi cái đồi con”.Trong câu này tác giả dân gian sử dụng từ đẻ diễn tả một chuyện trong nhiều chuyện của ngày xưa, rất khác với từ sinh trong nguyên tác đã cho chúng ta thấy rất rõ cái điểm nhìn sử thi và quan niệm sử thi của người kể chuyện- nhân vật trần thuật, người của hôm nay.Thế mới biết cái “ bức tranh về thế giới Mường cổ vào cái thời hỗn mang” được người kể chuyện dựng lại là kết quả của cả một quá trình sáng tạo nghệ thuật ngôn từ dân gian.Kết cấu của bức tranh ấy đã được tái hiện theo một quy trình tổng ( câu 2 – câu 5) phân ( câu 6 – câu 45 ) hợp ( câu 46 – câu 49 ).Và được diễn tả một cách trùng điệp theo nguyên tắc triệt để có tính lặp lại- nguyên tắc đặc trưng thi pháp văn học dân gian. Sự lặp lại các yếu tố hình thức mang tính nội dung ( hình thức – ý tưởng ) trong đoạn văn này thật đặc biệt điển hình là bởi vì nó được cấu tạo hoàn toàn phù hợp với một số quy tắc tự sự sử thi dân gian. Đó là quy tắc về sự mở đầu và kết thúc trong cái nhìn toàn cảnh. Đó là quy tắc của sự đối lập ngay trong nội dung khái quát về cái thế giới vô thủy vô chung từ câu 2 đến câu 5 diễn tả một thái cực trống không, khi tuyệt nhiên chưa có từ cái lớn nhất đến cái nhỏ nhất để kết hợp thành từng cặp: cao/thấp,
trên/dưới,ngày/đêm,núi/sông,đất/nước,chim/thú,cây/con,đực/cái…một kiểu cấu trúc rất thường gặp trong thần thoại đời sau, bao gồm các mẫu kể đã vượt thoát ra khỏi giới hạn đơn nhất của thần thoại suy nguyên để tạo thành một thế giới thần thoại sáng tạo buổi đầu, mà cơ sở hiện thực của nó chính là các giá trị vật chất buổi đầu của văn hóa nguyên thủy.Kiểu tư duy này còn để lại dấu ấn trong cả đoạn trích.Đó còn là quy tắc về sự lặp lại, lặp lại đến 34 lần một từ ghép “chưa có”( chưa cỏo) diễn tả trạng thái thế giới “ Thứ gì cũng chưa có, chưa nên”, một thế giới hết sức mông lung:
Đất còn nên bạc lạc
Nước còn nên bời lời
Trên trời còn nên puổng luổng…
Không phải ngẫu nhiên trong toàn bộ phần chính của đoạn văn bản tuyệt nhiên không có lấy một từ tượng thanh, chỉ sử dụng những từ có ý nghĩa tạo hình sắc, tạo đường nét. Trong cái thế giới hỗn mang khi đất thì còn rời rạc xơ xác, khi nước thì còn bầy nhầy bùng nhùng ấy, muôn vật từ mọi loài cây đến mọi loài con, từ đồ vật, sự vật đến con người là cái giống chúa tể của muôn loài đều được người đặt chuyện hình dung thảy đều nhất loạt còn ở trong cái tư thế “ muốn dậy”.Trong 40 câu sử thi kể về chuyện này,hai từ”muốn dậy” được lặp lại đến 38 lần.Hãy nhắm mắt nghe và tưởng tượng như người đang ở trong một cuộc thực hành nghi lễ diễn xướng mo, sẽ thấy ở đây hiện ra cả một thế giới khác xa với cái thế giới thực tại – một thế giới hoàn toàn câm lặng kì bí mêng mông.Nó được thống nhất bằng một loại hành động duy nhất là không hành động, mang ý nghĩa đặc tả về một thế giới tuyệt đối chưa có sự sống, chưa nên cuộc sống – một khoảng lặng sử thi.Một lần nữa qua đọc-hiểu chúng ta lại nhận ra hai minh chứng trong cách cấu tạo văn bản nghệ thuật đoạn trích là sự tuân theo hai quy tắc khác của tự sự sử thi. Đó là quy tắc về sự bắt buộc tạo dựng những nút yên tĩnh trong dòng thác sử thi và quy tắc về sự tự thể hiện bằng hành động trong sự thống nhất bởi một “ sợi chỉ hành động” như đã phân tích ở trên.
Sau việc phát hiện ra cái đặc điểm thứ nhất của cái thế giới hỗn mang trong bức tranh trên bằng việc sử dụng các quy tắc tự sự sử thi như những chiếc chìa khóa để mở vào bên trong cấu trúc một sử thi đích thực,chúng ta tiến lên một cấp độ đọc-hiểu cao hơn để phát hiện ra cái đặc điểm thứ hai của bức tranh, được gợi ra từ chính bức tranh.Đó là công việc giải mã một từ khóa của đoạn văn bản nghệ thuật này trong các cụm từ “ muốn dậy nhưng chưa có” và “ muốn dậy nhưng chưa có chưa nên”.Từ “ dậy” là một từ được các nghệ sĩ dân gian Mường đặc biệt ưa dùng trong toàn bộ cấu trúc văn bản sử thi Đẻ đất đẻ nước.Ở các chương sau nó xuất hiện hàng trăm lần trước từ gọi ( dậât). Ngữ nghĩa của cấu trúc từ pháp này có liên quan đến một quan niệm tín ngưỡng đặc trưng của người Mường trong văn hóa diễn xướng mo nói chung giữa đời sống.Nó lưu ý chúng ta về một sự khác biệt: Việc phân tích văn bản văn học dân gian có những yêu cầu riêng rất khác với việc phân tích văn bản văn chương viết.Ngoài giá trị thẩm mĩ,văn bản sử thi - mo còn được thiêng hóa, tàng ẩn những ý nghĩa khác được quy định ngay trong cấp độ từ nguyên, cấp độ ngữ dụng do chức năng sinh hoạt tinh thần bởi tính thực hành nghi lễ trong các hình thức shaman giáo( tục gọi hồn, trò chuyện với hồn ).Từ “dậy” trong tiếng Mường cổ có nghĩa là mọc lên, trồi lên.Thế có nghĩa là trong cõi hỗn mang kia đã chứa đầy vô số đủ các loại mầm sống,hạt sống đã được gieo vãi,đặc biệt trong đó có cả “mầm người” nhưng “chưa dậy” được vì chưa có đủ mặt mũi(!).Trong lễ thức mo, sau khi trống cồng và kèn bóp đồng loạt nổi lên, trong màn khói hương hư ảo, hãy hình dung toàn bộ cái thế giới hỗn mang câm lặng yên tĩnh tuyệt đối kia vào một khoảng khắc nào đó, đến một ngày nào đó cũng sẽ ồn ào hoạt động vô cùng náo nhiệt.Đó là khi tất cả mọi sự vật đồ vật, mọi loài cây và mọi loài con, gồm cả con nhà con người ( nhà cửa và con người ) sẽ đồng loạt dậy, đồng loạt mọc lên,trồi lên. Mầm sống đã tạo nên sự sống cuộc sống .Đó là cảm hứng mở đầu rất đặc trưng thần thoại. Nhưng ở đây là sử thi thần thoại nên đã không xẩy ra câu chuyện đồng loạt dậy.Trong các chương sau, người sáng tạo sử thi sẽ còn tiếp tục trong câu chuyện tự sự trường thiên này theo một trật tự cái này dậy trước cái kia dậy sau. Để rồi sau những cuộc chửa đẻ mà thành, mọi thứ cứ hiện hình dần lên và sáng mãi ra, cho đến lúc “ sáng Mường sáng Nước” như phần kết của tác phẩm đã được giới thiệu ở trên.Cứ như thế, câu chuyện sẽ còn tiếp diễn khi thì ba đêm bảy đêm, khi thì đến hơn cả mười đêm tùy theo tang chủ trong đời sống sinh hoạt tang lễ Mường truyền thống.Một thế giới Mường sẽ được hoàn thiện từ không đến có, từ thiếu đến đủ, từ lẻ tẻ rời rạc đến độ kết hợp thành hệ thống. Từ cõi hỗn mang đã hình thành một thế giới có trật tự. Và một bức tranh về một cuộc sống thật sự phải là một bộ mặt thế giới có trật tự hài hòa.Chúng ta đều biết mọi biến cố đặc trưng sử thi đều xoay quanh sự giải quyết mâu thuẫn giữa cái hỗn mang và sự hài hòa,và được trình bày trong khát vọng vô tận về một sự hài hòa tuyệt đối-khát vọng sử thi.Đó cũng chính là con đường vận động trong một cốt chuyện sử thi đích thực. Sử thi Đẻ đất đẻ nước của tộc người Mường đã bắt đầu từ chỗ phải bắt đầu. Đọc-hiểu một đoạn trích, người học phải nắm bắt cho được cả cái hồn cốt của toàn bộ tác phẩm. Qua đó chẳng những người học có thêm được một cái gì đó trong nhận thức về đời sống, mà còn được trau dồi thêm một chút vồn ngôn ngữ và hơn hết được rèn luyện óc suy nghĩ theo một phương pháp tư duy.