9
9X_conduongtoidi


Từ Newton đến Einstein
[09/09/2006]
Trí tuệ con người không chấp nhận hỗn độn và cố gắng thấu hiểu các trật tự của thiên nhiên dưới hình thức các quy luật.Tuy nhiên, không phải con người có thể xác định ngay được các quy luật khách quan. Đôi khi, người ta tin vào quy luật ngay cả khi nó không hề có, như thời trung cổ đã truyền bá “quy luật” hễ sao chổi xuất hiện là có biến động lớn ở cõi nhân thế. Các quy luật khách quan của khoa học được xác lập nhờ vào tính hoài nghi của con người giúp ngăn ngừa những kết luận thiếu chín chắn.
Từ thời Hy Lạp cổ đại con người đã đạt được nhiều tri thức khoa học quan trọng, đặc biệt là toán học. Tuy nhiên, chỉ đến thế kỷ 16 và 17 của thời kỳ Phục Hưng các cuộc tranh cãi triết lý và khoa học mới chuyển dần từ các tu viện về các trường đại học và thậm chí cả các phòng khách salon. Thời kỳ này có hai tên tuổi lớn với hai tuyên ngôn về phương pháp nghiên cứu khoa học được giải thoát khỏi các giả định tùy tiện hay mê tín, đó là Francis Bacon (1561-1626) và René Descartes (1596-1650). Bacon nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các sự kiện quan sát như là khởi điểm của mọi khoa học và lý thuyết chỉ đáng tin cậy trong chừng mực được dẫn xuất ra từ những sự kiện ấy. Một cách lý tưởng thì nhà khoa học phải đưa ra được một bản liệt kê toàn diện tất cả các thí dụ theo lối kinh nghiệm luận của hiện tượng được khảo sát' trước khi đồng nhất sự biểu thị của chúng với "hình thức" tự nhiên của chúng. Dù rằng Bacon không ninh định được đặc tính chính xác của sự trừu tượng hóa được hàm nghĩa ở đây là thế nào, nhưng người ta vẫn coi ông là người đã đòi hỏi rằng các đề xuất lý thuyết là chính đáng) chỉ khi nào chúng được suy diễn ra một cách hình thức từ một liệt kê như vậy. Ngược lại với "phép quy nạp Bacon", Descartes lại chú trọng đến việc xây dựng các hệ thống diễn dịch (deductive systems) chặt chẽ và không chứa đựng mâu thuẫn nội tại cho lý thuyết, trong đó các lập luận được theo đuổi với sự an toàn giống như trong hình học Euchde. Trong khi Bacon phản ứng chống lại sự tin tưởng kinh viện dựa trên uy tín của Anstotle bằng cách kêu gọi quay về với trải nghiệm trực tiếp, thì Descartẹs phản ứng chống lại chủ nghĩa hoài nghi thời đó bằng cách chỉ vào toán học là cái mà mọi tri thức chắc chắn về tự nhiên có thể dựa vào. Ông cho rằng nhiệm vụ của vật lý thế kỷ 17 là mở rộng cấu trúc trí tuệ kiểu Euchde bằng cách đưa thêm các tiên đề, định nghĩa và giả thiết mang tính hiển nhiên tự thân (self-evident) rồi từ đó suy ra các hệ quả. ông cũng tin rằng các hiện tượng tự với vật lý học cũng có thể khảo sát bằng một hệ thống chặt chẽ giống như vậy.
Xét về mặt triết học ta có thể xem Bacon biểu lộ xu hướng của phái duy nghiệm (Empiricism), còn Descartes đại diện cho phái duy lý (Rahonalism). Các luận chứng của Bacon và Descartes mang tính tuyên ngôn: cả hai đều đưa ra cương lĩnh trí tuệ cho nền khoa học tự nhiên đang còn phải xây dựng. Quả thực là trong vòng 150 năm kế tiếp, Galileo, Newton và nhiều người khác nữa mới thực sự đã kiến tạo ra nền khoa học vật lý mới.
Nguyên lý của Newton Tác phẩm "Nguyên lý toán học của vật lý" (Philosophiae aturnhs Principia Mathematica) của Newtonra đời năm 16871à một kiệt tác khoa học có tầm an trọng rất lớn. Tuy nhiên, cũng lại là một sự thật, răng hình thức của lý thuyết mới ấy không hoàn toàn giống hẳn một khuôn mẫu nào mà hai ông bacon và Descartes đã tiên đoán . Mở mặt là có rất ít kiểu quy nạp Bacon trong các quy trình trí tuệ của Newton. Có nhà khoa học như Robert Boyle (một trong những người sáng lập ra môn hóa học hiện đại) đã cố thử áp dụng các châm ngôn của Bacon, nhưng lại thấy chúng cản trở hơn là bổ ích cho việc đúc kết thành các khái niệm mang tính soi sáng.Mặt khác là tuy Newton chịu ảnh hưởng rất mạnh bởi thí dụ toán học của Descartes, nhưng Newton cũng chỉ theo châm ngôn phương pháp luận luận của ông này đến một điểm nhất định. Đúng là Newtonđã đưa thêm các tiên đề, định nghĩa và giả thiết mang tính động lực học vầo lý thuyết chuyển động và lực hấp dẫn của mình theo chỉ dẫn của Descartes, nhưng Newton không hề có kỳ vọng chứng tỏ các mặc định bổ xung ấy là duy nhất hiển nhiên và đúng đắn. Thay vào đó, Newtoncoi chúng là những mặc định để làm việc, được chấp nhận như là giả thuyết trong chừng mực các hệ quả của chúng soi sáng được chính xác đến chi tiết cho các hiện tượng vẫn còn chưa được giải thích. Rõ ràng là những mặc định như thế không đáp ứng được tham vọng "Diễn dịch" của Descartes một cách đầy đủ. Thí dụ như Newtonchưa từng biết đến hiện tượng nào chứng tỏ co các cơ chế hút hấp dẫn Và không hề bận tâm về việc bịa đặt" ra giả thuyết như thế (trái ngược với giai thoại quả táo rơi mà nhiều người vẫn lầm tưởng là sự thực lịch sử) .
Như vậy trên thực tế Newton gần như vô tình đã sáng tạo nên cái mà các triết gia về khoa học từ đó gọi là phương pháp diễn dịch-giả thuyết (hypothefico-deductive method): hình thức thích đáng của lý thuyết được xem như một hệ thống toán học, trong đó các hiện tượng kinh nghiệm luận cá biệt được giải thích bằng cách trên hệ chúng ngược trở lại theo cách diễn dịch với một số ít các nguyên lý tổng quát và các định nghĩa. Phương pháp này bỏ qua yêu cầu của Descartes là các nguyên lý và định nghĩa ấy bản thân chúng có thể được thiết lập một cách thuyết phục và dứt khoát trước khi tra vấn xem các hệ quả của chúng soi sáng thế nào lên các vấn đề khoa học và các hiện tượng mang tính thời sự.
Các nhà triết học lên tiếng từ năm 1700 các cuộc tranh cãi về khoa học luận chuyển sang hướng khác. Thoạt tiên là những đả kích nhằm vào phương pháp của Newton trong đó phải kể đến các tên tuổi như Gottfried Leibniz (1646- 1716) và George Berkeley (1685-1753), nhưng kể từ năm 1740 thì hầu như không còn ai nghi ngờ sự đúng đắn trong quan điềm của Newton nữa, vì cơ học Newton phù hợp kỳ diệu với các quan sát thực nghiệm.
Câu hỏi bây giờ trở thành: làm sao mà Newton lại làm được điều đó?Trong bối cảnh ấy tác phẩm "Phê phán lý tính thuần túy" của Immanuel Kant xuất bản lần đầu vào năm 1781 đã phần nào trả lời cho câu hỏi đó. Trong tác phẩm này Kant đã khảo sát bản thân lý tính của con người ông bác bỏ thuyết duy nghiệm vì cho rằng tuy mọi nhận thức bắt đầu từ kinh nghiệm, nhưng không phải tất cả đều bắt nguồn từ kinh nghiệm. Ông chứng minh rằng có những điều kiện có giá trị phổ quát độc lập với kinh nghiệm làm cơ sở cho kinh nghiệm. Khả năng thấu hiểu của con người có thể dẫn đến sản sinh ra tri thức hiệu quả, chỉ trong chừng mực bản thân giác tính ban đầu có cấu trúc khái niệm. ông cũng phản đối phái duy lý. Mặc dù ông thừa nhận có lý tính thuần túy độc lập với kinh nghiệm, nhưng cho rằng không thể nhận thức được thực tại bằng tư duy đơn thuần Kant cho rằng con người ban tặng một cấu trúc cho tri thức của mình thông qua các khái niệm và phạm trù mà cơn người sử dụng cho việc tạo lập và diễn giải trải nghiệm. Kant và những người thời đó đều tin chắc hình học Euchde và cơ học Newton là các hệ thống toán học và vật lý hoàn bị và duy nhất đúng, nếu như không phải là chân lý toán học cuối cùng vế tự nhiên . Niềm tin ấy thực tế kẻo dài cho đến cuối thế kỷ 19. Hình học Euchde và cơ học Newtonluôn là khuôn mẫu cho các lĩnh vực nghiên cứu tự nhiên khác. Lý thuyết điện từ Maxwen Và Vật lý thống kê đều được xây dựng trong tinh than đó và cùng với cơ học Newton đã tạo dựng nên tòa lâu đài vật lý cổ điển.
Theo Tia sáng
Phucnv87
[09/09/2006]
Trí tuệ con người không chấp nhận hỗn độn và cố gắng thấu hiểu các trật tự của thiên nhiên dưới hình thức các quy luật.Tuy nhiên, không phải con người có thể xác định ngay được các quy luật khách quan. Đôi khi, người ta tin vào quy luật ngay cả khi nó không hề có, như thời trung cổ đã truyền bá “quy luật” hễ sao chổi xuất hiện là có biến động lớn ở cõi nhân thế. Các quy luật khách quan của khoa học được xác lập nhờ vào tính hoài nghi của con người giúp ngăn ngừa những kết luận thiếu chín chắn.
Từ thời Hy Lạp cổ đại con người đã đạt được nhiều tri thức khoa học quan trọng, đặc biệt là toán học. Tuy nhiên, chỉ đến thế kỷ 16 và 17 của thời kỳ Phục Hưng các cuộc tranh cãi triết lý và khoa học mới chuyển dần từ các tu viện về các trường đại học và thậm chí cả các phòng khách salon. Thời kỳ này có hai tên tuổi lớn với hai tuyên ngôn về phương pháp nghiên cứu khoa học được giải thoát khỏi các giả định tùy tiện hay mê tín, đó là Francis Bacon (1561-1626) và René Descartes (1596-1650). Bacon nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các sự kiện quan sát như là khởi điểm của mọi khoa học và lý thuyết chỉ đáng tin cậy trong chừng mực được dẫn xuất ra từ những sự kiện ấy. Một cách lý tưởng thì nhà khoa học phải đưa ra được một bản liệt kê toàn diện tất cả các thí dụ theo lối kinh nghiệm luận của hiện tượng được khảo sát' trước khi đồng nhất sự biểu thị của chúng với "hình thức" tự nhiên của chúng. Dù rằng Bacon không ninh định được đặc tính chính xác của sự trừu tượng hóa được hàm nghĩa ở đây là thế nào, nhưng người ta vẫn coi ông là người đã đòi hỏi rằng các đề xuất lý thuyết là chính đáng) chỉ khi nào chúng được suy diễn ra một cách hình thức từ một liệt kê như vậy. Ngược lại với "phép quy nạp Bacon", Descartes lại chú trọng đến việc xây dựng các hệ thống diễn dịch (deductive systems) chặt chẽ và không chứa đựng mâu thuẫn nội tại cho lý thuyết, trong đó các lập luận được theo đuổi với sự an toàn giống như trong hình học Euchde. Trong khi Bacon phản ứng chống lại sự tin tưởng kinh viện dựa trên uy tín của Anstotle bằng cách kêu gọi quay về với trải nghiệm trực tiếp, thì Descartẹs phản ứng chống lại chủ nghĩa hoài nghi thời đó bằng cách chỉ vào toán học là cái mà mọi tri thức chắc chắn về tự nhiên có thể dựa vào. Ông cho rằng nhiệm vụ của vật lý thế kỷ 17 là mở rộng cấu trúc trí tuệ kiểu Euchde bằng cách đưa thêm các tiên đề, định nghĩa và giả thiết mang tính hiển nhiên tự thân (self-evident) rồi từ đó suy ra các hệ quả. ông cũng tin rằng các hiện tượng tự với vật lý học cũng có thể khảo sát bằng một hệ thống chặt chẽ giống như vậy.
Xét về mặt triết học ta có thể xem Bacon biểu lộ xu hướng của phái duy nghiệm (Empiricism), còn Descartes đại diện cho phái duy lý (Rahonalism). Các luận chứng của Bacon và Descartes mang tính tuyên ngôn: cả hai đều đưa ra cương lĩnh trí tuệ cho nền khoa học tự nhiên đang còn phải xây dựng. Quả thực là trong vòng 150 năm kế tiếp, Galileo, Newton và nhiều người khác nữa mới thực sự đã kiến tạo ra nền khoa học vật lý mới.
Nguyên lý của Newton Tác phẩm "Nguyên lý toán học của vật lý" (Philosophiae aturnhs Principia Mathematica) của Newtonra đời năm 16871à một kiệt tác khoa học có tầm an trọng rất lớn. Tuy nhiên, cũng lại là một sự thật, răng hình thức của lý thuyết mới ấy không hoàn toàn giống hẳn một khuôn mẫu nào mà hai ông bacon và Descartes đã tiên đoán . Mở mặt là có rất ít kiểu quy nạp Bacon trong các quy trình trí tuệ của Newton. Có nhà khoa học như Robert Boyle (một trong những người sáng lập ra môn hóa học hiện đại) đã cố thử áp dụng các châm ngôn của Bacon, nhưng lại thấy chúng cản trở hơn là bổ ích cho việc đúc kết thành các khái niệm mang tính soi sáng.Mặt khác là tuy Newton chịu ảnh hưởng rất mạnh bởi thí dụ toán học của Descartes, nhưng Newton cũng chỉ theo châm ngôn phương pháp luận luận của ông này đến một điểm nhất định. Đúng là Newtonđã đưa thêm các tiên đề, định nghĩa và giả thiết mang tính động lực học vầo lý thuyết chuyển động và lực hấp dẫn của mình theo chỉ dẫn của Descartes, nhưng Newton không hề có kỳ vọng chứng tỏ các mặc định bổ xung ấy là duy nhất hiển nhiên và đúng đắn. Thay vào đó, Newtoncoi chúng là những mặc định để làm việc, được chấp nhận như là giả thuyết trong chừng mực các hệ quả của chúng soi sáng được chính xác đến chi tiết cho các hiện tượng vẫn còn chưa được giải thích. Rõ ràng là những mặc định như thế không đáp ứng được tham vọng "Diễn dịch" của Descartes một cách đầy đủ. Thí dụ như Newtonchưa từng biết đến hiện tượng nào chứng tỏ co các cơ chế hút hấp dẫn Và không hề bận tâm về việc bịa đặt" ra giả thuyết như thế (trái ngược với giai thoại quả táo rơi mà nhiều người vẫn lầm tưởng là sự thực lịch sử) .
Như vậy trên thực tế Newton gần như vô tình đã sáng tạo nên cái mà các triết gia về khoa học từ đó gọi là phương pháp diễn dịch-giả thuyết (hypothefico-deductive method): hình thức thích đáng của lý thuyết được xem như một hệ thống toán học, trong đó các hiện tượng kinh nghiệm luận cá biệt được giải thích bằng cách trên hệ chúng ngược trở lại theo cách diễn dịch với một số ít các nguyên lý tổng quát và các định nghĩa. Phương pháp này bỏ qua yêu cầu của Descartes là các nguyên lý và định nghĩa ấy bản thân chúng có thể được thiết lập một cách thuyết phục và dứt khoát trước khi tra vấn xem các hệ quả của chúng soi sáng thế nào lên các vấn đề khoa học và các hiện tượng mang tính thời sự.
Các nhà triết học lên tiếng từ năm 1700 các cuộc tranh cãi về khoa học luận chuyển sang hướng khác. Thoạt tiên là những đả kích nhằm vào phương pháp của Newton trong đó phải kể đến các tên tuổi như Gottfried Leibniz (1646- 1716) và George Berkeley (1685-1753), nhưng kể từ năm 1740 thì hầu như không còn ai nghi ngờ sự đúng đắn trong quan điềm của Newton nữa, vì cơ học Newton phù hợp kỳ diệu với các quan sát thực nghiệm.
Câu hỏi bây giờ trở thành: làm sao mà Newton lại làm được điều đó?Trong bối cảnh ấy tác phẩm "Phê phán lý tính thuần túy" của Immanuel Kant xuất bản lần đầu vào năm 1781 đã phần nào trả lời cho câu hỏi đó. Trong tác phẩm này Kant đã khảo sát bản thân lý tính của con người ông bác bỏ thuyết duy nghiệm vì cho rằng tuy mọi nhận thức bắt đầu từ kinh nghiệm, nhưng không phải tất cả đều bắt nguồn từ kinh nghiệm. Ông chứng minh rằng có những điều kiện có giá trị phổ quát độc lập với kinh nghiệm làm cơ sở cho kinh nghiệm. Khả năng thấu hiểu của con người có thể dẫn đến sản sinh ra tri thức hiệu quả, chỉ trong chừng mực bản thân giác tính ban đầu có cấu trúc khái niệm. ông cũng phản đối phái duy lý. Mặc dù ông thừa nhận có lý tính thuần túy độc lập với kinh nghiệm, nhưng cho rằng không thể nhận thức được thực tại bằng tư duy đơn thuần Kant cho rằng con người ban tặng một cấu trúc cho tri thức của mình thông qua các khái niệm và phạm trù mà cơn người sử dụng cho việc tạo lập và diễn giải trải nghiệm. Kant và những người thời đó đều tin chắc hình học Euchde và cơ học Newton là các hệ thống toán học và vật lý hoàn bị và duy nhất đúng, nếu như không phải là chân lý toán học cuối cùng vế tự nhiên . Niềm tin ấy thực tế kẻo dài cho đến cuối thế kỷ 19. Hình học Euchde và cơ học Newtonluôn là khuôn mẫu cho các lĩnh vực nghiên cứu tự nhiên khác. Lý thuyết điện từ Maxwen Và Vật lý thống kê đều được xây dựng trong tinh than đó và cùng với cơ học Newton đã tạo dựng nên tòa lâu đài vật lý cổ điển.
Theo Tia sáng
Phucnv87