Những thông tin về Manchester United.

T

thanhhung2805

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Đây sẽ là nơi mà chúng ta biết thêm về đội bóng có lịch sử khá hào hùng - Manchester United
Thông tin về Manchester United
images
Thành lập 1878
Biệt danh The Red Devils (Những Con Quỷ Đỏ)
Sân nhà Old Trafford
Sức chứa 75.600
Chủ tịch Malcolm Glazer
Địa chỉ Sir Matt Busby Way Old Trafford GB M16 ORA MANCHESTER
Tel +44 161 8000
Fax +44 161 8804
Website www.manutd.com

Thành tích


*Vô địch Premier League: 9 lần (1993,1994,1996,1997,1999,2000,2001,2003,2007)
*Vô địch League Division 1 (tên cũ của Premier League ) 7 lần
( 1908,1911,1952,1956,1957,1965,1967 )
*Vô địch Cup FA : 11 lần (1909,1948,1963,1977,1983,1985,1990,1994,1996,1999,2004)
*Vô địch League Cup: 2 lần ( 1992,2006)
*Vô địch Charity Shield Cup: 16 lần
(1908,1911,1952,1956,1957,1965*,1967*,1977*,1983,1990,1993,1994,1996,1997,2003,2007) *4 lần đồng vô địch
*Vô địch Cúp C1: 1968
*Vô địch Champions League: 1999
*Vô địch UEFA cup: 1991
*Vô địch Cup liên lục địa: 1999
*Vô địch Siêu cúp châu Âu: 1991

Các kỷ lục


*Trận thắng đậm nhất trên sân nhà:
10-0 Anderlect: 26/09/1956

*Trận thắng đậm nhất trên sân khách:
8-1 Notts Forest: 06/02/1999

*Trận thua đậm nhất trên sân nhà:
0-7 Blackburn: 10/02/1926

*Trận thua đậm nhất trên sân khách:
0-7 Aston Villa: 27/12/1930


*Cầu thủ đá nhiều trận nhất cho CLB:
Sir Bobby Charlton 752 trận

*Cầu thủ ghi được nhiều bàn thắng nhất trong lịch sử CLB: Sir Bobby Charlton 247 bàn.

*Cầu thủ ghi được nhiều bàn thắng nhất trong một mùa giải.
( Trước khi Premier League ra đời ):
Dennis Law 46 bàn ( 1963-1964 )

*Cầu thủ ghi được nhiều bàn thắng nhất trong một mùa giải.
( Sau khi Premier League ra đời ):
Ruud van Nistelrooy 44 bàn ( 2002-2003 )

*Cầu thủ ghi được nhiều bàn thắng nhất tại giải VĐQG: Sir Bobby Charlton: 199 bàn

*Cầu thủ ghi được nhiều bàn thắng nhất tại Cup Châu Âu: Dennis Law, Ruud van Nistelrooy: 28 bàn.

*Mùa giải ghi được nhiều bàn thắng nhất:
103 bàn (1958-1959)
97 bàn (1999-2000 ) tại Premier League

*Mùa giải kiếm được nhiều điểm nhất:
92 điểm (1993-1994)

*Chuỗi trận bất bại tại Giải VĐQG:
20 trận (24/12/1998-16/05/1999)

*Chuỗi trận bất bại tại Châu Âu:
19 trận (10/12/1997-19/10/1999)

*Chuỗi trận bất bại trên mọi mặt trận:
45 trận (24/12/1998-03/10/1999)

Các thông tin khác


CLB nổi tiếng nhất của bóng đá Anh, Manchester United được thành lập năm 1878 dới cái tên Newton Heath và bắt đầu thi đấu tại giải hạng Nhất từ năm 1892. Trước đại chiến thế giới lần thứ hai, Manchester United cũng gặt hái được một số thành công nhất định với 2 chức VĐQG ở mùa giải 1907/1908 và 1910/1911. Tuy nhiên, lịch sử hoàng của đội bóng thành phố Manchester là những năm tháng sau khi chiến tranh kết thúc và gắn liền với 2 HLV vĩ đại.

Đầu tiên là Sir Matt Busby, người đến với Man United từ năm 1945 và đem lại cho CLB 5 chức Vô địch quốc gia cùng 2 chiếc Cup FA. Tuy nhiên bi kịch đã ập xuống thành Manchester khi một tai nạn máy bay năm 1958 tại Munich đã cướp đi gần như toàn bộ đội hình chính của CLB. Tưởng chừng như MU sẽ không bao giờ có thể gượng dậy sau cú sốc khủng khiếp này nhưng 10 năm sau, Sir Matt Busby lại tiếp tục xây dựng được một thế hệ cầu thủ tài năng mới. Năm 1968, những Bobby Charlton, George Best đã làm rạng danh nước Anh khi mang về chiếc Cup C1 Châu Âu đầu tiên cho quê hương bóng đá bằng việc đánh bại Benfica ở trận chung kết với tỷ số 4-1. Đáng tiếc rằng những người kế nhiệm HLV Busby đã không thể nào nối tiếp truyền thống hào hùng ấy và Man U phải trải qua một quãng thời gian dài để tìm được sự thay thế xứng đáng cho nhà cầm quân huyền thoại của CLB
 
T

thanhhung2805

Đây là một nhân vật mà không phải cầu thủ nhưng ông luôn được nhắc đến đầu tiên khi nhắc đến MU.Ông là Alexander Chapman Ferguson.
Alex Ferguson​

Alex Ferguson
Sir Alex Ferguson
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Alexander Chapman Ferguson
Ngày sinh 31 tháng 12, 1941 (71 tuổi)
Nơi sinh Glasgow, Scotland
Vị trí Tiền đạo (đã giải nghệ)
Thông tin về CLB
CLB hiện nay Manchester United (Huấn luyện viên)
(đã nghỉ hưu)
CLB chuyên nghiệp*
Năm CLB ST† (BT)†
1957–1960 Queen's Park 32 (11)
1960–1964 St. Johnstone 37 (19)
1964–1967 Dunfermline Athletic 88 (66)
1967–1969 Rangers 41 (25)
1969–1973 Falkirk 106 (37)
1973–1974 Ayr United 24 (9)
Tổng cộng 327 (167)
Huấn luyện
1974 East Stirlingshire
1974–1978 St. Mirren
1978–1986 Aberdeen
1985–1986 Scotland
1986–2013 Manchester United

* Chỉ tính số trận và số bàn thắng được ghi ở giải Vô địch quốc gia.
† Số trận khoác áo (số bàn thắng).
Alexander Chapman Ferguson (sinh ngày 31 tháng 12 năm 1941 tại Govan, Glasgow) là một cựu cầu thủ và nhà quản lý bóng đá người Scotland. Thời gian tại vị của ông đã chứng kiến Manchester United đi qua một kỷ nguyên thành công bậc nhất trong lịch sử với sự thống trị ở Anh và châu Âu, giúp cho Ferguson trở thành một trong những huấn luyện viên nổi tiếng nhất và được ngưỡng mộ nhất trong lịch sử bóng đá thế giới.
Ferguson trước đây quản lý East Stirlingshire, St Mirren, một thời gian trước khi thành công với câu lạc bộ Aberdeen. Ông được giao tạm quyền quản lý đội tuyển quốc gia Scotland - trong một thời gian (do cái chết của Jock Stein). Tháng 11 năm 1986 ông được bổ nhiệm làm HLV của Manchester United.
Với gần 27 năm cùng Manchester United, ông là HLV gắn bó lâu nhất trong lịch sử CLB sau khi vượt qua kỷ lục của Sir Matt Busby ngày 19 tháng 12 năm 2010. Nhiệm kỳ của ông cũng dài nhất so với tất cả các huấn luyện viên bóng đá hiện tại trên thế giới. Trong thời gian này, Ferguson đã giành được nhiều giải thưởng và nắm giữ rất nhiều kỷ lục bao gồm cả việc giành danh hiệu Huấn luyện viên của năm nhiều nhất trong lịch sử bóng đá Anh. Trong năm 2008, ông trở thành huấn luyện viên người Anh thứ ba giành chiến thắng trong cúp châu Âu nhiều hơn một lần.
Ngày 8 tháng 5, 2013, Sir Alex Ferguson tuyên bố sẽ nghỉ hưu sau khi kết thúc mùa giải 2012–13, với gần 27 năm làm huấn luyện viên trưởng CLB Manchester United.
 
T

thanhhung2805

Alex Ferguson
images
*Sự nghiệp cầu thủ:
Sự nghiệp bóng đá của Ferguson bắt đầu năm 16 tuổi với Queen’s Park, nơi ông có sự ra mắt trong trận đấu với Stranraer với vai trò tiền đạo. Ông mô tả trận đấu đầu tiên của mình như là một "cơn ác mộng", dù đã ghi cho QPR bàn thắng duy nhất (thua 1-2). Vừa chơi bóng cho Queen Park, ông vừa làm việc trong xưởng đóng tàu Clyde, nơi mà sau này ông trở thành người quản lý một cửa hàng. Trận đấu đáng chú ý nhất của Ferguson cho Queen Park là thất bại 1-7 trước Queen of the South vào ngày lễ tặng quà (Boxing Day) năm 1959 khi cựu tuyển thủ người Anh Ivor Broadis ghi bốn bàn cho Queen of the South còn Ferguson là người ghi bàn thắng duy nhất cho QPR.
Mặc dù đã ghi được 20 bàn thắng trong 31 trận cho Queen Park, ông không thể có được vị trí chính thức trong đội hình và chuyển đến St Johnstone vào năm 1960. Mặc dù tiếp tục ghi bàn đều đặn, ông vẫn thường xuyên phải ngồi ghế dự bị và tiếp tục muốn ra đi. Ferguson đánh mất sự ủng hộ tại câu lạc bộ và ông thậm chí còn được cho là đã chuyển đến Canada, Tuy nhiên St Johnstone đã không thành công trong việc tìm một tiền đạo mới và Ferguson đã ra sân trong trận đấu với Rangers, ông ghi một hat-trick qua đó giúp đội bóng giành chiến thắng. Mùa hè năm sau, hợp đồng của Ferguson với Dunfermline được ký và ông trở thành cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp.
Mùa giải tiếp theo (1964-1965), Dunfermline là ứng cử viên nặng ký cho Cúp Liên đoàn Scotland và đã đi tới trận chung kết, nhưng Ferguson đã không được tin dùng do màn trình diễn nghèo nàn trước đó trong trận đấu với St Johnstone. Dunfermline thua Celtic 2-3, và kém ngôi vô địch một điểm. Mùa giải 1965-1966 Ferguson đã ghi 45 bàn thắng trong 51 trận đấu cho Dunfermline và trở thành vua phá lưới giải vô địch Scotland với 31 bàn thắng cùng với Joe McBride của Celtic.
Sau đó ông gia nhập Rangers với mức phí 65.000 bảng - một khoản phí kỷ lục cho chuyển nhượng giữa hai câu lạc bộ Scotland thời bấy giờ. Ông bị đổ lỗi cho một bàn thua trong trận chung kết Cúp Scotland năm 1969 - trận đấu trong đó ông đã được chỉ định theo kèm đội trưởng của Celtic Billy McNeill. Sau đó, ông bị buộc phải xuống chơi cùng đội trẻ câu lạc bộ. Theo lời em trai Ferguson, ông đã rất buồn bã và vứt bỏ huy chương được trao. Đã có người cho rằng ông bị phân biệt đối xử tại Rangers sau cuộc hôn nhân của mình với vợ - Cathy Holding (là một người Công Giáo), nhưng Ferguson đã nói rõ trong cuốn tự truyện của mình rằng Rangers biết tôn giáo của vợ ông khi ông đến với câu lạc bộ và ông đã rời câu lạc bộ rất miễn cưỡng do sai lầm trong trận chung kết trên.
Sau đó, Nottingham Forest muốn ký hợp đồng với Ferguson, nhưng vợ của ông không muốn chuyển đến Anh vào thời điểm đó nên ông thay vì Nottingham, ông đã tới Falkirk. Ông được đề nghị vai trò huấn luyện viên kiêm cầu thủ, nhưng khi John Prentice trở thành người quản lý, vị trí huấn luyện viên của Ferguson không được chấp nhận. Ferguson phản ứng bằng cách yêu cầu ra đi và chuyển đến Ayr United, nơi ông đã kết thúc sự nghiệp chơi bóng của mình vào năm 1974.
 
T

thanhhung2805

Alex Ferguson
images
Sự nghiệp huấn luyện viên

East Stirlingshire
Trong tháng 6 năm 1974, Ferguson đã được bổ nhiệm làm HLV của East Stirlingshire ở tuổi 32. Đó là một công việc bán thời gian được trả 40 bảng mỗi tuần, và câu lạc bộ không có một thủ môn đúng nghĩa vào thời điểm đó. Ông nổi tiếng với các điều luật nghiêm khắc, đến nỗi tiền đạo Bobby McCulley nói rằng trước đây ông không bao giờ sợ bất cứ ai, nhưng “Ferguson quả thật là người ghê gớm” Tháng Mười sau đó, Ferguson đã được mời để quản lý St Mirren - khi đó đang xếp dưới East Stirlingshire trong bảng xếp hạng. East Stirlingshire là câu lạc bộ lớn hơn và khiến Ferguson thích thú, tuy nhiên ông quyết định gia nhập St Mirren sau khi nghe lời khuyên từ Jock Stein.
St Mirren
Ferguson trở thành huấn luyện viên của St Mirren từ năm 1974 cho đến năm 1978, tạo ra một sự chuyển biến đáng chú ý của một đội bóng ở nửa dưới bảng xếp hạng vốn chỉ có vẻn vẹn khoảng 1000 cổ động viên trở thành nhà vô địch giải hạng nhất vào năm 1977, phát hiện những tài năng như Billy Stark, Tony Fitzpatrick, Lex Richardson, Frank McGarvey, Bobby Reid và Peter Weir với lối chơi tấn công tuyệt vời trong khi độ tuổi trung bình của đội chỉ là 19 (đội trưởng Fitzpatrick, mới 20 tuổi) Tuy nhiên, sau đó St Mirren trở thành câu lạc bộ duy nhất sa thải Ferguson. Tại toà án ông bị kết tội là chống lại câu lạc bộ và không được kháng cáo. Theo một bài viết (của Billy Adams trên báo Sunday Herald ngày 30 tháng 5 năm 1999), Ferguson bị sa thải do vi phạm hợp đồng bao gồm cả việc đi đêm trái phép với các cầu thủ. Ông bị buộc tội đe dọa hành hung thư ký văn phòng của mình nhằm làm cho cầu thủ không phải đóng một số loại phí. Ferguson không nói chuyện với cô ta trong sáu tuần và ra lệnh thông qua một trợ lý 17 tuổi. Chủ tịch của St Mirren Willie Todd trong phiên tòa đã kết luận rằng Ferguson “không có khả năng quản lý” Ngày 31 Tháng 5 năm 2008, tờ The Guardian có đăng một cuộc phỏng vấn với Todd (lúc đó 87 tuổi). Ông giải thích rằng lý do chính cho việc sa thải là một hành vi vi phạm hợp đồng liên quan đến việc Ferguson đã đồng ý tham gia CLB Aberdeen. Ferguson nói với phóng viên Jim Rodger của Daily Mirror rằng ông đã yêu cầu ít nhất một thành viên của St Mirren cùng đến Aberdeen với ông. Ông cũng nói với nhân viên của St Mirren là ông đã ra đi. Todd bày tỏ sự hối tiếc với những gì đã xảy ra nhưng đổ lỗi cho Aberdeen đã không tiếp cận câu lạc bộ của mình để thảo luận về việc bồi thường.
Aberdeen
Cuối thập niên 1970
Ferguson gia nhập Aberdeen trong tháng 6 năm 1978, thay thế Billy McNeill - người đã chuyển sang làm HLV cho Celtic chỉ sau một mùa bóng. Mặc dù Aberdeen là một trong những câu lạc bộ lớn của Scotland, nhưng họ mới vô địch một lần năm 1955 dưới sự dẫn dắt của Dave Halliday.(Mùa giải trước đội bóng đã chơi tốt nhưng chỉ đứng thứ hai). Hợp đồng huấn luyện viên của Ferguson kéo dài bốn năm, nhưng thậm chí ông còn trẻ hơn một vài cầu thủ và không nhận được sự tôn trọng của một số người lớn tuổi như Joe Harper. Mùa bóng không suôn sẻ với Aberdeen khi đội bóng vào đến bán kết cúp Scotland và Cúp liên đoàn Scotland, nhưng thua cả hai trận và đứng thứ tư trong bảng xếp hạng. Aberdeen cũng trắng tay mùa bóng 1979-1980, sau khi thua Dundee United ở trận đấu lại. Ferguson bị đổ lỗi cho thất bại, nói rằng lẽ ra ông cần phải có những thay đổi tốt hơn cho đội bóng.
Thập niên 80
Aberdeen đã bắt đầu mùa giải một cách chật vật nhưng lối đá được cải thiện đáng kể và họ đã giành chức vô địch với chiến thắng 5-0 ở vòng đấu cuối - lần đầu tiên trong 15 năm mà chức vô địch không thuộc về Rangers hay Celtic. Ferguson cảm thấy rằng ông đã có được sự tôn trọng của các cầu thủ dành cho mình, ông sau đó đã nói rằng: “Đó là thành quả xứng đáng cho đội bóng. Cuối cùng các cầu thủ cũng đã tin tưởng vào tôi”.
Ông là một người rất nghiêm khắc, và các cầu thủ đặt cho ông biệt danh là Furious Fergie. Ông đã đá một bình trà vào John Hewitt - một trong những cầu thủ của mình vào giờ nghỉ sau khi anh ta thi đấu không tốt trong hiệp một. Ông không hài lòng với bầu không khí trận đấu tại Aberdeen, và cố tình tạo ra một đòn tâm lý bằng cách buộc tội các phương tiện truyền thông Scotland là thiên vị đối với các câu lạc bộ Glasgow, để thúc đẩy đội bóng cố gắng, và Aberdeen tiếp tục thành công với chiếc cúp Scotland năm 1982. Ferguson đã được mời sang làm huấn luyện viên cho Wolves nhưng từ chối khi ông cảm thấy rằng Wolves đang gặp khó khăn và "tham vọng tại Aberdeen của mình thậm chí còn chưa hoàn thành được một nửa".
Thành công tại đấu trường châu Âu
Ferguson dẫn dắt Aberdeen đến những thành công thậm chí còn lớn hơn ở các mùa giải tiếp theo (1982-1983). Họ có đủ điều kiện dự cúp châu Âu (do vô địch giải quốc nội mùa trước), và đánh bại Bayern Munich đầy bất ngờ. Điều này đã cho họ sự tự tin rất lớn để tin rằng họ có thể để giành chiến thắng trước những đối thủ khác, và họ đã làm được với chiến thắng 2-1 trước Real Madrid trong trận chung kết vào ngày 11 tháng 5 năm 1983. Aberdeen đã trở thành đội bóng thứ ba của Scotland giành chức vô địch châu Âu và Ferguson cảm thấy rằng "ông đã làm một cái gì đó đáng giá với cuộc sống của mình" [37] Aberdeen cũng chơi rất tốt tại giải quốc nội mùa đó, và bạo vệ thành công ngôi vô địch với chiến thắng 1-0 trước Rangers, nhưng Ferguson không hài lòng với lối chơi của đội và thể hiện sự thất vọng về các cầu thủ bằng cách mô tả đó là một “màn trình diễn đáng hổ thẹn" trong một cuộc phỏng vấn trên truyền hình sau trận đấu - một tuyên bố mà sau này ông đã rút lại.
Dù có một khởi đầu không tốt trong mùa giải 1983-1984, Aberdeen tiếp tục đăng quang giải vô địch Scotland. Ferguson đã vinh dự được trao giải thưởng OBE năm 1984, và được mời làm HLV của Rangers, Arsenal và Tottenham Hotspur. Aberdeen tiếp tục vô địch mùa giải 1984-85, nhưng 1985-1986 là một mùa giải đáng thất vọng dù họ đã giành được hai cúp quốc nội khác nhưng chỉ xếp thứ tư trong bảng xếp hạng. Ferguson đã được bổ nhiệm vào hội đồng quản trị của câu lạc bộ vào đầu năm 1986, nhưng vào tháng 4 ông đã nói với chủ tịch Dick Donald rằng ông có ý định rời khỏi CLB vào mùa hè.
Ferguson ở trong ban huấn luyện của đội tuyển quốc gia Scotland trong giai đoạn vòng loại World Cup 1986, nhưng HLV Jock Stein đã đột ngột qua đời vào ngày 10 Tháng 9 năm 1985 - ở trận đấu play-off với Úc, và Ferguson nhanh chóng đồng ý tiếp quản đội tuyển, bổ nhiệm Archie Knox là người thay thế vị trí của mình tại Aberdeen. Tuy nhiên, sau khi Scotland không thể qua vòng bảng của World Cup, Ferguson chấm dứt sứ mệnh của mình với đội tuyển quốc gia vào ngày 15 tháng 6 năm 1986.
Vào khoảng thời gian này, Tottenham Hotspur đề nghị Ferguson về CLB nắm quyền thay Peter Shreeves, nhưng ông từ chối. Cũng có một lời đề nghị cho Ferguson đến Arsenal thay thế Don Howe, nhưng ông cũng từ chối và Scot George Graham là người tiếp quản vị trí này ở Arsenal. Mùa hè năm đó, đã có tin đồn rằng ông tới Manchester United để thay thế Ron Atkinson - người gần như chắc chắn sẽ bị sa thải.
Đó không phải là lần đầu tiên mà Ferguson được liên hệ với nước Anh. Trong tháng 2 năm 1982, Wolverhampton Wanderers đã tiếp cận ông với mục đích thay thế John Barnwell khi CLB đang có nguy cơ xuống hạng. Ông từ chối đề nghị này, có lẽ do lo ngại về sự ổn định tài chính của câu lạc bộ (Wolves đang nợ hơn 2 triệu bảng). Vào cuối mùa giải 1985-86, cả Arsenal và Tottenham Hotspur đều muốn có ông nhưng cả hai CLB bắc London này đều bị ông khước từ. Mặc dù Ferguson vẫn ở lại Aberdeen trong mùa hè, cuối cùng ông cũng gia nhập Manchester United khi Atkinson bị sa thải trong tháng 11 năm 1986.
 
T

thanhhung2805

Đây chính là thônh tin về vị HLV này mà chúng ta mong chờ nhất.Đó là:
Alex Ferguson
images
Sự nghiệp tại Manchester United(part 1)
Ferguson đã được bổ nhiệm làm huấn luyện viên tại Old Trafford ngày 6 tháng 11 năm 1986 khi United đang xếp ở vị trí áp chót trên bảng xếp hạng (21/22) và bổ nhiệm Archie Knox, trợ lý của mình tại Aberdeen làm ở vị trí tương tự. Ông rất lo lắng cho đội bóng khi các cầu thủ như Norman Whiteside, Paul McGrath và Bryan Robson uống rượu quá nhiều và chán nản bởi phong độ của mình, nhưng ông đã vực dậy tinh thần cho họ, và United đã kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 11. Trận đấu đầu tiên của Ferguson cùng United là thất bại 0-2 trước đội bóng dưới cơ Oxford United vào ngày 8 tháng 11, bảy ngày sau đó là trận hòa không bàn thắng với đội mới lên hạng Norwich City, và sau đó giành chiến thắng 1-0 đầu tiên của mình tại sân nhà trước QPR ngày 22 Tháng 11. Kết quả dần được cải thiện khi mùa giải trôi đi, và thời gian đã chứng tỏ United đang trên đà phục hồi. Năm 1987 bắt đầu suôn sẻ với chiến thắng 4-1 trước Newcastle United nhưng kết thúc mùa giải United chỉ đứng ở vị trí thứ 11.
Trong mùa giải 1987-1988, Ferguson đã ký nhiều bản hợp đồng lớn bao gồm Steve Bruce, Viv Anderson, Brian McClair và Jim Leighton. Các cầu thủ mới đã đóng góp rất lớn cho thành quả đứng thứ hai của United (kém 9 điểm với Liverpool). Tuy nhiên, dù United chỉ thua 5 trận, họ đã hòa tới 12 trong các trận đấu còn lại và rõ ràng vẫn còn nhiều điều phải làm nếu họ muốn đuổi kịp đối thủ đến từ Đông Bắc của mình.
United được kỳ vọng lớn khi Mark Hughes trở lại câu lạc bộ từ Barcelona sau hai năm, nhưng mùa giải 1988-1989 là một sự thất vọng, kết thúc ở vị trí thứ 11 trong bảng xếp hạng và thua 0-1 ngay tại sân nhà trước Nottingham Forest tại vòng 6 cúp FA. Họ bắt đầu mùa giải chậm chạp, trải qua chuỗi 9 trận không thắng từ tháng 10 đến tháng 11 (8 hòa và 1 thua) trước khi có được những kết quả tốt hơn và xếp ở vị trí thứ ba vào giữa tháng 2 và tưởng như đã trở lại thành ứng cử viên sáng giá cho ngôi vô địch. Tuy nhiên, vào cuối mùa họ vẫn chỉ xếp ở giữa bảng xếp hạng.
Mùa giải 1989-1990, Ferguson tiếp tục đẩy mạnh việc mua sắm bằng cách mua về các tiền vệ Neil Webb, Mike Phelan và Paul Ince, cũng như hậu vệ Gary Pallister và cầu thủ chạy cánh Danny Wallace. Bắt đầu với chiến thắng 4-1 trước đương kim vô địch Arsenal trong ngày khai mạc, nhưng phong độ của United nhanh chóng đi xuống. Tháng 9, United thất bại đau đớn 1-5 trước đối thủ cạnh tranh Manchester City. 8 trận đấu tiếp theo United hòa 2 và thua 6, sau đó một biểu ngữ chế nhạo Ferguson xuất hiện tại Old Trafford “Fergie - 3 năm toàn là phân”, rất nhiều nhà báo và người hâm mộ kêu gọi sa thải Ferguson. Ông sau đó đã mô tả năm 1989 là “thời kỳ đen tối nhất trong sự nghiệp” của mình.
Tuy nhiên, Ferguson sau đó đã tiết lộ rằng ban giám đốc đã đảm bảo với ông họ không xem xét việc sa thải. Mặc dù thất vọng với kết quả của mùa giải, họ hiểu nguyên nhân là do vắng mặt một số chủ chốt do chấn thương và hài lòng với phương pháp Ferguson huấn luyện cầu thủ của câu lạc bộ. Sau mạch 7 trận không biết đến chiến thắng, Manchester United gặp Nottingham Forest tại vòng ba Cup FA. Forest đã chơi rất tốt và là ứng cử viên vô địch, vì thế tất cả đều cho rằng United sẽ thua và Ferguson phải ra đi, nhưng họ đã thắng 1-0 nhờ bàn thắng của Mark Robins và đi đến trận chung kết. Trận đấu này thường được nhắc đến như chiếc phao cứu lấy sự nghiệp của Ferguson tại Old Trafford. Man United đi đến trận chung kết và đánh bại Crystal Palace 1-0 trong trận đấu lại (hòa 3-3 trong trận đấu đầu tiên), đưa Ferguson đến danh hiệu lớn đầu tiên trên cương vị huấn luyện viên của Manchester United.
Danh hiệu Premier League đầu tiên


Alex Ferguson (năm 1992)
Mặc dù lối đá của United được cải thiện rất nhiều vào mùa giải 1990-1991, họ vẫn chỉ kết thúc mùa giải ở vị trí thứ sáu. Có một số trận đấu rất tuyệt vời như đè bẹp Arsenal 6-2 tại Highbury, nhưng lại có những trận đáng quên như thất bại 1-2 trước đội mới lên hạng Sunderland, thua nặng nề 0-4 trước Liverpool tại Anfield, và bị Everton đánh bại 0-2 ngay trên sân nhà vào đầu tháng 3 (trận đấu ra mắt của tài năng trẻ 17 tuổi Ryan Giggs) cho thấy rằng United vẫn còn nhiều vấn đề.
Ngay cả sau khi vô địch cúp FA, nhiều người đã nghi ngờ về khả năng thành công của Ferguson bởi tất cả các huấn luyện viên sau thời kỳ của Matt Busby đều đã thất bại. United về nhì ở League Cup sau khi để thua 0-1 trước Sheffield Wednesday. Họ cũng đi tới trận chung kết UEFA Cup Winners' Cup, đánh bại Barcelona (khi đó đang là đương kim vô địch Tây Ban Nha) 2-1. Sau trận đấu, Ferguson tuyên bố United sẽ giành chức vô địch ở mùa giải sau, và ông dường như đã đập tan được những sự hoài nghi dành cho mình sau 5 năm tại vị.
Trước khi mùa giải 1991-1992 khởi tranh, Archie Knox rời Glasgow để trở thành trợ lý của Walter Smith, và Ferguson đưa huấn luyện viên đội trẻ lúc đó là Brian Kidd lên làm trợ lý giám đốc thay Knox. Ông cũng có được hai bản hợp đồng lớn - thủ môn Peter Schmeichel và hậu vệ Paul Parker. Có nhiều dự đoán về sự trưởng thành vượt bậc của cầu thủ trẻ Ryan Giggs, người đã ra sân 2 lần và ghi 1 bàn thắng tại mùa giải 1990-1991, và sự xuất hiện ấn tượng trước đó của cầu thủ chạy cánh trẻ Lee Sharpe, sức trẻ của họ đã làm Ferguson cảm thấy không nhất thiết phải tiêu tiền vào thị trường chuyển nhượng để khỏa lấp vị trí đáng thất vọng của Danny Wallace bên cánh trái. Ông cũng mua thêm tiền vệ cánh phải người Ucraina Andrei Kanchelskis, cho anh ta vai trò tiền vệ tấn công phía cánh phải bên cạnh Mike Phelan và Bryan Robson. Mùa giải 1991-92 không giống như kỳ vọng của Ferguson, rất nhiều người và phương tiện truyền thông đã lên án những sai lầm của ông. Đầu tiên United giành được cúp Liên đoàn và siêu Cúp, nhưng mất chức vô địch vào tay đối thủ Leeds United sau khi dẫn đầu bảng xếp hạng trong phần lớn mùa giải - nguyên nhân do họ ghi được ít bàn thắng và bị cầm hòa nhiều ở nửa sau trước những đối thủ mà họ hoàn toàn có thể giành thắng lợi. Ferguson cảm thấy việc không ký được hợp đồng với Mick Harford từ Luton Town đã “phải trả giá bằng một mùa giải”, và ông cần thêm một sự khích lệ cho đội bóng nếu họ vô địch mùa giải tiếp theo.
Trước khi bắt đầu mùa bóng 1992-1993, Ferguson tiếp tục săn lùng một tiền đạo mới. Đầu tiên ông đã cố gắng ký hợp đồng với Alan Shearer từ Southampton, nhưng lại để mất vào tay Blackburn Rovers. Ông cũng đã tiếp cận tiền đạo David Hirst của Sheffield nhiều lần, nhưng quản lý Trevor Francis đã từ chối tất cả. Cuối cùng, ông trả 1 triệu bảng cho tiền đạo 23 tuổi Cambridge United Dion Dublin - cũng là chữ ký duy nhất trong mùa hè. Sau khởi đầu chậm chạp mùa giải 1992-93 (xếp thứ 10 trên tổng số 22 đội vào đầu tháng 11), có vẻ như United sẽ lại bỏ lỡ chức vô địch một lần nữa. Tuy nhiên, sau khi tiền đạo người Pháp Eric Cantona cập bến United từ Leeds United với giá 1,2 triệu bảng, tương lai của Manchester United và Ferguson bắt đầu trở nên tươi sáng. Cantona trở thành người đá cặp ăn ý với Mark Hughes và đưa United đến ngôi vô địch quốc gia sau 26 năm chờ đợi, và cũng là danh hiệu Premier League đầu tiên với 10 điểm nhiều hơn so với Aston Villa (đã thất bại 1-0 tại Oldham vào ngày 2 tháng 5 năm 1993). Alex Ferguson đã được Hiệp hội huấn luyện viên Anh bầu là Huấn luyện viên của năm.
 
T

thanhhung2805

Alex Ferguson​
images
Sự nghiệp tại Manchester United(part 2)
Cú đúp danh hiệu
Mùa giải 1993-1994 đã mang lại nhiều thành công hơn. Ferguson đã ký hợp đồng kỷ lục lúc đó là 3.75 triệu bảng Anh với tiền vệ 22 tuổi Roy Keane của Nottingham Forest như một sự thay thế lâu dài cho Bryan Robson chuẩn bị giải nghệ. Manchester United dẫn đầu bảng Premier League 1993-94 hầu như từ đầu đến cuối mùa, và Ferguson là người giành được danh hiệu Huấn luyện viên của tháng đầu tiên tại Premier League vào tháng 9 với sự ủng hộ và tôn trọng rất lớn. Eric Cantona là vua phá lưới với 25 bàn thắng trên tất cả các mặt trận mặc dù bị đuổi khỏi sân hai lần trong vòng 5 ngày vào tháng Ba năm 1994. United cũng đi đến trận chung kết cúp Liên đoàn nhưng lại thua Aston Villa 1-3 (được huấn luyện bởi người tiền nhiệm của Ferguson, Ron Atkinson) Trong trận chung kết Cúp FA, Manchester United thắng Chelsea 4-0, qua đó Ferguson giành cú đúp lần thứ hai cho mình với danh hiệu Vô địch quốc gia và Cúp quốc gia (trước đó cùng với Aberdeen mùa giải 1984-1985) Ferguson chỉ có thêm một chữ ký đó là David May từ Blackburn Rovers với giá 1.2 triệu bảng. Có báo đưa tin Ferguson sẽ ký hợp đồng với tiền đạo tài năng 21 tuổi Chris Sutton từ Norwich City, nhưng anh đã đầu quân cho Blackburn.
1994-1995 là một mùa giải khó khăn hơn cho Ferguson. Cantona tấn công 1 cổ động viên Crystal Palace tại sân Selhurst Park bằng cú “kungfu kick” nổi tiếng, và nó dường như làm cho anh phải chấm dứt sự nghiệp bóng đá ở Anh. Một lệnh cấm 8 tháng được đưa ra và Cantona bỏ lỡ bốn tháng cuối cùng của mùa giải. Cantona cũng phải nhận án tù 14 ngày đối với hành vi phạm tội nhưng bản án được đã bác bỏ và thay thế bằng 120 giờ phục vụ cộng đồng. Về mặt tích cực, United đã trả một khoản phí kỷ lục 7 triệu bảng Anh cho Newcastle United để đưa về tiền đạo Andy Cole, đổi lấy cầu thủ chạy cánh trẻ tuổi Keith Gillespie. Mùa giải cũng chứng kiến sự đột phá của các cầu thủ trẻ Gary Neville, Nicky Butt và Paul Scholes - những cầu thủ tuyệt vời từ lò đào tạo trẻ mà sau này họ đã cống hiến cho Manchester United trong một thời gian dài. Tuy nhiên, chức vô địch trượt ra khỏi tầm tay của Manchester United khi họ hòa 1-1 với West Ham United vào ngày cuối cùng của mùa giải, khi mà một chiến thắng sẽ cho họ danh hiệu thứ ba liên tiếp. United cũng để vuột mất chiếc cúp FA khi để thua Everton 0-1.
Ferguson bị chỉ trích nặng nề vào mùa hè năm 1995 khi cho ba ngôi sao của United ra đi và không có sự thay thế. Đầu tiên là Paul Ince chuyển tới Inter Milan (Ý) với giá 7,5 triệu bảng Anh, tiền đạo công thần Mark Hughes bất ngờ bị bán cho Chelsea với giá 1,5 triệu bảng, và Andrei Kanchelskis chuyển sang Everton. Ferguson đã tìm cách tiếp cận cầu thủ chạy cánh của Tottenham Hotspur Darren Anderton, nhưng cầu thủ này đã ký một hợp đồng mới với câu lạc bộ phía Bắc London. Sau đó ông đã đặt giá mua cầu thủ người Hà Lan Marc Overmars từ Ajax Amsterdam (đương kim vô địch Cup châu Âu), nhưng Marc bị chấn thương đầu gối nghiêm trọng và ngồi ngoài trong nhiều tháng. Một vài phương tiện truyền thông cho rằng United sẽ tiếp cận với tiền đạo của Juventus Roberto Baggio, người được coi là cầu thủ xuất sắc nhất trên thế giới vào thời điểm đó, nhưng anh đã ở lại Ý và ký hợp đồng với AC Milan sau đó.
Tuy vậy, Ferguson thấy rằng United có khá nhiều cầu thủ trẻ đã sẵn sàng để chơi cho đội Một. Các cầu thủ trẻ, những người được biết đến như “thế hệ của Fergie”, bao gồm hai anh em Gary Neville - Phil Neville, David Beckham, Paul Scholes, Nicky Butt, tất cả sẽ là thành viên quan trọng của đội bóng. Và như vậy, mùa giải 1995-96 bắt đầu mà không có một bản hợp đồng bom tấn nào, tại một thời điểm mà Arsenal, Liverpool và Newcastle United đều chi rất mạnh. Khi United để thua 1-3 trong trận đấu đầu tiên của mùa giải 1995-96 trước Aston Villa, các phương tiện truyền thông thi nhau chế giễu Ferguson công khai. Họ đã đánh giá United rất thấp bởi vì đội hình có rất nhiều cầu thủ trẻ thiếu kinh nghiệm. Chuyên gia bóng đá Alan Hansen - vốn là một CĐV của Liverpool, đã tuyên bố rằng "bạn không thể giành được bất cứ điều gì với những đứa trẻ". Tuy nhiên, “những đứa trẻ của Fergie” đã chơi tốt và United đã thắng năm trận đấu tiếp theo, đòi nợ Everton thất bại tại FA Cup mùa trước với chiến thắng 3-2 ngay tại Goodison Park và đánh bại Blackburn Rovers 2-1, đội bóng mà giờ đây trông mong trụ hạng hơn là trở thành ứng cử viên vô địch.
Cantona trở về từ án treo giò, nhưng Manchester United kém Newcastle United 10 điểm vào dịp Giáng sinh năm 1995. Chiến thắng 2-0 trên sân nhà trước Tynesiders vào ngày 27 Tháng 12 và tiếp theo trước QPR giúp United thu hẹp khoảng cách còn 4 điểm, nhưng thất bại 1-4 trước Tottenham vào ngày đầu năm 1996 và tỉ số hòa 0-0 với Aston Villa tại Old Trafford đã giúp Newcastle lại nới rộng được khoảng cách và dường như chạm một tay vào chức vô địch. Tuy nhiên một loạt kết quả khả quan giữa tháng 1 năm 1996 đã chứng kiến sự bám đuổi quyết liệt giữa hai đội bóng, và khi United thắng chính Newcastle 1-0 vào ngày 4 tháng 3, khoảng cách chỉ còn 1 điểm duy nhất, và sau đó United chiếm luôn ngôi đầu bảng của Newcastle - khi đó tiếp tục đánh mất những điểm số quan trọng.
Đầu tháng tư đã chứng kiến việc HLV Newcastle Kevin Keegan khiêu khích United khi ông này phát biểu trên chương trình truyền hình trực tiếp (“Tôi rất vui sướng nếu chúng ta đánh bại họ!”), thời điểm mà Ferguson đạt được thế thượng phong so với đối thủ của mình. Danh hiệu Premier League của United đã được khẳng định vào vòng đấu cuối của mùa giải, khi họ đánh bại Middlesbrough dưới sự dẫn dắt của cựu đội trưởng United Bryan Robson 3-0 trong trận đấu gây nhiều tranh cãi vì trước đó có người nói rằng Robson sẽ “cho đội bóng cũ của mình thắng dễ dàng” Họ gặp Liverpool trong trận chung kết cúp FA năm đó, giành chiến thắng 1-0 với bàn thắng của Cantona. Điều này làm cho Manchester United trở thành đội bóng đầu tiên trong lịch sử bóng đá Anh lặp lại cú đúp danh hiệu giải Ngoại hạng và FA Cup, và ấn tượng hơn điều này đạt được với một đội hình gần như tương tự lần trước đó.
Mùa giải 1996-97 chứng kiến Ferguson dẫn dắt Manchester United đến danh hiệu Premier League thứ tư trong 5 năm. Vào cuối mùa thu, họ phải chịu đựng ba thất bại liên tiếp và để thủng lưới 13 bàn, đánh mất kỷ lục bất bại 40 năm của họ ở châu Âu trước đội bóng nhỏ Fenerbahçe của Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng United vẫn vào đến bán kết Champions League và để thua đội bóng Đức Borussia Dortmund. Vào cuối mùa giải, Cantona bất ngờ tuyên bố giã từ sự nghiệp bóng đá. Một thành công khác của mùa giải 1996-97 là Manchester United đã có được hai bản hợp đồng Na Uy, tiền đạo Ole Gunnar Solskjaer (vua phá lưới mùa giải này của câu lạc bộ) và hậu vệ Ronny Johnsen, những người vốn được biết đến rất ít trước khi đến với Premier League, nhưng đã trở thành những mắt xích quan trọng trong danh hiệu vô địch Ngoại hạng Anh thứ tư của câu lạc bộ.
Cú ăn ba
Ferguson đã thực hiện hai bản hợp đồng mới để khích lệ United mùa giải 1997-98: tiền đạo 31 tuổi người Anh Teddy Sheringham và hậu vệ Henning Berg. Tuy nhiên, United trắng tay khi Arsenal vô địch Premier League dưới sự dẫn dắt của Arsène Wenger, từ đây đã bắt đầu một sự cạnh tranh lâu dài với Ferguson. Trong phần lớn của mùa giải United chơi tốt, họ dẫn đầu bảng xếp hạng trước khi có một loạt các kết quả đáng thất vọng trong quãng thời gian cuối cùng - Arsenal đã được hưởng lợi và chức vô địch cuối cùng đã về với vùng Bắc London. Tại cúp châu Âu, United thi đấu ấn tượng trong chiến thắng 3-2 trước Juventus ở vòng bảng trước khi bị loại bởi AS Monaco trong trận tứ kết. Tại cúp FA, họ bắt đầu tuyệt vời với thắng lợi 5-3 trước Chelsea trước khi thua sốc tại vòng 5 trước đội bóng Barnsley (xuống hạng năm đó)
Mùa hè năm 1998 đã chứng kiến tiền đạo Dwight Yorke, hậu vệ người Hà Lan Jaap Stam và cầu thủ chạy cánh của Thụy Điển Jesper Blomqvist gia nhập Manchester United với tổng chi phí gần 30 triệu bảng.
Tháng 12 năm 1998, trợ lý của Ferguson Brian Kidd chấp nhận lời đề nghị quản lý Blackburn Rovers và ông đã tuyển dụng Steve McClaren từ Derby County là người kế nhiệm của mình. Trớ trêu thay, đội bóng của Kidd bị xuống hạng trong vòng đấu áp chót khi hòa United 0-0.
Mùa giải 1998-1999 chứng kiến Manchester United giành được cú ăn ba danh hiệu Premier League, FA Cup và Champions League vô tiền khoáng hậu với những trận đấu kỳ lạ bậc nhất trong lịch sử bóng đá thế giới. Tại trận bán kết lượt về cúp C1 với Juventus, United bị dẫn trước hai bàn từ rất sớm, tuy nhiên với nguồn cảm hứng từ Roy Keane (anh sau đó bỏ lỡ trận chung kết do bị treo giò), United đã lội ngược dòng xuất sắc đánh bại Juventus 3-2. Trong trận bán kết FA Cup, United phải đối mặt với Arsenal và gần như đã thất bại khi Keane bị đuổi khỏi sân và Arsenal được hưởng một quả phạt đền vào phút chót. Nhưng Peter Schmeichel đã cản phá được, và trong thời gian thi đấu hiệp phụ Ryan Giggs đã có một pha đi bóng kỹ thuật từ giữa sân, vượt qua 4 cầu thủ Arsenal rồi sút tung nóc lưới của thủ môn David Seaman để có được bàn thắng đáng nhớ nhất trong sự nghiệp của mình giúp United đã giành chiến thắng. Sau đó, họ đánh bại Newcastle United 2-0 ở trận chung kết cúp FA tại sân Wembley nhờ hai bàn thắng của Teddy Sheringham và Paul Scholes. Tuy nhiên thắng lợi tại trận chung kết cúp châu Âu (sân Nou Camp của Barcelona) mới là đáng kinh ngạc nhất. Manchester United bị Bayern Munich dẫn trước 1-0 từ rất sớm nhờ cú sút phạt của Mario Basler, và hoàn toàn bế tắc trong 90 phút chính thức, nhưng chỉ trong 3 phút bù giờ, 2 quyết định sáng suốt của Ferguson: tiền đạo vào thay người Teddy Sheringham cân bằng tỉ số 1-1, và tiếp đó Ole Gunnar Solskjær, cũng là một sự thay người, đã ghi bàn ấn định tỉ số 2-1 cho Manchester United - một chiến thắng lịch sử.
Ngày 12 tháng 6 năm 1999, Ferguson đã được nữ hoàng Anh phong tước hiệu Hiệp sĩ cho những cống hiến của mình trong bóng đá.
 
T

thanhhung2805

Alex Ferguson​
images
Sự nghiệp tại MU(part 3)
Trận đấu tôn vinh năm 1999
Ngày 11 tháng 10, năm 1999, một trận đấu đặc biệt nhằm tôn vinh những đóng góp của Ferguson đã diễn ra. Manchester United đã chơi với một đội bóng được gọi là "Phần còn lại của đội thế giới XI", HLV là Ottmar Hitzfeld, với đội hình bao gồm những cái tên như Henrik Larsson, Gianluca Vialli, Cafu, Paul Gascoigne, George Weah, Peter Schmeichel và Eric Cantona, nhưng sau 20 phút là một sự thay thế hàng loạt các cựu cầu thủ Mancheser United: Peter Schmeichel, Paul Parker, Clayton Blackmore, Steve Bruce, Gary Pallister, Darren Ferguson, Mark Hughes, Lee Sharpe, và ba số bảy: Bryan Robson, David Beckham, Eric Cantona. Đội “phần còn lại của thế giới XI” đã thắng 4-2.
Ba mùa giải vô địch Premier League liên tiếp
Manchester United tiếp tục vô địch mùa giải 1999-2000 với chỉ 3 trận thua và hơn đội xếp thứ hai là Arsenal tới 18 điểm. Khoảng cách lớn giữa United và phần còn lại của Premier League (mặc dù họ đã phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ Arsenal và Leeds United cho tới các tuần cuối cùng của mùa giải), đã đặt ra một số câu hỏi liệu sự thống trị tài chính của một vài câu lạc bộ có thể trở thành một vấn đề đáng chú ý trong bóng đá Anh không?
Tháng 4 năm 2000, Manchester United công bố rằng họ đã đồng ý ký hợp đồng với tiền đạo người Hà Lan Ruud van Nistelrooy từ PSV Eindhoven với một khoản phí kỷ lục 18 triệu bảng Anh. Nhưng vụ chuyển nhượng bị hoãn lại khi van Nistelrooy không vượt qua cuộc kiểm tra y tế do chấn thương đầu gối, và sau đó anh trở về quê hương với quyết tâm lấy lại thể lực, điều này mất tới gần một năm. Ferguson cũng ký hợp đồng với thủ môn 28 tuổi của Pháp Fabien Barthez từ Monaco với giá 7.8 triệu bảng, làm cho Barthez trở thành thủ môn đắt giá nhất được ký kết bởi một câu lạc bộ Anh, và United giành chức vô địch một lần nữa, trở thành câu lạc bộ thứ tư trong lịch sử giành chức vô địch ba mùa giải liên tiếp. Họ cũng đuổi kịp kỷ lục 10 lần liên tiếp về nhất và nhì của Liverpool năm 1991. Tuy nhiên, giới truyền thông cho rằng mùa giải 1999-2000 và 2000-2001 là thất bại của United do câu lạc bộ không giành được Cúp châu Âu nào nữa, (thua Real Madrid tại bán kết năm 2000 và Bayern Munich năm 2001)
 
T

thanhhung2805

Alex Ferguson​
images
Các mùa giải(part 1).
Giai đoạn 2000 - 2002
Trong mùa giải 2001, Nistelrooy đến với câu lạc bộ và ngay sau đó Manchester United một lần nữa phá vỡ kỷ lục chuyển nhượng của bóng đá Anh khi trả Lazio 28.1 triệu bảng cho tiền vệ tấn công người Argentina Juan Sebastián Verón, mặc dù anh không đáp ứng được những kì vọng xứng đáng với mức phí chuyển nhượng cao của mình và 2 năm sau Veron được bán cho Chelsea với giá 15 triệu bảng . Mùa giải 2001 – 2002, trung vệ Stam đã được bán cho Lazio với giá thỏa thuận 16 triệu bảng, lý do cho sự ra đi của anh được tiết lộ trong đầu cuốn tự truyện của mình: Anh nói rằng mình đã bị di chuyển bất hợp pháp đến Manchester United bởi Ferguson trước khi CLB cũ PSV của anh được thông báo. Ferguson thay thế Stam bằng trung vệ của Inter Milan Laurent Blanc trước khi mùa giải bắt đầu. Ferguson mất trợ lý Steve McClaren, người trở thành HLV của Middlesbrough và bổ nhiệm Jim Ryan làm trợ lý tạm thời.
Đến ngày 8-12-2001, sau sự khởi đầu cực kỳ tồi tệ với 1 chiến thắng và 6 thất bại trong 7 trận đấu của giải ngoại hạng, MU đứng thứ 9 trên bảng xếp hạng, kém 11 điểm so với đội dẫn đầu Livepool. Đã có những lo ngại rằng họ không thể vô địch hay thậm chí không đủ điều kiện để chơi tại cúp C1. Sau đó từ giữa tháng 12 đến cuối tháng 1, United thắng 8 trận liên tiếp, họ leo lên phía trên bảng xếp hạng và trở lại cuộc đua đến ngôi vô địch, mặc dù vậy, United vẫn kết thúc ở vị trí thứ 3 tại giải quốc nội và đối thủ của họ là Arsenal của HLV Wenger, đã giành chức vô địch ở Old Trafford với chiến thắng 1-0 ở trận đấu áp chót của mùa giải sau khi Manchester United mất điểm trong một vài trận đấu quan trọng khác của mùa giải trong quá trình nước rút.
Manchester United cũng không thành công ở châu Âu, khi họ thua tại trận bán kết với bàn thắng trên sân khách của Bayer Leverkusen, sớm bị loại khỏi League cup và FA cup có nghĩa là họ kết thúc mùa giải trắng tay, đây là lần đầu tiên kể từ năm 1989, họ kết thúc mùa giải mà không là á quân của bất kỳ một giải đấu lớn nào. Mùa giải 2001-2002 được cho là mùa giải cuối cùng Ferguson dẫn dắt Manchester United, và ngày về hưu của ông đã được tiết lộ một cách lờ mờ - như một sự lý giải cho phong độ kém cỏi của các cầu thủ. Ferguson tự mình thừa nhận rằng quyết định thông báo nghỉ hưu của ông đã dẫn đến một tác động tiêu cực đến các cầu thủ và khả năng áp đặt kỷ luật cho đội bóng của mình. Nhưng đến tháng 2 năm 2002, ông đã đồng ý ở lại đội bóng thêm ít nhất là ba năm nữa.
Mùa giải 2002-2003
Manchester United lại phá vỡ kỷ lục chuyển nhượng Anh một lần nữa khi họ trả Leeds United 30 triệu bảng cho trung vệ 24 tuổi Rio Ferdinand. Ferguson đưa huấn luyện viên Bồ Đào Nha Carlos Queiroz về làm trợ lý cho mình.
Manchester United đã giành chức vô địch thứ tám của họ, trong khi chỉ hơn hai tháng trước khi kết thúc mùa giải họ kém 8 điểm so với đội đầu bảng Arsenal. Tuy nhiên, sự cải thiện phong độ của United cùng với việc Arsenal sa sút đã dần đưa mọi thứ trở lại tầm kiểm soát của đội bóng chủ sân Old Trafford. Ferguson mô tả chức vô địch này như là điều khiến ông vui mừng nhất, như đánh dấu cho sự trở lại đáng chú ý của United. Chặng đua cuối cùng Man United thắng 10, hòa 1, trong đó có chiến thắng trước Liverpool với tỉ số 4-0, đè bẹp Newcastle United 6-2, và bất bại kể từ ngày Boxing Day (26/12). Đây không phải là lần đầu tiên Ferguson chứng tỏ được bản lĩnh và sự điềm tĩnh của mình trước người đồng nghiệp Arsene Wenger.
Mùa giải 2003-2004
Ferguson hướng Manchester United đến chiếc cúp FA thứ mười một của họ vào cuối mùa giải 2003-04, nhưng đó là một mùa giải đáng thất vọng khi họ kết thúc ở vị trí thứ ba tại Premier League (mùa giải mà Arsenal không thua một trận nào) và tại Champions League bị loại một cách đau đớn bởi đội bóng vô địch năm đó là FC Porto. Rio Ferdinand đã bỏ lỡ bốn tháng cuối cùng của mùa giải, khi bị cấm thi đấu do đã bỏ lỡ cuộc kiểm tra doping. Những bản hợp đồng mới như Eric Djemba-Djemba và José Kleberson đều đáng thất vọng, United đã cố gắng ký hợp đồng với Ronaldinho và Fergie tin rằng thỏa thuận sẽ thành công trước khi Peter Kenyon tuyên bố nó bất thành, nhưng ông đã ký được hợp đồng với cầu thủ chạy cánh người Bồ Đào Nha Cristiano Ronaldo. Tiền đạo Louis Saha, được mua vào tháng Giêng, cũng đã chứng minh được khả năng của mình thay cho Ole Gunnar Solskjaer đang chấn thương.
Mùa giải 2004-2005
Khi mùa giải 2004-05 chuẩn bị bắt đầu, tiền đạo trẻ Wayne Rooney (cầu thủ trẻ đắt giá nhất thế giới với 20 triệu bảng) và hậu vệ người Argentina Gabriel Heinze gia nhập United. Tuy nhiên, việc thiếu một tiền đạo sau khi van Nistelrooy bị chấn thương trong phần lớn mùa giải đã khiến Man United kết thúc mùa giải ở vị trí thứ ba lần thứ ba trong bốn mùa. Tại cúp FA họ thua Arsenal trên chấm phạt đền. Bị đánh bại tại vòng 2 cúp C1 bởi AC Milan và thua ở bán kết League Cup trước Chelsea (cũng là đội vô địch Premier League) và hoàn toàn trắng tay tại mùa giải này.
Công việc Ferguson chuẩn bị cho mùa giải đã bị gián đoạn bởi một vụ tranh chấp với cổ đông lớn của John Magnier, về quyền sở hữu của con ngựa đua Rock of Gibraltar. Khi Magnier và đối tác kinh doanh JP McManus đồng ý bán cổ phần cho ông trùm kinh doanh Mỹ Malcolm Glazer, dọn đường cho Glazer để có được toàn quyền kiểm soát của câu lạc bộ. Điều này làm dấy lên những cuộc biểu tình bạo lực từ người hâm mộ United, và phá vỡ kế hoạch tăng cường đội bóng trong thị trường chuyển nhượng của Ferguson. Mặc dù vậy, United vẫn đi tìm hướng giải quyết cho vấn đề thủ môn và hàng tiền vệ của họ. Man United đã ký hợp đồng với thủ môn người Hà Lan Edwin van der Sar từ Fulham và ngôi sao Hàn Quốc Park Ji-Sung từ PSV.
Mùa giải này là mùa giải mang tính chất chuyển giao của United. Ngày 18 tháng 11, Roy Keane đã chính thức rời câu lạc bộ, hợp đồng chấm dứt với sự chấp thuận của cả hai bên. United không đủ điều kiện tham dự vòng knock-out của cúp C1. Trong thị trường chuyển nhượng mùa đông United đã ký hợp đồng với trung vệ người Serbia Nemanja Vidic và hậu vệ người Pháp Patrice Evra, và United kết thúc mùa giải với vị trí thứ hai sau Chelsea. Cúp Liên đoàn chỉ là danh hiệu an ủi cho Man United, trong khi đó tương lai của Ruud van Nistelrooy tại Old Trafford bị đặt dấu hỏi sau khi anh không ra sân từ đầu trong trận chung kết Carling Cup, và anh đã ra đi vào cuối mùa giải.
Mùa giải 2006-2007
Trong năm 2006, Michael Carrick đến United với giá 14 triệu bảng có thể coi như là một sự thay thế cho Roy Keane, mặc dù con số cuối cùng có thể lên đến 18.6 triệu tùy thuộc vào phong độ và kết quả thi đấu. United khởi đầu mùa giải khá tốt khi thắng bốn trận đầu tiên. Họ đứng đầu bảng Premier League và giữ vững vị trí này cho đến hết 38 vòng đấu. Các hợp đồng trong tháng 1 năm 2006 đã có một tác động rất lớn đến màn trình diễn của United, Patrice Evra và Nemanja Vidic đã tạo thành một bộ khung vững chắc cùng với những cựu binh Rio Ferdinand và đội trưởng Gary Neville. Bản hợp đồng Michael Carrick, vốn được đặt câu hỏi và chỉ trích bởi phần lớn của các phương tiện truyền thông, đã mang lại sự ổn định và sáng tạo cho hàng tiền vệ United, anh đá cặp rất ăn ý với Paul Scholes. Park Ji-Sung và Ryan Giggs đều nhấn mạnh giá trị của họ trong đội hình chính thức bằng việc tăng tốc độ và sự sắc sảo trong những đợt tấn công với Wayne Rooney và Cristiano Ronaldo phía trên.
Ferguson kỷ niệm 20 năm dẫn dắt Manchester United vào ngày 06 tháng 11 2006. Sự tri ân đến từ những cầu thủ của ông cả trong quá khứ và hiện tại, cũng như người đối địch với ông - Arsene Wenger, cựu đội trưởng Roy Keane. Bữa tiệc trở nên kém vui vào ngày hôm sau khi United để thua trước Southend tại vòng thứ tư Carling Cup. Tuy nhiên, vào ngày 01 tháng 12, Manchester United công bố đã ký thành công một bản hợp đồng cho mượn Henrik Larsson - một cầu thủ mà Ferguson đã ngưỡng mộ trong nhiều năm, và đã cố gắng để mua trước đó. Ngày 23 tháng 12 năm 2006, Cristiano Ronaldo ghi bàn thắng thứ 2000 của câu lạc bộ dưới quyền lãnh đạo của Ferguson trong trận đấu với Aston Villa. Sau đó, Manchester United đã giành chức vô địch thứ chín của họ tại Premier League nhưng bị lỡ mất danh hiệu cúp FA do bàn thắng muộn của Didier Drogba(Chelsea) tại trận chung kết.
Ở Champions League, câu lạc bộ đến vòng bán kết, trước đó đã đè bẹp Roma 7-1 trên sân nhà tại lượt về tứ kết, nhưng thất bại tại San Siro Milan 3-0 ở bán kết lượt về sau khi thắng 3-2 ở lượt đi (chung cuộc 3-5). Tuy nhiên, nó là một dấu hiệu mạnh mẽ chứng tỏ sự trở lại thống trị ngoại hạng Anh sau một vài năm bị lu mờ bởi Arsenal và đặc biệt là Chelsea.
Mùa giải 2007-2008


Ferguson và trợ lý Carlos Queiroz
Đến mùa giải 2007-08, Ferguson đã có những bản hợp đồng đáng chú ý củng cố đội hình cho United. Owen Hargreaves gia nhập CLB từ Bayern Munich sau một năm đàm phán. Ferguson tiếp tục bổ sung thêm hàng tiền vệ với cầu thủ chạy cánh người Bồ Đào Nha Nani và tiền vệ người Brazil Anderson. Chữ ký cuối cùng của mùa hè là của Carlos Tevez từ West Ham United sau quãng thời gian đàm phán rất phức tạp. United đã bắt đầu mùa giải tồi tệ, hòa 2 trận đấu đầu tiên trước khi thất bại 0-1 trước đối thủ cùng thành phố Manchester City. Tuy nhiên, United đã phục hồi và bắt đầu một cuộc rượt đuổi với Arsenal. Sau khi cải thiện được phong độ các cầu thủ, Ferguson tuyên bố rằng trong suốt thời gian của mình tại Manchester United, đây là đội hình tốt nhất ông đã quản lý và xây dựng.
Ngày 16 tháng hai năm 2008, United đánh bại Arsenal 4-0 trong trận đấu vòng 5 Cup FA tại Old Trafford, nhưng đã bị loại bởi Portsmouth (đang xếp giữa bảng xếp hạng) trong trận tứ kết ngày 08 Tháng 3, với tỉ số 0-1 trên sân nhà. United đã bị từ chối một quả phạt đền, và Ferguson sau trận đấu đã Keith Hackett, tổng giám đốc của PGMOB, là "không làm đúng công việc của mình". Ferguson sau đó đã phải nộp phạt cho FA và là lần thứ hai ông phải đối mặt với những rắc rối liên quan đến trọng tài, lần trước là khiếu nại của ông khi United để thua 0-1 trước Bolton Wanderers. Ngày 11 Tháng 5 năm 2008, Ferguson đưa Manchester United đến danh hiệu Premier League thứ 10, tròn 25 năm sau ngày ông đã dẫn dắt Aberdeen đánh bại Real Madrid để giành được cúp châu Âu. Đối thủ của United là Chelsea xếp ngay sau với hiệu số bàn thắng thua kém hơn. United giành chiến thắng 2-0 trước Wigan Athletic - đang được huấn luyện bởi cựu đội trưởng MU Steve Bruce.
Ngày 21 Tháng 5 năm 2008, Ferguson giành được chiếc cúp C1 thứ hai của mình với Manchester United khi họ đánh bại Chelsea 6-5 trên chấm phạt đền tại sân vận động Luzhniki ở Moscow, sau khi hòa 1-1 trong 120 phút thi đấu chính thức. Pha bỏ lỡ của Cristiano Ronaldo đã cho John Terry cơ hội rất lớn mang lại chiếc cúp C1 đầu tiên cho Chelsea nếu thành công, nhưng Terry cũng lại bỏ lỡ và cuối cùng Edwin van der Sar đẩy được cú sút của Nicolas Anelka và mang đến danh hiệu vô địch châu Âu cho Manchester United lần thứ hai dưới thời Ferguson và lần thứ ba trong lịch sử.
Sau khi giành được chiếc Cúp châu Âu, Ferguson đã tuyên bố ý định rời khỏi Manchester United trong vòng ba năm tới của mình, có nghĩa là ông sẽ ra đi vào mùa hè năm 2011.

 
T

thanhhung2805

Alex Ferguson
images
Các mùa giải( part 2) và thành tích
Mùa giải 2008-2009
Mặc dù đội bóng có một khởi đầu chậm chạp mùa giải 2008-09, United vô địch Premier League sớm 1 vòng đấu, giúp cho Ferguson trở thành huấn luyện viên đầu tiên trong lịch sử của bóng đá Anh giành được danh hiệu Premier League ba năm liên tiếp vào hai thời điểm khác nhau. Tổng cộng Ferguson đã giành được 11 chức vô địch tại Manchester United, và thành công ở mùa giải 2008-09 đặt CLB ngang với Liverpool đều có số lần vô địch là 18. Họ cũng giành được cúp Liên đoàn sau khi vượt qua Tottenham Hotspur trên chấm 11m. Vào ngày 27 tháng 5 năm 2009, Manchester United vào đến trận chung kết cúp C1 châu Âu gặp Barcelona nhưng đã để thua 0-2.
Sau lễ trao giải, Ferguson nói rằng ông sẽ ở lại United cho đến khi sức khỏe còn cho phép ông và ông sẽ vui mừng khi giành chức vô địch một lần nữa. Điều này sẽ làm cho United vượt qua đối thủ Liverpool để trở thành đội bóng giàu thành tích nhất nước Anh.
Mùa giải 2009-2010
Trong mùa giải 2009-2010, Ferguson đã thêm một danh hiệu Cúp Liên đoàn nữa vào bộ sưu tập của mình khi United đánh bại Aston Villa 2-1 ở Wembley ngày 28 tháng 2 năm 2010. Tuy nhiên, giấc mơ về một Cup châu Âu lần thứ ba đã kết thúc vài tuần sau đó khi United để thua Bayern Munich tại vòng tứ kết. Và hy vọng của họ về lần vô địch thứ 19 đã kết thúc vào ngày cuối cùng của mùa giải, khi Chelsea nghiền nát Wigan Athletic 8-0 và lên ngôi vô địch, khiến chiến thắng 4-0 của United với Stoke City trở nên vô nghĩa. Khoảng thời gian này, nhiều tờ báo cho rằng Ferguson sẽ nghỉ hưu vào cuối mùa giải 2010-11, nhưng ông bác bỏ những tin đồn này và khẳng định rằng ông muốn đạt được những thứ cao hơn và sẽ không nghỉ hưu cho đến khi không thể chiến đấu được nữa.
Mùa giải 2010-2011


Huấn luyện viên Alex Ferguson trong trận Manchester United gặp Crawley Town
Ngày 08 tháng 8 2010, Ferguson có thêm một danh hiệu Siêu cúp nước Anh vào bảng thành tích của mình khi United đánh bại Chelsea 3-1 tại Wembley. Ngày 19 Tháng 12 năm 2010, Ferguson trở thành huấn luyện viên dẫn dắt Manchester United dài nhất trong lịch sử, vượt qua kỷ lục 24 năm 1 tháng và 13 ngày của Sir Matt Busby. Ông kết thúc mùa giải bằng danh hiệu Premier League thứ 12 của mình và thứ 19 của Manchester United, do đó vượt qua kỷ lục 18 lần của Liverpool để trở thành câu lạc bộ giàu thành tích nhất vương quốc Anh. Manchester United đã phải đối mặt với Barcelona một lần nữa vào ngày 28 tháng 5, 2011 trong trận Chung kết Champions League thứ ba của họ trong bốn năm, nhưng United thua 1-3. Nhà phân tích Alan Hansen tin rằng Ferguson là "chìa khóa thành công của United mùa giải". Với Edwin van der Sar, Gary Neville và Paul Scholes giải nghệ vào năm 2011, Ferguson đã chi đậm cho các thương vụ: trung vệ Phil Jones từ Blackburn Rovers với giá khoảng 16 triệu bảng, tiền vệ cánh Ashley Young từ Aston Villa khoảng 17 triệu bảng, và thủ môn David de Gea từ Atletico Madrid với giá 17.8 triệu bảng.
Mùa giải 2011-2012
Ferguson bắt đầu mùa giải mới với trận tranh Siêu cúp nước Anh với Manchester City tại sân Wembley. Manchester United đã bị dẫn trước 0-2 nhưng sau đó lội ngược dòng và thắng lại 3-2, qua đó Ferguson có thêm 1 danh hiệu nữa nâng tổng số danh hiệu ông giành được với Manchester United lên con số 37. Nếu may mắn, Sir Alex sẽ có thêm một chiếc cúp ngoại hạng, Nếu ManC không ghi 2 bàn thắng quyết định vào lưới của QPR để lên ngôi vô địch với số điểm bằng MU nhưng hơn về hiệu số bàn thắng.
Mùa giải 2012-2013:Mùa giải cuối cùng
Với siêu sao người Hà Lan Robin van Persie gia nhập từ Arsenal với giá 24 triệu bảng,Manchester United băng băng trên con đường đến ngôi vô địch Premier League,nhờ tài chỉ đạo xuất sắc của Sir Alex và tài nổ súng đúng lúc để cứu rỗi đội bóng của van Persie.Đó là một lời chia tay đẹp với Alex Fergruson,vị huấn luyện viên 71 tuổi này đã giải nghệ vào cuối mùa giải vì lý do sức khỏe không đảm bảo và để chăm sóc gia đình .Tuy vậy ông vẫn giữ một chức trong ban giám đốc của Manchester United với cương vị là giám đốc kỹ thuật và Đại sứ. Người kế vị ông là David Moyes,huấn luyện viên 50 tuổi người Scotland,đã chia tay Everton vào cuối mùa giải để dẫn dắt Manchester United.
Thành tích của Alex Ferguson với Man United tại Premier League
Điểm số nhiều nhất: 1600 điểm (745 trận: 480 thắng, 160 hoà, 105 thua)
Kỷ lục số bàn thắng ghi được nhiều nhất: 1480 bàn.
Kỷ lục số trận đấu giữ sạch lưới nhiều nhất: 331 trận.
Kỷ lục số bàn thắng ghi được trung bình mỗi trận đấu nhiều nhất: 1.96 bàn/trận.
Kỷ lục số điểm đạt được trên sân nhà nhiều nhất: 901 điểm (373 trận: 279 thắng, 64 hoà, 30 thua)
Kỷ lục số điểm đạt được trên sân khách nhiều nhất: 699 điểm (372 trận: 201 thắng, 96 hoà và 75 thua)
Kỷ lục số khán giả đến sân trung bình lớn nhất: 61,555
Các số liệu thống kê tính đến ngày 10 tháng 11 năm 2011
.
 
T

thanhhung2805

Nói về vị huấn luyện viên huyền thoại của MU vậy là đủ rồi, giờ chúng ta sẽ đến với:
Ryan Giggs
images
Ryan Joseph Giggs (Tên khai sinh là Ryan Joseph Wilson, ngày 29 tháng 11 năm 1973) là một cầu thủ bóng đá người xứ Wales hiện đang chơi ở giải ngoại hạng Anh cho câu lạc bộ Manchester United và cũng đã dành toàn bộ sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp của mình cho câu lạc bộ này. Anh chơi ở vị trí tiền vệ chạy cánh trái trong những năm 1990 và tiếp tục ở vị trí này vào những năm 2000, nhưng anh ngày càng được huấn luyện viên Alex Ferguson sử dụng trong vai trò một tiền vệ trung tâm trong những năm sau này.
Giggs giữ một số lượng lớn các kỷ lục cá nhân, trong đó có kỷ lục là cầu thủ được tặng thưởng huy chương nhiều nhất trong lịch sử bóng đá Anh. Ngày 16 tháng 5 năm 2009, anh trở thành cầu thủ bóng đá đầu tiên có được 11 danh hiệu cùng câu lạc bộ. Giggs là cầu thủ đầu tiên trong lịch sử giành giải thưởng Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất năm của PFA trong hai năm liên tiếp (1992 và 1993) và là cầu thủ duy nhất đã chơi và ghi bàn trong mỗi mùa giải của Premier League kể từ giải đấu này ra đời.
Giggs đã có một sự nghiệp trong nước và châu lục rất dài và là cầu thủ đầu tiên trong lịch sử UEFA Champions League đã ghi bàn trong 11 mùa giải liên tiếp, chính những thành tích này đã khiến anh được bầu chọn vào Đội hình xuất sắc nhất thế kỷ của PFA trong năm 2007, Đội hình Premier League xuất sắc nhất thập kỷ, vào năm 2003, cũng như Đội hình xuất sắc nhất thế kỷ của FA Cup. Giggs cũng là cầu thủ duy nhất của M.U đã chơi trong tất cả 11 giải đấu Premier League và cả ba giải Cúp Liên đoàn mà United vô địch. Trong trận chung kết UEFA Champions League 2008, được tổ chức vào ngày 21 tháng 5 năm 2008, Giggs đã vượt qua kỷ lục của huyền thoại Sir.Bobby Charlton với 758 trận thi đấu cho Manchester United để trở thành người từng khoác áo "Quỉ đỏ" nhiều lần nhất trong lịch sử.
Ở cấp độ quốc tế, Giggs chơi cho đội tuyển bóng đá quốc gia Wales trước khi giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế vào ngày 2 tháng 6 năm 2007, và đã có một thời là cầu thủ trẻ nhất từng thi đấu cho đội tuyển quốc gia. Với nhiều danh hiệu cao quý mà Giggs đã nhận được trong sự nghiệp, anh đã có tên trong Football League 100 Legends (người cuối cùng còn thi đấu trong danh sách), anh được trao Huân chương đế quốc Anh trong Danh sách Queen's 2007 Birthday Honours, và được đưa vào Hall of Fame (Đại lộ Danh vọng - Nơi kỷ niệm những người nổi tiếng) của bóng đá Anh vào năm 2005 cho những đóng góp của mình tới nền bóng đá Anh quốc. Anh còn được bầu chọn là Nhân vật của năm do BBC Sports bình chọn vào năm 2009..
 
T

thanhhung2805

Một huyền thoại tiếp yheo của MU là:
Bobby Charlton​
images
Robert "Bobby" Charlton (sinh ngày 11 tháng 10 năm 1937 tại Ashington, Northumberland) là cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp của Anh, người đã giành chức vô địch World Cup và danh hiệu quả bóng vàng Châu Âu năm 1966. Ông đã cống hiến phần lớn sự nghiệp chơi bóng cho CLB Manchester United, nơi mà ông đã thành danh với những khả năng tấn công xuất sắc của một tiền vệ cùng những cú sút xa.
Charlton bắt đầu chơi cho đội một của United năm 1956, hơn hai năm sau ông giành được vị trí thường xuyên trong đội hình, cũng trong thời gian này ông cũng là người đã sống sót sau thảm họa München năm 1958. Sau khi giúp United giành chức vô địch Football League năm 1965, ông đã giành được huy chương vàng World Cup 1966 cùng tuyển Anh và một chức vô địch Football League nữa một năm sau đó. Năm 1968, ông là người đội trưởng dẫn dắt Manchester United giành chức vô địch Châu Âu và là người ghi 2 bàn trong trận chung kết giúp United trở thành đội bóng đầu tiên của Anh vô địch cúp Châu Âu. Ông có số bàn thắng cho United cũng như tuyển Anh nhiều hơn bất cứ cầu thủ nào khác. Ông cũng là người có số lần khoác áo Manchester United nhiều nhất, những kỉ lập vẫn còn được ghi nhận cho tới năm cuối năm 2006.
Ông rời Manchester United năm 1973, trở thành cầu thủ kiêm huấn luyện viên của CLB Preston North End, tuy nhiên tính cách thầm lặng đã không giúp ông thành công với cương vị HLV và ông rời CLB này chỉ sau một mùa bóng.
Sau đó Charlton làm giám đốc kĩ thuật cho CLB Wigan Athletic trong một thời gian ngắn. Ông tiếp tục trở thành thành viên ban giám đốc của Manchester United năm 1984 và giữ cương vị này cho đến tháng 4 năm 2007. Trong sự nghiệp của mình, ngoài những danh hiệu về bóng đá, Bobby Charlton còn giành được những giải thưởng danh giá như giải thưởng CBE năm 1974 và đến năm 1994 ông được Nữ hoàng Anh phong tước hiệp sĩ.
 
T

thanhhung2805

Người tiếp theo được nói đến là:
Paul Scholes
images
Paul Aaron Scholes (sinh ngày 16 tháng 11 năm 1974) là một cầu thủ bóng đá người Anh.Anh là một trong những cầu thủ trung thành, đã dành toàn bộ sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp của mình với câu lạc bộ Manchester United.
Sinh ra ở Salford, nhưng sau đó chuyển đến Langley, Scholes xuất sắc trong cả hai môn cricket và bóng đá ở trường. Anh được đào tạo lần đầu tiên bởi Manchester United lúc 14 tuổi sau khi được phát hiện tài năng bởi một trinh sát tại trường học của mình. Paul có trận ra mắt cho M.U trong mùa giải 1994-1995 và có 17 lần ra trận. Anh cũng là một thành viên trong đội hình giành cú ăn ba mùa giải 1998-99 của United .
Scholes đã thi đấu cho đội tuyển Anh từ năm 1997 đến 2004, tham gia World Cup 1998 và World Cup 2002, cũng như Euro 2000 và 2004. Scholes đã bị phạt hơn 120 thẻ vàng trong tất cả các giải đấu suốt sự nghiệp của mình và đã bị đuổi khỏi sân mười lần. Scholes đã được huyền thoại của bóng đá Pháp Zinédine Zidane gọi là tiền vệ vĩ đại nhất "của thế hệ mình".

Anh cũng đã trở thành 1 huyền thoại của MU với tư cách là cầu thủ khoác áo câu lạc bộ nhiều thứ 4 trong lịch sử, sau Ryan Giggs, Bobby Charlton và Bill Foulkes với 676 trận đấu. Ngày 31 tháng 5 năm 2011 Scholes đã tuyên bố giã từ sự nghiệp cầu thủ của mình, và tiếp tục gắn bó với câu lạc bộ trên cương vị là một thành viên trong ban huấn luyện. Tuy nhiên ngày 8 tháng 1 năm 2012 anh bất ngờ tuyên bố quay lại sân cỏ để giúp MU vượt qua khó khăn và anh ra sân từ băng ghế dự bị trong trận derby thành Manchester
Trận đấu cuối cùng (MU 2-1 Swansea) trên cương vị Huấn luyện viên của Sir Alex Ferguson cũng là trận đấu cuối cùng của Paul Scholes, anh đã tuyên bố từ giã MU sau thời gian cố gắng và thành công giúp MU đoạt chức vô địch Premier League mùa bóng 2012-2013
 
T

thanhhung2805

Gary Neville
images
Gary Alexander Neville sinh ngày 18 tháng 2 năm 1975 tại Bury, Greater Manchester, là cầu thủ bóng đá người Anh hiện đã giải nghệ. Anh từng thi đấu ở giải ngoại hạng Anh cho CLB Manchester United. Vị trí sở trường của anh là hậu vệ cánh phải, Gary bắt đầu chơi bóng tại M.U và dành cả sự nghiệp của mình cho United. Ở thời kì đỉnh cao sự nghiệp, Gary Neville được biết đến như là một hậu vệ công-thủ toàn diện, cùng khả năng tạt cánh siêu việt, thứ rất cần thiết ở vị trí hậu vệ cánh. Anh xuất hiện lần đầu ở một trận đấu quốc tế là vào năm 1995 và dành 10 năm chơi bóng cho đội tuyển Anh.
Sự nghiệp tại CLB:
Gary xuất hiện lần đầu ở M.U là vào năm 1992 trong trận gặp Torpedo Moscow ở UEFA Cup. Anh là cầu thủ thuộc thế hệ tài năng trẻ của Mu những năm 1990, cùng lứa với anh có Phil Neville, Ryan Giggs, David Beckham, Nicky Butt and Paul Scholes. Đến năm 1994 anh bắt đầu thi đấu chính thức trong đội hình Mu và trở thành cầu thủ không thể thiếu của Mu, và đã cùng Mu giành nhiều vinh quang. Năm 2005 anh trở thành đội trưởng kế nhiệm của Mu khi Roy Kean ra đi. Trong những năm đỉnh cao anh là một hậu vệ cánh công thủ toàn diện, với đường chuyền xa với độ chính xác rất cao anh đã nhiều lân góp công vào các bàn thắng của Quỷ đỏ. Gary bị chấn thương trong trận gặp Bolton tháng 3-2007 và cũng quay lại thi đấu khi gặp Everton hồi tháng 1-2008. Anh đã ghi 1 bàn và phút thứ 21 của trận đấu giúp cho Mu có được trận hòa trước Everton.Ngày 9-4 anh cũng thi đấu trong trận tứ kết C1 gặp AS Roma, anh chơi 81 phút sau khi ra sân để nhường chỗ cho Anderson. Đó là lần thứ 99 anh thi đấu ở cúp C1. Mới đây 21-5-2008 Mu của anh đã giành chiếc cúp C1 thứ 3 trong lịch sử sau chiến thắng trước Chelsea trên chấm 11m.
Vào ngày 2 tháng 2 năm 2011, Neville đã thông báo về quyết định giải nghệ của mình sau gần 20 năm cống hiến cho Manchester United. Trận đấu cuối cùng của anh là trong trận thắng 2 - 1 trước West Bromwich Albion trên sân The Hawthorns vào ngày đầu năm 2011.
 
T

thanhhung2805

Tiếp theo là:
Anthony Peter Dunne
images
Anthony Peter Dunne ( sinh ngày 24 Tháng Bảy năm 1941 ở Dublin ) , cầu thủ bóng đá Ailen người thường xuyên xuất hiện bên cánh trái . Ông đã 33 lần khoác áo Cộng hòa Ireland, chơi cho đội tuyển quốc gia trong 1962-1975 . Ông là cầu thủ xuất sắc Ailen của năm vào năm 1969.
Dunne chơi cho bé nổi tiếng Stella Maris Football Club là một cậu học sinh Shelbourne 1958-1960 . Có Shels giúp giành chiến thắng trong Youth Cup FAI vào năm 1959 , ông đã giành được Cup FAI với họ năm sau khi đánh bại Hibernians Cork 2-0 trong trận chung kết.
Một tuần sau khi trận chung kết, anh ký hợp đồng với Manchester United cho £ 5000 đầu tiên của anh cho United đã vào ngày 15 Tháng 10 năm 1960 trong trận gặp Burnley . . Ông đã giúp câu lạc bộ giành chiến thắng trong năm 1963 FA Cup, Anh Football League First Division vô địch năm 1965 và 1967 , và Cúp châu Âu năm 1968 . Trong sự nghiệp của mình Kỳ, ông ghi hai bàn và xuất hiện trong 530 trò chơi, và hiện là cầu thủ Manchester United với số lượng lớn nhất thứ bảy của câu lạc bộ xuất hiện , sau Ryan Giggs , Bobby Charlton , Bill Foulkes , Paul Scholes , Gary Neville và Alex Stepney .
Ông vẫn ở lại Old Trafford cho đến khi bắt đầu mùa giải 1973-1974 . Sau đó, ông ký hợp đồng với Bolton Wanderers , giúp họ giành chiến thắng trong giải hạng hai bóng đá trong 1977-1978 . Vào thời điểm đó , Bolton đã được quản lý bởi cựu cầu thủ Manchester United Ian Greaves .
Ông tham gia Detroit Express trong Bắc Mỹ Soccer League ( NASL ) vào năm 1979.
Sau khi nghỉ hưu từ bóng đá chuyên nghiệp , Dunne trở lại Bolton là một trợ lý quản lý 1979-1981 . Sau đó ông thay thế Bill Foulkes là người quản lý của Steinkjer FK trong 1982-1983 .
Ông đã thực hiện quốc tế đầy đủ của mình trong trận thua 3-2 của Áo vào ngày 08 Tháng 4 năm 1962 . Hơn 13 năm qua ông đã kiểm đếm của ông đến 33 mũ, xuất hiện trong cả hai vị trí đầy đủ trở lại và ở vị trí trung vệ . Không liên quan đến thủ môn Pat Dunne . Ông là đội trưởng quốc gia của mình trong bốn kỳ .
Hiện nay, Dunne sống trong bán hàng và điều hành một phạm vi lái xe trong Altrincham .
Trong tháng 10 năm 2011 , câu lạc bộ cũ của mình Manchester United trả khoảng £ 44,000 đấu giá 4 huy chương chiến thắng của Dunne , trong đó có một huy chương Cúp châu Âu, một huy chương FA Cup và hai huy chương giải đấu .
 
T

thanhhung2805

Denis Joseph Irwin​
Denis Joseph Irwin (sinh ngày 31 tháng 10 1965 tại Cork, Ireland) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp Ireland đã chơi như một trở lại đầy đủ 1983-2004.
Ông được biết đến với thời gian làm lâu dài và thành công của mình tại Manchester United, nơi ông khẳng định mình là một trong những cầu thủ quan trọng nhất trong đội hình United đã giành một loạt các danh hiệu trong nước và châu Âu trong thời gian của mình ở đó từ năm 1990 đến năm 2002. Ông đã được coi Alex Ferguson như bảng Anh cho bảng lớn nhất của ông bao giờ ký . Trước đó trong sự nghiệp của mình anh chơi cho Leeds United và sau đó Oldham Athletic, và kết thúc sự nghiệp của mình với một chính tả hai năm ở Wolverhampton Wanderers. Irwin đã được giới hạn bởi Cộng hòa Ai-len đội tuyển quốc gia 56 lần, ghi được bốn bàn thắng và tính năng ở phía bên đó lọt vào vòng thứ hai (cuối 16) tại World Cup 1994
Sự nghiệp CLB

Irwin đã bắt đầu sự nghiệp của mình với Leeds United vào năm 1983, làm 72 lần ra sân ở giải hạng hai , trước khi chuyển sang Oldham Athletic theo dạng chuyển nhượng tự do vào năm 1986. Ông đã giúp Oldham lọt vào bán kết của FA Cup và trận chung kết League Cup bóng đá vào năm 1990 trước khi được chuyển đến Manchester United với phí chuyển nhượng £ 625.000 .
Trong 12 năm tại Old Trafford , ông đã 296 lần ra sân tại Premier League và thắng bảy Premier League huy chương danh hiệu , cũng như ba FA Cup huy chương chiến thắng ( 1994, 1996 và 1999) , huy chương Cup người chiến thắng League và Champions League và Cup Winners ' danh dự. Ông cảm thấy thoải mái trong một trong các vị trí trở lại đầy đủ và một chuyên gia đá phạt và hình phạt, và ngay cả vào giữa tuổi ba mươi của mình, ông vẫn lựa chọn đầu tiên của United trái lại ưu tiên cho các trẻ hơn nhiều Phil Neville .
Anh ghi tổng cộng 22 bàn thắng cho United , bao gồm một số hình phạt . Là người đầu tiên trong số này đã vào ngày 07 Tháng 9 năm 1991 trong chiến thắng nhà 3-0 trước Norwich City ở giải hạng nhất.
Mục tiêu đáng chú ý đến vào ngày Boxing Day năm 1991, khi anh ghi hai bàn trong một giải đấu 6-3 đi chiến thắng câu lạc bộ cũ của mình Oldham Athletic , và người chiến thắng của ông cuối gặp Southampton tháng năm 1995 mà giữ cuộc đua chức vô địch mở cho đến khi trận đấu cuối cùng , Kỳ hoàn thành á quân nhưng có lẽ vô địch nếu như họ có thể biến 1-1 của họ đi vẽ với West Ham United vào một chiến thắng, như nhà vô địch Blackburn Rovers thua trận đấu cuối cùng của mùa giải .
Irwin đã được trao một trò chơi lời chứng thực cho Manchester United - chơi trên 16 tháng 8 năm 2000 với Manchester City tại Old Trafford. Mặc dù lời chứng thực là trận đấu giao hữu , do các trận đấu là giữa các đối thủ địa phương đó là một mối quan hệ vật lý. Irwin đã đi ra bị thương ở phút 37 sau một pha xấu của tiền đạo Thành phố George Weah .
Irwin xuất hiện cuối cùng của anh cho Manchester United tại Old Trafford trong trận gặp Charlton Athletic vào ngày cuối cùng của Premier League mùa 2001-02 League ( ngày 12 tháng năm 2002 ) , kết thúc trong trận hòa 0-0 . Cho trận đấu cuối cùng của mình như là một cầu thủ Manchester United , Alex Ferguson trao cho ông chiếc băng đội trưởng .
Irwin gia nhập Wolves theo dạng chuyển nhượng tự do sau khi mùa giải 2001-02 , tình cờ tham gia vào câu lạc bộ Black Country đồng thời là cựu đồng đội Manchester United Paul Ince của ông đã di chuyển đến các câu lạc bộ Tây Midlands , trước đó từng ở Middlesbrough . Irwin ghi hai bàn trong mùa giải đầu tiên của mình tại Wolves , trận gặp Burnley và Grimsby.
Sau khi Wolves đã giành quyền lên Premier League vào năm 2003, Irwin đã được hoan nghênh của Manchester United khi anh bước lên sân tại Old Trafford cho một trò chơi giải đấu đầu mùa giải mà United thắng 1-0.
Wolves xuống hạng vào cuối mùa giải 2003-04 , và Irwin 38 tuổi sau đó đã thông báo nghỉ hưu
 
T

thanhhung2805

Xin lỗi các bạn vì lâu mình không post bài nhưng dạo này bận quá, mình sẽ post đều hơn từ giờ.
Tiếp:
Joseph Waters " Joe " Spence​

Joseph Waters " Joe " Spence ( ngày 15 tháng 12 năm 1898 - 31 Tháng 12 năm 1966 ) là một cầu thủ bóng đá Anh. Spence đã được mua từ Scotswood tháng 3 năm 1919 của Manchester United . Trận đầu tiên cho câu lạc bộ đã vào ngày 30 tháng 8 năm 1919 trong trận gặp Derby County, vào lúc bắt đầu của mùa giải bóng đá đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ nhất .
Ông là hiện thứ sáu trong danh sách ghi bàn mọi thời đại của câu lạc bộ với 168 và thứ bảy cho xuất hiện với 510 . Ông rời câu lạc bộ vào năm 1933.
Một trong số ít ngôi sao thực sự của United giữa các cuộc chiến tranh , cánh chơi của Spence thực hiện " Đưa nó cho Joe " sân ca thường nghe trong suốt 14 năm của ông tại Old Trafford. Mùa giải đầu tiên của ông đã mang được 14 bàn thắng trong 32 trận hạng nhất, và trong mùa giải tốt nhất của mình tại câu lạc bộ , mùa 1927-1928 , anh ghi 24 bàn , 22 trong giải đấu và hai ở FA Cup . Tuy nhiên , Hoa đã được chuyển xuống giải hạng hai hai lần trong suốt 14 năm của mình ở đó .
Thật vậy, như vậy là tầm quan trọng của ông về United và Manchester , ông đã được biết đến tại địa phương như " ông bóng đá " .
Sinh trong Throckley , Northumberland , người trẻ Spence chơi cho Blutcher Juniors và Throckley Celtic . Trong khi với trước đây, anh đã ghi bàn đáng kinh ngạc 42 bàn thắng 49 của đội bóng trong mùa giải đầu tiên . Tại 13 ông bắt đầu làm việc như một thợ mỏ và đã nhập ngũ vào quân đội ở tuổi 17, nơi ông phục vụ như một máy xạ thủ .
Anh làm khách mời cho Liverpool , Newburn và Scotswood trong năm của mình trong dịch vụ và đoạt Cúp Quân đội với tiểu đoàn của ông . Nhưng tháng 3 năm 1919 , một năm sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, Spence ký hợp đồng với United từ phía đông bắc đội bóng nghiệp dư , Scotswood .
Anh lãng phí thời gian không làm ảnh hưởng đến : điểm bốn trong một 5-1 Lancashire Phần drubbing của Bury tại Old Trafford trong trận ra mắt của mình. Ra mắt chính thức của ông đến vào tháng Tám khi các chương trình liên minh tiếp tục và ông là một mô hình thống nhất sau đó, làm 510 lần ra sân và ghi được 168 bàn thắng.
Thật đáng buồn cho Spence , anh đã không thể giành được bất kỳ danh hiệu lớn và nó đã không cho đến khi ông rời khỏi United vào năm 1933 rằng ông dỡ bỏ bất kỳ bạc - Bộ phận thứ ba giải vô địch Bắc với Chesterfield , trong năm 1936.
Đó là nỗi bất hạnh của mình để được tại Old Trafford trong một thời gian chuyển tiếp , nhưng trong một khoảng thời gian khi United đội thường thất bại trong việc sản xuất hàng hóa , sự hiện diện giải trí của ông là một điểm nhấn thực sự .
Ông vẫn còn trong top 10 xuất hiện các nhà hoạch định cho câu lạc bộ và 481 trận của ông là một kỷ lục mà đứng trong 40 năm cho đến khi vượt qua bởi Bill Foulkes .
Ông rời Kỳ để tham gia Bradford City vào năm 1933 , nơi anh đã chơi 75 trận trong hai mùa giải , ghi được 27 bàn thắng , bao gồm việc đầu mục tiêu ghi bàn trong mùa giải 1933-1934 . Ông rời thành phố để tham gia Chesterfield tháng 5 năm 1935 .
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc vào năm 1945 , người quản lý mới Matt Busby đưa Spence trở lại Mỹ trong một huấn luyện và vai trò trinh sát .
Mặc dù thành công của mình như là một cầu thủ, ông đã được giới hạn chỉ có hai lần Anh, cơ hội của mình công nhận quốc tế không giúp bởi thực tế là ông đã trải qua nhiều mùa chơi bên ngoài các chuyến bay hàng đầu .
Con trai ông, cũng tên là Joe , là trên sổ sách của Chesterfield , nhưng đã không làm cho xuất hiện cho họ trước khi gia nhập York City vào năm 1950. Trong bốn năm tại York , ông đã 110 lần ra sân trước khi thả vào bóng đá không liên minh với Gainsborough Trinity .
Ông qua đời vào năm mới đêm giao thừa năm 1966, ở tuổi 68 .
 
T

thanhhung2805

Arthur Albiston Richard
images
Arthur Albiston Richard (sinh ngày 14 tháng 7 năm 1957 tại Edinburgh) là một cựu cầu thủ bóng đá Scotland.
Sự nghiệp
Albiston gia nhập Manchester United như một người học việc trong tháng 7 năm 1972 , quay chuyên nghiệp trong tháng 7 năm 1974 . Ông có trận ra mắt trong một League Cup trận đấu vòng thứ ba với các đối thủ địa phương Manchester City vào năm 1974. Ông đã 485 lần ra sân trong 14 năm , chơi ở cánh trái , và ghi sáu bàn thắng. Ông đã giúp câu lạc bộ giành chiến thắng FA Cup năm 1977 , 1983 và 1985 .
Albiston lại Manchester United trong năm 1988 cho West Bromwich Albion , bởi cựu Quỷ đỏ HLV Ron Atkinson quản lý , theo dạng chuyển nhượng tự do . Đến thời điểm rời khỏi sân Old Trafford anh là cầu thủ lâu nhất ở đội tuyển và cầu thủ duy nhất còn lại từ thời Tommy Docherty .
Ông đã Albion ra mắt của mình trong một giải đấu phù hợp với đi chơi ở Leicester City ngay từ đầu mùa 1988-1989 , và tiếp tục thực hiện 47 lần ra sân và điểm số hai mục tiêu trong mùa giải , sau đó ông trở về quê hương của mình để ký hợp đồng với Dundee , và tiếp tục chơi cho Chesterfield , thành phố Chester, Molde ở Na Uy và Ayr United . Ông nghỉ hưu từ bóng đá cao cấp trong năm 1994.
Trong sự nghiệp chuyên nghiệp của mình , ông đã 464 lần ra sân và ghi được bảy bàn thắng. Ông cũng tham gia sau bên không giải Sittingbourne, Witton Albion và Droylsden .
Albiston cũng kiếm được 14 lần khoác áo tuyển Scotland , trận đấu ra mắt vào ngày 28 tháng 4 năm 1982 với Bắc Ireland . Tổng của ông bao gồm một trò chơi tại 1986 FIFA World Cup, một trận hòa 0-0 với Uruguay trên 13 tháng sáu năm 1986 .
Sau khi nghỉ hưu từ chơi , Albiston quản lý Droylsden ( 1996-1997 ) , là một huấn luyện viên cơ sở tại Manchester United ( 2000-04 ) và cũng đã làm việc như một summariser radio cho Manchester độc lập . Ông hiện đang làm việc cho kênh MUTV , Manchester United kênh truyền hình chính thức , hoạt động như trận đấu summariser trong bảo hiểm trực tiếp của dự trữ của câu lạc bộ và các đội học viện .
 
T

thanhhung2805

Roy Keane
images
Keane năm 2005
thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Roy Maurice Keane
Ngày tháng năm sinh ngày 10 tháng 8 năm 1971 ( 42 tuổi )
Nơi sinh Cork , Ireland
Chiều cao 5 ft 10 in ( 1.78 m )
Chơi vị trí Tiền vệ
CLB chuyên nghiệp *
Năm CLB Số trận † ( bàn thắng) †
1989-1990 Cobh Ramblers 23 (1)
1990-1993 Nottingham Forest 114 ( 22)
1993-2005 Manchester United 326 (33)
2005-2006 Celtic 10 ( 1 )
Tổng số 473 (57)
đội tuyển quốc gia
1991 Cộng hòa Ireland U21 4 (0)
1991-2005 Cộng hòa Ai-len 67 ( 9 )
đội quản lý
2006-2008 Sunderland
2009-2011 Ipswich Town
2013 - Cộng hòa Ireland ( trợ lý )

* Xuất hiện câu lạc bộ cao cấp và bàn thắng được ghi cho các giải đấu trong nước.
† Số trận khoác ( bàn thắng).
Roy Keane Maurice ( sinh ngày 10 tháng 8 năm 1971 ) là một nhà quản lý bóng đá Ailen và cựu cầu thủ . Ông là trợ lý giám đốc của nước Cộng hòa của đội bóng đá quốc gia của Ireland Trong sự nghiệp chơi 18 năm của mình , ông chơi cho Cobh Ramblers , Nottingham Forest , và Manchester United , trước khi kết thúc sự nghiệp của mình tại Celtic . . Keane là một tiền vệ trung tâm thống trị , nổi tiếng với phong cách mạnh mẽ và cạnh tranh cao của mình của trận đấu, một thái độ mà giúp anh nổi trội như đội trưởng của Manchester United từ năm 1997 cho đến khi ra đi của ông vào năm 2005 , sau khi tham gia câu lạc bộ trong năm 1993. Keane đã giúp Kỳ đạt được một khoảng thời gian kéo dài của sự thành công trong hơn 12 năm ở câu lạc bộ . Sau đó, ông ký hợp đồng với Celtic nhưng đã nghỉ hưu như một cầu thủ chưa đầy một năm sau đó.
Anh chơi ở cấp độ quốc tế cho sự nghiệp của mình , đại diện cho Cộng hòa Ireland trong khoảng thời gian 14 năm , hầu hết trong số đó ông đã là đội trưởng . Anh đã chơi trong tất cả các nước Cộng hòa Ai-len trận đấu tại World Cup 1994 , mặc dù ông đã được gửi về nhà từ World Cup 2002 sau khi một sự cố với HLV quốc gia Mick McCarthy .
Ông được bổ nhiệm làm HLV của Sunderland ngay sau khi nghỉ hưu của mình như là một cầu thủ, và đưa câu lạc bộ từ vị trí thứ 23 tại giải vô địch Football League vào cuối tháng Tám để giành danh hiệu chia rẽ và thúc đẩy tăng đến Premier League. Đến Keane được xem như chất xúc tác cho sự phục hồi của Sunderland Ông quản lý để giữ cho Sunderland từ xuống hạng trong mùa giải 2007-08 , nhưng trong mùa giải thứ hai của mình như một người quản lý trên chuyến bay rời vị trí của mình với Sunderland trong khu vực xuống hạng . . trong tháng Tư năm 2009 , ông được bổ nhiệm làm HLV của Ipswich Town, nhưng đã bị sa thải sau 20 tháng vào tháng Giêng 2011 với 19 câu lạc bộ ở giải vô địch . tháng 11 năm 2013 ông được bổ nhiệm làm trợ lý của nước Cộng hòa Ireland Martin O'Neill .
 
T

thanhhung2805

Brian McClair
images
Brian John McClair (sinh ngày 08 Tháng 12 năm 1963, Bellshill) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Scotland và là giám đốc của học viện thanh thiếu niên tại Premier League Manchester United.
Là một cầu thủ ông là một tiền đạo 1980-1998, đáng chú ý của ông chính tả 11 năm gần ở Manchester United, cũng như nhiệm kỳ quan trọng ở Scotland câu lạc bộ Celtic và Motherwell. Ở Motherwell, ông kết hợp bóng đá với việc nghiên cứu toán học tại Đại học Glasgow Ông được mệnh danh là "Choccy", như tên cuối cùng của ông vần điệu với món "Chocolate Eclair".
Sự nghiệp tại CLB

Manchester United
McClair được nhớ nhiều nhất , tuy nhiên , cho thời gian của mình tại Manchester United . Ông gia nhập chúng vào tháng Bảy năm 1987. Lệ phí chuyển nhượng £ 850,000 cuối cùng đã được thiết lập bởi một bảng điều khiển tòa án chuyển giao do một tranh chấp giữa Manchester United và Celtic hơn những gì lệ phí phải được - Celtic muốn ban đầu 2 triệu bảng cho anh ta, một khoản phí đó sẽ khiến anh trở thành cầu thủ đắt giá nhất thời gian đã ký hợp đồng với bất kỳ câu lạc bộ của Anh , trong khi Manchester United đã được cung cấp chỉ £ 400.000 .
Trong 11 năm tại Old Trafford , ông đã thực hiện tổng cộng 471 trận và ghi 127 bàn thắng trong mọi giải đấu . Trong những năm sau đó, khi cơ hội đội bóng đầu tiên của mình đã giảm , McClair đã trở thành phần nào của một anh hùng đình đám ở Manchester United do ông Nhật ký của Choccy được công bố trên tạp chí chính thức Kỳ Manchester .
Trong mùa giải đầu tiên cho Manchester United anh ghi 24 bàn thắng , trở thành Manchester đầu tiên cầu thủ United vượt qua 20 bàn thắng trong một mùa giải kể từ khi George Best trong mùa giải 1967-68 . Mục tiêu đầu tiên của anh cho Manchester United đến trong game thứ ba của mùa giải, một chiến thắng nhà 2-0 trước Watford . Anh ghi bàn trong trận đấu tiếp theo , một 3-1 đi giành chiến thắng trên Charlton Athletic . Anh ghi một cú đúp trong 4 -2 đi trước Sheffield Wednesday trên 10 tháng 10 năm 1987 , và một đôi trong chiến thắng cuối tháng mười hai trên đương kim vô địch Everton . Ông đặt thêm đôi trước Sheffield Wednesday trong các trò chơi trở lại tháng tại Old Trafford , và ghi một hat- trick vào lưới Derby County vào đầu tháng tư . trong hai trận đấu cuối cùng của mùa giải ( gặp Portsmouth và Wimbledon) ông quản lý thêm hai niềng răng . Chỉ có John Aldridge Liverpool đã thành công hạng Nhất hơn mục tiêu của mùa giải . McClair quản lý tổng cộng 31 bàn thắng trên mọi mặt trận , nhưng một hình phạt cuối bỏ lỡ trong vòng thứ năm của FA Cup với Arsenal có nghĩa là Manchester United mất tie 2-1 và ông đã bị từ chối cơ hội của bạc cũng như xây dựng vào các mục tiêu kiểm đếm đã rất ấn tượng của mình.
1988-1989 là một mùa giải cố gắng cho United sau khi sự tiến bộ tuyệt vời của mùa giải 1987-88. Sau một mùa giải chơi cùng với Peter Davenport, McClair bây giờ thấy mình kết hợp với trở về anh hùng Mark Hughes ( trở lại Manchester United sau hai năm ở nước ngoài ) và nhiều hơn dự kiến ​​của quan hệ đối tác mới được thành lập . Vào cuối tháng mười một, McClair đã ghi được hai lần trong các giải đấu và Hughes đã sút tung lưới tám lần , và Manchester United là bảng giữa sau một trong tám trận hòa và một thất bại . Kết quả cải thiện trong vài tháng tới như Kỳ len lỏi đến rìa của thách thức danh hiệu , nhưng đã giảm đi trong quý cuối cùng của mùa giải khi Manchester United kết thúc 11 . McClair và Hughes cả quản lý 16 bàn thắng trên mọi mặt trận , với Hughes là cầu thủ ghi bàn hàng đầu trong các giải đấu với 14 bàn thắng trái ngược với McClair 10.
Ông đã ở phía bên chiến thắng như Manchester United giành chiến thắng 1-0 trước Crystal Palace trong năm 1990 FA Cup lại cuối cùng tại sân vận động Wembley vào ngày 17 tháng năm 1990 , năm ngày sau khi vẽ 3-3 trong trận đấu đầu tiên . [ 35 ] Trong các giải đấu , Tuy nhiên , nó đã được một thời gian đáng thất vọng cho McClair như anh chỉ ghi được năm bàn thắng và Manchester United kết thúc 13 - kết thúc thấp nhất của họ kể từ khi họ bị xuống hạng từ chuyến bay đầu 16 năm trước đó . Bây giờ ông đã phải đối mặt với sự cạnh tranh từ rất hứa hẹn tiền đạo trẻ Mark Robins , người đã ghi 10 bàn trong 23 trận đội bóng đầu tiên mùa giải .
Tuy nhiên ông đã ghi được bàn thắng cho Manchester United trong năm 1991 UEFA Super Cup với Red Star Belgrade , mà sau đó một phần của mình trong cúp vô địch châu Âu của họ trước Barcelona .McClair đã giành chiến thắng tại cuộc chiến để giữ vị trí của mình trong đội hình khi ông khám phá liên lạc ghi bàn của mình và Mark Robins đã được đang vật lộn để có được vào đội.
Tháng Mười năm 1990 , McClair đã tham gia vào tranh cãi khi trong phản ứng đối với một thách thức cuối ông nhiều lần đá Nigel Winterburn của Arsenal ở phía sau khi anh nằm nghiêng trên mặt đất , gây ra một cuộc ẩu đả 21 người đàn ông . Manchester United đã có một điểm trừ cho tập phim này , và Arsenal ( người sau này là giải đấu vô địch mùa giải đó ) có hai điểm neo đậu .
Trong mùa giải 1991-1992 , McClair ghi bàn duy nhất ở giải Cup sau trận gặp Nottingham Forest năm 1992 tại Wembley, mặc dù ông đã bỏ lỡ huy chương danh hiệu người chiến thắng của giải đấu như sự thiếu hụt của United trong những mục tiêu trong nửa thứ hai của chi phí mùa chúng chức vô địch, giành được bởi Leeds United . Alex Ferguson sau đó đã làm hồ sơ dự thầu không thành công cho tiền đạo David Hirst và Alan Shearer , làm dấy lên suy đoán rằng một trong hai McClair hay Mark Hughes sẽ buộc phải ra khỏi đội đầu tiên của bản hợp đồng mới , nhưng cuối cùng tiền đạo mới ký là Dion Dublin, người đã được mua như dự phòng cho McClair và Hughes .
Đã là tiền đạo chính của Manchester United trong mùa giải đầu tiên , và sau đó hợp tác Mark Hughes khi người xứ Wales trở về từ Barcelona , McClair đã được chuyển sang một vai trò tiền vệ trung tâm khi Eric Cantona gia nhập United vào tháng Mười năm 1992, nạn nhân của vị trí này là cựu chiến binh Bryan Robson , người từ thời điểm này trở đi đã được chủ yếu được sử dụng để thay thế.
Khi Roy Keane đã được ký kết vào mùa hè sau , cơ hội đội McClair đã trở thành ngày càng hạn chế. Ông đã làm, tuy nhiên , quản lý khác Cup xuất hiện cuối cùng và có một bàn trên sân Wembley , vào sân từ băng ghế dự bị để ghi bàn thắng thứ tư của Manchester United khi họ đánh bại Chelsea 4-0 trong trận chung kết FA Cup năm 1994. Ông hiếm khi rời ra khỏi đội hình , thường đến vào sân để chơi ở hàng tiền vệ hoặc tấn công . Trong mùa giải 1993-94, mùa giải đầu tiên mà ông đã không còn được coi là một đội bóng regualar đầu tiên , ông đã xuất hiện trong 26 trận (mặc dù bắt đầu chỉ 12 trong số đó ) và ghi được một bàn thắng , mặc dù ông quản lý tổng cộng sáu bàn thắng trong tất cả các cuộc thi từ 38 trận ( 19 bắt đầu , 19 như là một thay thế ) . Ông đã có một chiến dịch nhiều hoạt động hơn trong năm 1994-95 , chơi trong tất cả nhưng hai trong số những trò chơi 42 giải đấu, và ghi được năm bàn thắng . Tổng cộng, anh đã chơi 53 trận ở mọi giải đấu và ghi tám bàn .
Khi số lượng đội hình đã được giới thiệu tại Premier League cho mùa giải thứ hai của mình trong mùa giải 1993-94, McClair đã được ban hành kèm theo 9 chiếc áo đó đã truyền thống của mình trong những ngày 1-11 áo số . Tuy nhiên , con số này đã đến Andy Cole vào lúc bắt đầu của mùa giải 1996-97 , sau đó McClair mặc chiếc áo số 13 .
Mặc dù không thường xuyên xuất hiện nhóm đầu tiên của mình , McClair bầu ở lại Manchester United như một cầu thủ đội , cung cấp bìa đáng tin cậy ở hàng tiền vệ và tấn công và làm hơn 40 lần ra sân ( trong mười đầu tiên hoặc thay thế ) trong năm 1994-95 . Anh vẫn là vận tải đường bộ theo năm 1996-97 , và vào ngày đầu tiên của mùa giải đó, McClair đã được ghi với sự trợ giúp cho cú sút của David Beckham từ dòng nửa chừng với Wimbledon. McClair đã có một bàn tay trong một đáng nhớ Mục tiêu mùa giải , giúp Eric Cantona trong mục tiêu ghi bàn nổi tiếng của ông trên 21 Tháng Mười Hai năm 1996 với Sunderland tại Old Trafford. Ngày 15 Tháng 4 năm 1997 một đám đông hơn 44.000 , trong đó khoảng 10.000 người ủng hộ Celtic , tham dự trò chơi lời chứng thực McClair chống lại câu lạc bộ cũ của mình Celtic tại Old Trafford .
Anh ghi tổng cộng 127 bàn thắng cho Manchester United , cuối cùng hai đến với Coventry City trong một giải đấu giành chiến thắng 4-0 trên ngày 22 Tháng 11 năm 1995 , mặc dù ông đã thực hiện khoảng 60 lần ra sân đội đầu tiên trong vòng hai năm rưỡi ( chủ yếu là thay thế ) .
.
 
T

thanhhung2805

George Best​
George Best

Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ George Best
Ngày sinh 22 tháng 5, 1946
Nơi sinh Belfast, Bắc Ireland
Ngày mất 25 tháng 11, 2005 (59 tuổi)
Nơi mất Luân Đôn, Anh
Chiều cao 5 ft 9 in (1,75 m)
Vị trí Tiền vệ cánh
Tiền vệ công
CLB trẻ
1961–1963 Manchester United
CLB chuyên nghiệp*
Năm CLB ST† (BT)†
1963–1974 Manchester United 361
1974 → Jewish Guild (Cho mượn) 5
1974 → Dunstable Town (Cho mượn) 0
1975 Stockport County 3
1975–1976 Cork Celtic 3
1976 Los Angeles Aztecs 23
1976–1978 Fulham 42
1977–1978 Los Angeles Aztecs 32
1978–1979 Fort Lauderdale Strikers 26
1979–1981 Hibernian 17
1980–1981 San Jose Earthquakes 56
1980–1981 San Jose Earthquakes 16
1982 Sea Bee 2
1982 Hong Kong Rangers 1
1983 Bournemouth 5
1983 Brisbane Lions 4
1983 Osborne Park Galeb 1
1983 Nuneaton Borough
1984 Tobermore United 1
Tổng cộng 579
Đội tuyển quốc gia
1964–1977 Bắc Ireland 37
* Chỉ tính số trận và số bàn thắng được ghi ở giải Vô địch quốc gia.
† Số trận khoác áo (số bàn thắng).
George Best (22 tháng 5 năm 1946 - 25 tháng 11 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá người Bắc Ireland, nổi tiếng với quãng thời gian chơi cho CLB Manchester United. Ông chơi ở vị trí tiền vệ cánh, là cầu thủ sở hữu tốc độ, kĩ thuật, thăng bằng, khả năng tạo khoảng trống, sút tốt hai chân, khả năng ghi bàn và đánh lừa hậu vệ đối phương. Năm 1968, ông giành chức vô địch châu Âu với Manchester United đồng thời giành danh hiệu Quả bóng vàng châu Âu cùng năm. Khi khỏe mạnh, ông luôn là sự lựa chọn của đội tuyển Bắc Ireland, dù chưa một lần dẫn dắt đội đến một kỳ World Cup nào.
Năm 1999, ông được bầu đứng thứ 11, sau Marco Van Basten, trong cuộc bầu chọn cầu thủ châu Âu xuất sắc nhất thế kỷ tổ chức bởi IFFHS. Best cũng được bầu ở vị trí thứ 16, sau Lothar Matthäus, trong cuộc bầu chọn cầu thủ xuất sắc nhất thế kỷ. Pelé bầu ông là một trong 125 huyền thoại bóng đá sống của thế kỷ năm 2004 (xem FIFA 100). Ông được xếp thứ 8 trong Danh sách 100 cầu thủ hay nhất thế giới thế kỷ 20 của World Soccer. Tại quê nhà Bắc Ireland, sự ngưỡng mộ của người dân dành cho ông được thể hiện qua câu chơi chữ: "Maradona good; Pelé better; George Best" (Maradona giỏi, Pelé giỏi hơn, George giỏi nhất (Best)).
Best là một trong những cầu thủ ngôi sao đầu tiên trong bóng đá, tuy nhiên cuộc sống phóng túng quá mức đã lôi ông tới với rượu, thứ đã rút ngắn sự nghiệp thi đấu của Best và cũng là thứ đã dẫn đến cái chết của ông ở tuổi 59. Nguyên nhân cái chết của Best là do ảnh hưởng của thận, do sốc thuốc. Tạp chí GQ bầu ông là một trong những người đàn ông phong cách nhất trong năm mươi năm qua. Khoảng 100.000 người đã có mặt trong đám tang của ông tại quê hương Belfast.
Vào khoảng năm 1975, ông được cho là có dính líu tình cảm với Jane Felix Browne, vợ thứ hai của Omar Osama bin Laden, con trai của trùm khủng bố Osama bin Laden.
Ngày 25/11/2005, Best qua đời tại London vì bệnh xơ gan
 
Top Bottom