Sử 10 Văn hóa Ấn Độ

P

phantom1996

H

huynh102

uhm câu này có trong sách mà pạn ảnh hưởng tới khu vực đông nam á
cón vì sao thì hình như do
_ quá trình trao đổi hàng hóa
_ các giáo sĩ truyền đạo từ ấn độ tới ĐNA truyền đạo
 
Last edited by a moderator:
C

conan99


2. Các tôn giáo Ấn Độ truyền bá tới Đông Nam Á bằng hai con đường, đường thuỷ và đường bộ: một đường từ bờ biển Coromandel Ấn Độ thông qua eo biển Malacca tới quần đảo Mã Lai; một con đường khác là từ Át Xan tiến vào Mianma, rồi từ Mianma truyền vào lưu vực sông Mê Công, đến Chân Lạp, Phù Nam và Chăm Pa.
Các sử liệu Trung Quốc cho biết, vào năm 192, thừa lúc nhà Hậu Hán suy yếu, một nhân vật tên là Khu Liên liền chiếm một phần đất của quận Nhật Nam của nhà Hán (vùng đất nằm giữa đèo Ngang và đèo Hải Vân) xưng vua trong một huyện cực nam là Tượng Lâm (phía nam Thừa Thiên hiện nay). Đó chính là Lâm Ấp hay Chăm Pa mà Tấn thư năm 280 xác định:” Vương quốc này, về phía nam giáp nước Phù Nam, gồm rất nhiều bộ lạc và liên kết với nhau, lợi dụng núi non hiểm trở, họ không chịu qui phục Trung Quốc”.1
2.1. Hiện nay, các nhà khoa học chưa tìm thấy một tư liệu nào nói về các nhà sư hay những tín đồ của các tôn giáo Chăm Pa đến truyền đạo. Nhưng những tư liệu khảo cổ học, các bia ký Chăm Pa cho thấy các tôn giáo Ấn Độ đã đến các vương triều Chăm Pa từ rất sớm, thậm chí cùng với việc lập quốc, xây dựng vương quyền kết hợp với thần quyền. Bằng chứng cho thấy niên đại sớm nhất mà Phật Giáo được truyền đến Chăm Pa là tấm bia kí Võ Cạnh được tìm thấy gần Kauthara ( Nha Trang). Tấm bia kí này có niên đại thế kỷ III-IV. Trên bia được ghi bằng chữ Phạn, viết theo kiểu chữ Amravati, có nội dung mang tư tưởng Phật giáo như: “Lokasaaya gatàgati”( sự chết hoặc sự phục sinh của thế giới này) hay: “ Prajànà Karuna”( từ bi trắc ẩn đối với chúng sanh). Theo Tiến sĩ Ngô Văn Doanh, tấm bia Võ Cạnh là bằng chứng vật chất đầu tiên và cũng là cổ nhất ở Đông Nam Á nói về Phật giáo.
Bằng chứng thứ hai về Phật giáo thời kỳ đầu ở Chăm Pa là pho tượng Phật bằng đồng có niên đại từ thế kỷ IV đến thế kỷ VI được tìm thấy ở khu di tích Phật giáo ở Đồng Dương. Đây là pho tượng Phật ”áo ướt” theo phong cách Ganhara nhưng tóc lại xoăn của Natura, phải chăng nó được nhập trực tiếp từ Ấn Độ hoặc từ Xrilanca.
Năm 1901, các nhà khảo cổ học ngời Pháp đã đào và phát hiện ở tu viện Phật Đồng Dương 229 pho tượng Phật. Hiện nay, những bức tượng và các mảng điêu khắc liên quan đến các dấu ấn Phật giáo được trưng bày ở bảo tàng Chăm Đà Nẵng. Các sử liệu Trung Quốc như “ Lương thư, Tuỳ thư, Nam tề thư…” đều ghi rằng Chăm Pa là một quốc gia Phật Thích Ca. Vào đời nhà Tuỳ, Lưu Phương đem quân từ Giao Châu đi đánh Lâm Ấp và chiếm được quốc đô. Lưu Phương vào thành bắt hết người Chăm, thu được 18 thần chủ bằng vàng thờ trong miếu, hơn 1300 bộ kinh Phật và nhiều sách viết bằng chữ Chiêm Bà1.
Các nhà khảo cổ học còn tìm thấy thân tuợng Phật ở Quảng Khê (Quảng Bình) và hình Phật trên phù điêu ở Phước Tịnh (Phú Yên), Thân tượng Phật ở Quảng Khê gắn với kiểu tượng Ấn Độ thế kỷ IV-VI ở Bagh II và Ajanta X. Còn phù điêu ở Phước Tịnh cũng thuộc thế kỷ IV-VI và gần với nghệ thuật tượng Phật Môn-Đvaravati.
2.2. Sử sách Trung Quốc cho thấy, ngay từ những thế kỷ đầu công nguyên, Bà la môn và Ấn Độ giáo đã vào Chăm Pa: “…ở Lâm Ba (Lâm ấp)- tức Chăm Pa, có một quốc vương tên là Bhadravarman đã cho xây một đền thần đầu tiên ở vùng núi Mỹ Sơn, hơn thế ông đã đem dâng hiến nó cho Siva - Bhadresvara”2.
Bà la môn giáo du nhập vào Chăm Pa rất sớm. Bốn bia ký bằng chữ Phạn có niên đại thế kỷ VII được tìm thấy ở Quảng Nam và Phú Yên ở triều đại Bhadresvaravamin, ba trong bốn bia ký đó ghi nhận lãnh địa dành cho vị thần này. Còn bia ký Mỹ sơn thì nói đến sự thành kính dành cho” Mahesvara, Uma, Brahma, Visnu…”
Những bia ký của ông vua Sambhuvarman thế kỷ VII nói về một lãnh địa thần của thần ( deva devalaya) nghĩa là của Bhadrésvara đã bị đốt phá và đã được vua khôi phục lại. Một bia ký khác nói về việc xây dựng một bàn thờ, một vedi (bệ thờ) bằng gạch bọc bạc và trên có đặt một bức tượng của Laksmi. Như vậy, cho đến thế kỷ thứ VII, Ấn Độ giáo mà chủ yếu là Siva giáo đã trở thành tôn giáo chính thống của các vua chúa Chăm Pa. Từ đây hình thành Thánh địa tôn giáo Mỹ Sơn (mà đến hôm nay được UNSCO công nhận là di sản văn hoá thế giới). Khu thánh địa tôn giáo Mỹ Sơn cũng bị đập phá nhiều lần. Theo “Tống thư”, năm 446, thứ sử Giao châu là Đàn Hoà Chi đã phá các đền đài, nấu các bức tượng vàng của Lâm Ấp thành thoi được 100 ngàn cân.
Từ thời Lâm Ấp đến Hoàn Vương, tức là từ thế kỷ II đến thế kỷ IX, đạo Bà la môn và Ấn Độ giáo luôn luôn được coi trọng. Các bia ký giai đoạn này đều chứng minh tầm quan trọng của Siva giáo: ” Đáng kính trọng hơn cả Brahma, Visnu, Indra. Surya, Asura, hơn những vị Bàlamôn và hơn những Rsi, các vua chúa”.
Tuy nhiên, trong suốt quá trình đó, Phật giáo luôn luôn tồn tại và có nhiều triều đại vẫn coi trọng Phật Giáo. Một bia ký có niên đại năm 829 của vị triều thần Bakul nói tới những tặng phẩm do Samata, vị thượng thư của triều đại Vikrantavarman, cúng cho vị thần ở nước Mandala và ghi chép về hai tăng viện Phật giáo (vihara) và hai đền thờ (deva kutidve) dâng cho Jinahay (tức Phật) và nói tới vai trò của những Phật tử mà tác giả bia ký gọi là Buddhanirvana.
2.3. Cũng như phật giáo và Siva giáo, Visnu giáo cũng đượcnhiều triều đại coi trọng. Ba bia ký (hai của Indravarman I và một của Vikrantavarman III) tìm thấy ở Phan Rang nói nhiều tới Visnu giáo. Nhà vua tự so sánh mình với Vikrama: “ Nâng quả đất lên bằng hai cánh tay” hoặc với Narayana: “ Nằm trên con rắn và nâng thế giới lên bằng bốn cánh tay”. Bia ký của Senapati Par, tổng đốc tỉnh Pandurangapura (vùng Phan Rang ngày nay) ngợi ca vị tổng đốc như một Narayana (Visnu) hiện thân, và cánh tay của ông được so với “con rắn nâng cái đĩa trái đất chìm đắm trong đại dương của thời đại Kali”.
Từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XV, lịch sử Chăm Pa có nhiều biến động lớn. Vào thế kỷ XIII, từ thời Jaya Harivarman I, bắt đầu cuộc chiến tranh giữa bắc và nam Chăm Pa, rồi tiếp đó là giữa Chăm Pa và Cămpuchia. Kết quả là Chăm Pa bị tàn phá nặng nề và trở thành một tỉnh của người Khơme từ năm 1203 đến 1220. Các bia ký thời kỳ này đều nói tới vai trò của Phật giáo Đại thừa ở Chăm Pa. Tuy nhiên, vua Suryavarmadeva mặc dù tuyên bố theo phật giáo đại thừa nhưng vẫn dâng hiến tặng vật cho vị thần Siva ở Mỹ Sơn là Bhadresvara, tặng vật của ông là 1 chiếc kosa có sáu mặt (Satmukha) nặng 510 thoi. Đây là một trong những kosa quan trọng và có giá trị nhất mà chúng ta được biết về văn minh cổ Chăm Pa.
2.4. Tóm lại, suốt hơn 12 thế kỷ tồn tại, Chăm Pa liên tục lấy những tôn giáo Ấn Độ làm tôn giáo của mình. Chăm Pa không kỳ thị tôn giáo mà tiếp thu rất nhiều giáo phái của Ấn Độ. Bao trùm lên suôt quá trình lịch sử tồn tại của mình là sự hỗn dung của các giáo phái Ấn Độ. Văn hoá và con người ChămPa tiếp nhận tất cả: Đức hiếu sinh, từ bi của phật giáo, tình thương của Visnu giáo và cả tính hung bạo quyền lực của Siva giáo.
Những tôn giáo Ấn Độ đã chi phối rất lớn đến đời sống văn hóa Chămpa. Những ảnh hưởng đó có thể tìm thấy ở trong đời sống tâm linh, phong tục tập quán, văn học nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc v.v… của người Chăm.
3. Cùng với sự tiếp thu tôn giáo, ngay từ khi ra đời nhà nước Lâm Ấp năm 192, Người Chăm đã tiếp thu những ảnh hưởng kèm theo tôn giáo là văn hoá, văn học, văn tự, phong tục và đặc biệt là nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc. Ảnh hưởng của nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc của Ấn Độ có thể là trực tiếp từ Ấn Độ, hoặc thông qua các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Nhưng khi tiếp thu những thành tựu văn minh Ấn Độ, người Chăm đã gắn với nghệ thuật bản địa, làm cho nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc Chăm Pa cổ trở nên độc đáo, có tính chất điển hình ở Đông Nam Á. Những đền tháp và các tác phẩm điêu khắc của người Chăm xưa đều tiếp thu của Ấn Độ, vừa có sự tiếp thu của Khơ me, của Giava và cả của Đại Việt.
Qua nghiên cứu những tư liệu tương đối phong phú về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc của Chăm Pa của các học giả người Pháp như P. Stéc ; J. Boátsơlie và đặc biệt là H. Păcmăngchiê, các ông đã chia bảng niên đại và phong cách nghệ thuật ra thành nhiều thời kỳ, kèm theo đó là các phong cách nghệ thuật. Một số nhà nghiên cứu Việt Nam đã đưa ra những khung niên đại và phong cách khác nhau. PGS Cao Xuân Phổ chia ra thành 6 mốc lớn. TS Ngô Văn Doanh trong cuốn Văn hoá Chăm Pa lại thống nhất theo cách chia của các học giả người Pháp đầu thế kỷ. H. Pácmăngchie chia lịch sử nghệ thuật cổ Chăm pa làm hai thời kỳ:
Thời kỳ thứ nhất: từ thế kỷ VII đến thế kỷ X
Thời kỳ thứ hai: Bắt đầu từ thế kỷ XI đến kết thúc nghệ thuật cổ Chăm Pa..
P.Stéc chia nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc cổ Chăm Pa ra các phong cách:
1- Phong cách Mỹ Sơn E1 (thế kỷ VIII đến đầu thế kỷ IX)
2- Phong cách Hoà Lai (nửa đầu thế kỷ IX)
3- Phong cách Đồng Dương (nửa hai thế kỷ IX - đầu thế kỷ X)
4- Phong cách Mỹ Sơn A1 (đầu thế kỷ X - đầu thế kỷ XI)
5- Phong cách chuyển tiếp từ Mỹ Sơn A1 sang phong cách Bình Định (nửa đầu thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XII
6- Phong cách Bình Định (giữa thế kỷ XII đến đầu thế kỷ XIV)
7- Phong cách muộn (đầu thế kỷ XIV đến thế kỷ XVI)
Nhờ cách chia này, P.Stéc vừa gộp được quá trình phát triển của nghệ thuật kiến trúc lẫn điêu khắc, đồng thời xâu chuỗi được niên đại và phong cách tương ứng với lịch trình phát triển nghệ thuật Chăm Pa cổ.
.
 
Top Bottom