Phân tích đoạn trích kiều ở lầu ngưng bích

H

hoan1793

Bài làm


Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân
Bâng khuâng nhớ Cụ thương thân nàng Kiều.
(Tố Hữu)


Hai câu thơ giúp ta hiểu được nghĩa tình đậm đà của nhà thơ Tố Hữu đối với thi hào Nguyễn Du và nỗi xót thương của ông đối với một nàng Kiều - hiện thân của một số phận bi đọa đày dưới thời phong kiến.

Ta có thể hiểu được phần nào nỗi đau đó, tâm trạng của Kiều qua tám câu thơ tuyệt vời sau:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đời một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi…


Có thể nói đoạn thơ là một bức tranh tâm tình đầy xúc động và là sự thể hiện bút pháp tài hoa của Nguyễn Du trong miêu tả nội tâm nhân vật. Những dòng thơ lúc bát tinh tế, sắc sảo đã bao năm tháng đi qua vẫn làm say đắm lòng người. Một mình giữa không gian mênh mông, Kiều thấy bơ vơ quá. Một nỗi nhớ quê hương bỗng trào lên da diết:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồn xa xa?


Câu thơ tả cảnh biển khơi mênh mang, trong ánh nắng đang dần lịm tắt. Cảnh biển bao la một cánh buồm chấp chơi gợi nỗi buồn day dứt quá. Cảnh buồm lẻ loi, nhỏ nhoi trong bao la như có như không: “thấp thoáng”, “xa xa”, những từ ấy không chỉ gợi hình, mà còn gợi tình, gợi cảm. Sự lẻ loi đơn chiếc, lênh đênh của cánh buồm hay là thân phận bơ vơ của Kiều nơi “góc bể chân trời” ?

Trời nước bao la, còn Kiều ở trong lầu Ngưng Bích - một cánh chim nhỏ nhoi trồng. Câu thơ của ông phảng phất phong cách diễn đàn của ca dao:

Chiều chiều ra đứng bờ sông
Muốn về quê mẹ mà không có đò.


Kiều đang đứng trước biển nhìn về phương trời xa đăm đắm khát khao nhưng vô cùng mệt mỏi: “Buồn trông…”. Âm điệu lời thơ buồn và có gì rã rời quá! Nỗi buồn ấy như nhân lên khi Kiều nhìn đoá hoa nổi trôi, bập bềnh vô định:

Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?


Thuyền cũng trôi trong vô định, hoa cũng trôi trong vô định, “Biết là về đâu”. Có gì như thân Kiều một mình lạc lõng trong mờ mịt chân mây. Đâu là quê nhà? Chẳng ai là thân nhân. Hình ảnh “hoa trôi man mác” gợi nỗi buồn đau xót. Đau xót cho một đoá hoa lìa cội, lìa cành nổi trôi trên sóng nước dập vùi. Nhìn hoa trôi Kiều liên tưởng đến thân mình. Kiều cũng đang nhắm mắt để mặc dòng đời xô đẩy. Hoa lìa cành, hoa héo hoa tàn. Kiều lìa cửa, lìa nhà, đời Kiều như cánh chim lạc bầy bay trong giông tố. Một ngày kia con chim không tổ kia có chết rũ bên đường? Hình ảnh "hoa trôi" gợi cảm và dễ làm rung động lòng người, bởi lẽ dân gian thường dùng hình ảnh "bèo dạt mây trôi" để nói về kiếp người trôi nổi, bập bềnh. Những câu ca dao ấy đã "phổ vào" hồn thơ của Nguyễn Du từ khi ông còn trong vòng tay của mẹ.

Đọc những câu thơ tiếp, ta càng thấy tâm trạng của Thuý Kiều. Xung quanh nàng, thiên nhiên cũng nhuốm một màu sắc buồn tẻ, héo tàn:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.


Vẫn âm điệu thơ buồn bởi vần bằng dàn trỉa, tạo cho ta cảm giác được cái nhìn mệt mỏi, chán chường của nhân vật trước cảnh vật mênh mông một màu buồn. Hình ảnh "nội cỏ rầu rầu" gợi cảm ở mộ Đạm Tiên. Có khác chăng chỉ là nơi đây không phải là một ngôi mộ cụ thể mà thôi. Màu "xanh xanh" làm cho cỏ cây không còn nét tươi sáng lại thêm vẻ "rầu rầu", làm cho sự sống càng thêm cạn kiệt, làm cho bức tranh phong cảnh héo tàn thêm.

Giữa bốn bề phong cảnh tẻ buồn ấy, Kiều chợt nghe, chợt thấy:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.


Âm điệu lời thơ trở nên dữ dội với những từ gợi thanh :"ầm ầm", "kêu". Hình ảnh những đợt sóng cuộc lên, trào tới, xô đẩy, cùng với tiếng rít gào của gió vang lên đe dọa đến hãi hùng. Kiều thấy "gió cuốn", nghe "sóng kêu" bỗng thấy kinh hoàng, hốt hoảng. Nỗi buồn, sự sợ hãi đã đưa Kiều vào tâm trạng não nề, hoảng hốt như kẻ bị bao vây, bị nhấn chìm, hoàn toàn bất lực. Kiều chới với như rơi vào vực thẳm. Những âm thanh đầy dự báo đã mách bảo với ta chặng đường đầy chông gai của Kiều ở phía trước.

Cả tám câu thơ đều "xoay tròn" trong nỗi buồn sợ của Kiều. Với phép điệp ngữ kiên hoàn "Buồn trông...", "Buồn trông..." các câu thơ không chỉ có âm điệu buồn, mà còn làm ta "chóng mặt" trước diễn biến tâm trạng của một con người bất hạnh - Kiều. Chọn được âm điệu thơ, lựa được từ ngữ và hình ảnh phù hợp với tâm trạng nhân vật, nhà thơ đã chứng tỏ sự thông cảm sâu sắc yêu thương Thuý Kiều biết bao!

Đoạn thơ với bút pháp tả cảnh ngụ tình tinh tế và hài hoà, thi sĩ Nguyễn Du đã để lại cho người đời một bức tranh tâm lí tình cảm đầy xúc động, mãi mãi làm "say lòng người".
 
H

hoan1793

Hai câu đầu ,nàng đang bị giam lỏng trong một lầu cao trơ trọi giữa trời đất ,Kiều như chỉ còn ở chung làm bạn với " non xa" ( núi xa )và " trăng gần " ( lầu cao nên trăng gần ).Đứng trong lầu cao nhìn ra xung quanh ,Kiều chỉ thấy " cát vàng cồn nọ " ( những cồn cát nhấp nhô ,bát ngát ) ," bụi hồng dặm kia " ( bụi hồng chỉ bụi sắc đỏ ,do gió thổi bốc lên ) cảnh thiên nhiên mêng mông ,vẳng lặng trơ trọi ,rợn ngợp ở lầu Ngưng Bích là để làm nỗi bậc tâm trạng ,nỗi buồn niềm cô đơn ,buồn tủi của nàng Kiều . Đây là một trong những câu thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc .Về thời gian ,Kiều chỉ biết sớm làm bạn với mây,khuya làm bạn với đèn , thức -ngủ một mình ,thui thủi triền miên ,ngao ngán và vô vọng ( bẽ bàng ) .Nàng không chỉ buồn về cảnh mà còn buồn về tình ,hai nỗi buồn ấy chia xé tâm can nàng ,nàng rơi vào cảnh cô đơn tuyệt đối .Nàng trơ trọi giữa không gian và thời gian mênh mông hoang vắng ,không một bóng người ,không có sự giao lưu giữa người với người .Ý thơ chuyển đổi rất linh hoạt : tả cảnh gắn với không gian cao rộng càng khiến cho cảnh mêng mang dàn trải .Tả tâm trạng lại gắn với thời gian .Thời gian dằng dặc ( mây sớm ,đèn khuya ) càng cho thấy tâm trạng chán nản ,buồn tủi của Kiều " Nửa tình nửa cảnh ,dường như cũng không còn phân biệt nữa .Tả cảnh ngụ tình rất tài hoa ,độc đáo đã khắc họa một bức tranh sinh động về ngoại cảnh và tâm cảnh ,trong đó nỗi lên tâm trạng bề bộn bao nỗi buồn đau ,chua xót ,lo sợ ,vô vọng ,góp phần tạo nên vẻ đẹp thủy chung ,hiếu thảo và nhân hậu ở Thúy Kiều ở các câu thơ sau ,nhất là ở tám câu cuối mới là chứng minh hùng hồn nhất và sáu câu đầu là tiền đề để có nguyên cớ nói lên Thúy Kiều là nhân hậu , hiếu thảo ,thủy chung .
 
G

ga_cha_pon9x

1.Cảm nhận chung:
_Trong thơ cổ điển, tả cảnh ngụ tình chính là miêu tả thế giới nột tâm của con người thông qua cảnh vật. Thế giới nội tâm của nàng Kiều trong đoạn trích này còn được Nguyễn Du miêu tả qua ngôn ngữ độc thoại độc đáo. Đọan trích có kết cấu, mức độ ngày càng tăng dần của tâm trạng nhân vật. Sáu dòng thơ đầu là hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều. Tám dòng thơ tiếp theo là nỗi nhớ Kim Trọng và cha mẹ. Và tám dòng thơ cuối là nỗi buồn đau, lo âu của Thúy Kiều nơi đất khách.

2.Phân tích:
(1).Cảnh ở lầu Ngưng Bích:
_Kiều ở lầu Ngưng Bích trong hoàn cảnh "khóa xuân". Hai chữ "khóa xuân" thật đẹp nhưng thực chất Kiều bị Tú bà giam lỏng.
_Kiều nhìn cảnh vật bằng cái nhìn tâm trạng. Nàng thấy trước mắt mình là những dãy núi và ánh trăng như ở chung trong vòm trời. Kiều trơ trọi một mình, nàng đối diện với thiên nhiên cao rộng. Cảnh thiên nhiên đẹp, nên thơ như một bức tranh nhưng có gì đó hoang vắng, xa xôi.
+Đưa mắt nhìn ra xung quanh, nàng chỉ thấy bốn bề bát ngát, một không gian bao la xa vời: không một bóng cây, không một mái nhà, không một bóng người.
+Cái mênh mông hoang vắng bốn bề rợn ngợp.
_Thiên nhiên vừa đối lập, vừa như hòa hợp với tâm trạng của Kiều. Sự hoang vắng của thiên nhiên càng làm cho Kiều cảm nhận sự cô đơn của mình.
_Trong khung cảnh ấy Kiều càng chiêm nghiệm thấm thía nỗi buồn, thấm thía hoàn cảnh của mình. Nàng thấy bẽ bàng, ngang trái, xót xa, tuổi hổ.
_Mỗi câu thơ là một cặp hình ảnh tương xứng: "Vẻ non xa - tấm trăng gần" mờ ảo, xa xôi ; "Cát vàng cồn nọ - bụi hồng dặm kia" tầng tầng, lớp lớp ; "Mây sớm - đèn khuya" vắng lặng, cô đơn, âm thầm. Tạo nên cảm giác vừa trùng lặp hình ảnh, vừa phân chia cảnh vật, qua đó thể hiện nội tâm của Kiều. Lòng nàng ngổn ngang trăm mối, nàng không biết được những gì đang chờ mình phía trước. Cảnh ấy, tình ấy như chia xé lòng Kiều.

(2).Nỗi nhớ:
a.Nỗi nhớ chàng Kim Trọng:
Với hình ảnh độc thoại nội tâm, Nguyễn Du đã thể hiện nỗi nhớ của Thúy Kiều thật sâu sắc. Trước hết là nỗi nhớ Kim Trọng.
_Nỗi nhớ chàng Kim được ghi bằng "tưởng". Tưởng là nhớ lại, là hình dung cảm thấy như cảnh ấy, người ấy đang hiện ra trước mắt. Trong tâm trí và trong trái tim nàng vẫn còn in đạm hình ảnh Kim Trọng trong đêm trăng thề hẹn. Vầng trăng trong đêm thề hẹn được ghi bằng chữ "Nguyệt" đó là vầng trăng của hoài niệm, vầng trăng của một thời còn tìm lại được bao giờ.
_Nhớ Kim Trọng, Kiều hình dung chàng đang ngày đem chờ mong tin tức của nàng một cách uổng công, vô ích. Điều đó làm cho nàng đau đớn, day dứt, thương nhớ không nguôi.
_Về mình, nàng nghĩ rằng dù bơ vơ một thân một mình, dù xa cách nơi chân trời góc bể, thì tấm lòng son sắt, thủy chung của nàng vẫn nguyên vẹn. Nghệ thuật ân dụ thật đặt sắc, gợi cảm.

b.Nhớ cha mẹ:
_Tả nỗi nhớ thương cha mẹ của Kiều, Nguyễn Du đã ghi bằng từ "xót" chỉ lòng thương rất thấm thía, sâu đậm. Nàng xót xa khi nghĩ đến cảnh cha mẹ ngày đêm tựa cửa, khắc khoải chờ mong nàng, được diễn tả qua thành ngữ "tựa cửa hôm mai" rất giàu sức gợi tả.
_"Biển cố quạt nồng ấp lạnh" cùng với câu nghi vấn dưới hình thức độc thoại, thể hiện sự lo lắng của Kiều. Nàng tự hỏi ai là người chăm sóc cha mẹ khi tuổi già, sức yếu.
_Trong đoạn thơ, miêu tả nỗi nhớ người thân của Thúy Kiều, Nguyễn Du đã vận dụng nhiều biển cố như: "tin sương", "quạt nồng ấp lạnh", "sân lai gốc tử" nhưng vẫn tụ nhiên và dễ hiểu. Qua đó, ta thấy được dù đang rất đau buồn nhưng Kiều vẫn nghĩ về người khác, lo lắng, xót thương cho người khác trước khi nghĩ đến mình.Nàng là một người tình chung thủy, một con người hiếu thảo với tấm lòng vị tha.
_Nguyễn Du đã ra ngòi bút bậc thầy về miêu tả tâm lí khi ông để cho nàng Kiều nhó Kim Trọng trước, nhớ cha mẹ sau. Trong hoàn cảnh của Kiều, nàng nhớ Kim Trọng trước là hợp lí, bởi vì đối với cha mẹ nàng đã hi sinh mối tình đầu, hi sinh sinh bản thân mình để cứu cha và em. Có thể nói rằng nàng đã đáp đền chữ hiếu.
"Bán mình đã động hiếu tâm đến trời"
<Nguyễn Du>
_Còn với Kim Trọng, Kiều bán mình và đã ra đi mà chưa nói một lời từ biệt. Nàng thấy mình như phụ bạc, như lỗi thề với Kim Trọng. Vì thế mà nàng day dứt, đau khổ. Quả thật, nhà thơ dường như đã hóa thân vào nhân vật để bày tỏ tâm trạng của nhân vật nên mới diễn tả chân thật và da diết như thế.

(3).Nỗi buồn của nàng Kiều:
_Sau nỗi nhớ là nỗi buồn tê tái, sự hoang mang và lo sợ triền miên. Đoạn thơ có bốn nét cảnh qua cái nhìn tâm trạng của Kiều. Mỗi nét cảnh bắt đầu bằng hai chữ "buồn trông" và gợi một nỗi buồn khác nhau.

a.Bức tranh đầu tiên:
_Trước mắt Kiều là không gian cửa bể, nhìn ra cái mênh mông của biển lớn và thời gian (chiều hôm) gợi nhớ nhà. Trên cái nền thời gian, không gian ấy là hình ảnh chiếc thuyền nhỏ nhoi giữa biển cả mênh mông chỉ thấy cánh buồm (thấp thoáng) lúc ẩn lúc hiện xa xôi, cách vời.
_Hình ảnh như gợi ra trong Kiều một hành trình lưu lạc mờ mịt không biết đâu là bến bờ. Hình ảnh ấy làm dâng lên trong Kiều một nỗi buồn da diết về quê nhà xa cách.

b.Bức tranh thứ hai:
_Nguyễn Du đã vận dụng khéo léo một hình ảnh rất gợi cảm: cánh hoa giữa dòng nước. Dòng nước kia phải chăng là cuộc đời mênh mông bất tận. Hoa là biểu tượng của cái đẹp của trời đất, nhưng rất mong manh nên cần được chăm sóc, nâng niu. Nhưng ở đây, cánh hoa đẹp kia lại bị dòng nước phũ phàng vùi dập. Phải chăng, cánh hoa kia như cuộc đời "hoa trôi bèo nổi" của Kiều, không biết dòng đời đầy sóng gió, cạm bẫy cuốn trôi về đâu. Không lo sợ cho thân phận lênh đênh vô định bị vùi dập, không biết cuộc đời mình sẽ ra sao, sẽ đi về đâu.

c.Bức tranh thứ ba:
_Một nội cỏ rầu rầu, buồn bã, bầm héo, ủ ê, không có sức sống trải dài từ chân mây đến mặt đất, nhuốm một màu xanh xanh nhợt nhạt, tê tái, xa xôi đến lạnh người. Đó không phải là màu xanh của sự sống, của niềm hi vọng.
_Từ láy "xanh xanh" vừa miêu tả sắc nhợt nhạt của cỏ, vừa thể hiện tâm trạng của Thúy Kiều. Không gian bao la, mênh mông, xanh xanh làm cho Kiều nghĩ đến cuộc sống tẻ nhạt, vô vị, không biết kéo dài đến bao giờ. Trong lòng nàng, không có một tia hi vọng mà là một nỗi chán chường, vô vọng, buồn nản.

d.Bức tranh thứ tư:
_Kiều nghe tiếng sóng ngay dưới chân mình, Kiều tưởng như mình không còn ngồi ở lầu Ngưng Bích nữa mà nàng đang ở giữa biển khơi đầy phong ba, bão tố.
_Tù láy tượng thanh "ầm ầm" được đưa ra đầu câu thơ, nhấn mạnh âm thanh dữ dội của tiếng sóng. Nó âm vang bên tai nàng, dâng lên gào thét trong lòng nàng. Âm thanh đó gây cho nàng nỗi khiếp sợ kinh hoàng. Kiều linh cảm những tai họa khủng khiếp sẽ ập đến đời nàng, khác nào cơn sóng kia chực chờ cuốn trôi nàng đi, cuốn nàng xuống bể sâu, nỗi buồn đã dâng lên tột đỉnh.


*Nghệ thuật: đoạn thơ vẽ nê bốn nét cảnh, mỗi nét cảnh gợi một nỗi buồn, vì vậy mà chúng bắt đầu từ hai chữ "buồn trông". Cách sắp xếp "buồn - trông" cho ta thấy nỗi buồn từ nội tâm, nỗi buồn từ trong đay lòng mà thấm vào cái nhìn, thấm vào cảnh vật. Lòng buồn nhìn đi đâu cũng buồn: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Điệp ngữ buồn trông đặt nhịp nhàng đều đặn ở đầu các câu thơ lục bát, như một điệp khúc trong một khúc ca sầu bi, buồn thảm. Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình thật sáng tạo và độc đáo, đã khắc họa được một bức tranh tâm trạng sinh động và đầy cảm xúc, nó dấy lên trong lòng chúng ta nỗi xót xa, thương cảm đối với con người tài sắc bạc mệnh. Đúng là một đoạn thơ tả tình hay nhất truyện Kiều.


3.Kết bài:
Tóm lại, chỉ với tám câu thơ lục bát nhưng với ngòi bút tài hoa độc đáo trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, thiên tài văn học Nguyễn Du đã khắc họa một bức tranh tâm cảm đầy xúc động. Có thể nói rằng, bên cạnh sự tài hoa, Nguyễn Du đã hòa vào tâm trạng nhân vật. Ông mới có thể viết lên những vần thơ tuyệt tác như thế. Đoạn thơ đã để lại ấn tượng sâu sắc trong trái tim người đọc hàng thế kỉ về số phận của người phụ nữ tài hoa mà bạc mệnh, về tấm lòng thương người của Nguyễn Du.


Hocmai
 
G

gm24h

Sau khi tự nguyện bán mình để cứu cha, Kiều không ngờ phải rơi vào một tên cò mồi Mã Giám Sinh và mụ chủ lầu xanh Tú Bà. Biết chưa ép được Kiều tiếp khách làng chơi, Tú Bà bèn đưa Kiều ra ở lầu Ngưng Bích. Thực ra, đây cũng chỉ là khoảnh khắc tạm thời yên thân để rồi sau đó, đời nàng bị xô đẩy đi giữa bao mưu mô độc ác của mụ Tú Bà mà nàng chưa lường hết được. Đoạn thơ trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đúng là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Nguyễn Du đã đặt nhân vật Thuý kiều vào cảnh ngộ ấy để cho Kiều tự bộc lộ tâm trạng của mình.
Trong giờ phút mà bên ngoài tưởng như yên tĩnh này thì chính trong lòng nàng Kiều đang ngổn ngang, tăm tối. Tất cả những gì xảy ra trước đó lại được tái hiện, để rồi chỉ còn lại cảm giác đau buồn, nhớ thương vô hạn xoáy sâu vào tâm can nàng.
Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như “bụi hồng” nhỏ bé.
Cả một không gian mênh mông, hoang vắng không một bóng người, không một tiếng chim, càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:
“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”
Nàng cảm thấy buồn tủi, chán chường, cảnh thế nào lòng mình thế ấy: “Trống trải, đơn côi”:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nữa tình nữa cảnh như chia tấm lòng”
Nàng tự đối thoại với lòng mình, biết tâm sự cùng ai nữa.
Trước hết, nàng nhớ tới Kim Trọng, nhớ đến những lới thề nguyền dưới ánh trăng vằng vặc, nàng hình dung được nổi sầu muộn, chờ mong của chang và tự hứa với lòng mình giữ trọn mối tình chung thuỷ.
Có lẻ lúc này, nàng thương chàng Kim vô hạn, bởi trước lúc chia li không nói với nhau được một lời, nổi oan gia quá ư đột ngột:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tinh sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Với cha mẹ cũng vậy, mặc dầu nàng đã “liều đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân”, cứu được cha, em thoát khỏi vòng tù tội, nhưng lúc này nàng vẫn cảm thấy xót xa, cảm thấy chưa xứng là phận làm con. Bởi lúc cha mẹ già yếu, mình không được chăm sóc, không được hầu hạ:
“Xót người tựa của hôm mai
Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Buồn biết bao khi phải dấn thân vào nơi vô dịnh. Buồn biết bao khi phải mãi mãi xa cách người yêu. Buồn biết bao khi có cha, mẹ mà không được phụng dưỡng sớm hôm. Nổi buồn đó đang thức dậy trong lòng Thuý Kiều “Xuân xanh đang tuổi đến tuần cập kê”-một cô thiếu nữ sắc, tài vẹn toàn, vốn đa tình, đa cảm. Một nổi buồn mênh mông như đè nặng, bao quang lấy nàng.
Nhìn vào đầu nàng cũng thấy buồn, cảnh vật dù có đổi thay nhưng nôi buồn của nàng thì như cố định. Nàng cảm nhận được những gì sẽ đến với mình, đối với người con gái họ Vương tài-sắc này như một định mệnh không sao thoát được!
Từ tâm trạng nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng cuối cùng nàng Kiều lại quay về với chính cảnh ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính mình.
Mỗi một cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều gợi lên trong tâm trí của nàng một nét buồn. Và Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nổi buồn của mình. Nổi buồn sâu sắc của Thuý Kiều được ngòi bút bậc thầy-Nguyễn Du mỗi lúc lại càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo “Buồn trông”

...”Buồn trông cửa bể chiều hôm”
...”Buồn trông ngọn nước mới sa”
...”Buồn trông nội cỏ rầu rầu”
..”Buồn trông gió cuốn mặt duềnh”

Từng cảnh vật dưới con mắt của Kiều đều nhuộm một nổi buồn khó tả, cũng có trời nước, nhưng mây trời thì nhàn nhạt, dòng nước thì mãi miết cuốn trôi những càng hoa rơi. Cùng với gió, sóng nhưng là “gió cuốn”, “sóng xô”....giữa cái mênh mông của biển trời, lại vào
lúc hoang hôn buông xuống, nàng chỉ đủ sức để nhận ra một con thuyền, một cách buồng thấp thoáng phía xa “Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”.
Mỗi cảnh vật như gợi một nổi buồn riêng trong mối dây liên tưởng với tâm trạng buồn chán về cuộc đời, về số phận của mình.
Nếu như “Thuyền ai thấp thoáng” làm nàng chạnh nghĩ đến cuộc đời trôi nổi, bấp bênh thì cảnh “nước chảy hoa trôi” lại gợi đến cảnh đời lưu lạc-một cuộc sống vô định, không còn phương hướng “biết là về đâu”. Đến cái hướng cuối cùng thì nổi buồn hầu như đã dâng lên tột đỉnh:
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Âm ầm tiếng sóng kêu quang ghế ngồi”
Tiếng sấm ầm ầm, dữ dội vây khắp bốn phía như muốn cuốn đi cái thân phận bé nhỏ bất cứ lúc nào. Ta tưởng nàng có thể ngất lịm đi trong âm thanh khủng khiếp đó. Phải chăng như Nguyễn Du đã viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” . Qua điệp khúc “Buồn trông....” của Kiều, ta cảm nhận được nổi đau đớn mà nàng phải trải qua trong suốt quảng đời 15 năm lưu lạc, có lửa nồng, có “Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần”-“Cười ra tiếng khóc -khóc trên trận cười”.
Trong đoạn thơ này, chúng ta nhận ra được một đặc điểm trong bút pháp Nguyễn Du: cảnh và tình bao giờ cũng hoà hợp, tả cảnh là để tả tình, trong tả cảnh đã có tả tình. Truyện Kiều có hơn ba ngàn câu (3254 câu). Đoạn trích ở trên chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong kiệt tác đó. Nhưng đây là đoạn thơ được nhièu người biết đến và quý trong nhất, vì cái tài lớn của nhà thơ, nhưng trước hết là vì cái tình lớn của nhà thơ đối với nhân vật, đối với con người, đối với cuộc đời.
 
Top Bottom