Sử 12 [Lịch sử]- Tổng hợp câu hỏi đáp về lịch sử Việt Nam

T

thanhthuytu

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

1. "Một nhà sinh đặng ba vua
Vua còn, vua mất, vua thua chạy dài"
Hỏi: "Ba vua" trong câu ca dao trên là những vua nào?


Trả lời: Đó là Đồng Khánh (vua còn); Kiến Phúc (vua mất) và Hàm Nghi (vua thua chạy dài)

Câu ca dao này nói về gia đình Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai - Hoàng tử thứ 26 của vua Thiệu Trị. Ông có 3 người con làm vua:

- Vua Kiến Phúc: tên húy là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, con thứ ba của Kiên Thái Vương và bà Bùi Thị Thanh. Vua Tự Đức vì lúc bé bị bệnh đậu mùa, không có con nên đã nhận Ưng Đăng làm con nuôi. Sau này, Ưng Đăng lên ngôi, là vị vua thứ 7 của triều Nguyễn.

- Vua Hàm Nghi: tên huý là Nguyễn Phúc Ưng Lịch, còn có tên là Nguyễn Phúc Minh, con thứ 5 của Kiên Thái Vương và bà Phan Thị Nhàn. Là vua thứ 8 triều Nguyễn.

- Vua Đồng Khánh: tên huý là Nguyễn Phúc Ưng Kỷ, con trưởng của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh, đồng thời là con nuôi của vua Tự Đức. Là vị vua thứ 9 của triều Nguyễn.

Trong 3 vua này thì vua Kiến Phúc chỉ làm vua được 8 tháng. Vua mất lúc mới 16 tuổi, chưa nạp phi, không có con cái.

Vua Hàm Nghi chống lại quân Pháp, ban hịch Cần Vương, tổ chức kháng chiến nhưng thất bại. Vua phải chạy lên vùng núi Quảng Bình, Hà Tĩnh. Sau bị Pháp bắt đầy đi Algérie năm 1888.

Vua Đồng Khánh lên ngôi năm 1885. Vua rất được lòng người Pháp nhưng chỉ ở ngôi được hơn 3 năm, mất ngày 28 tháng 1 năm 1889. Khi đó ông 25 tuổi.

Câu ca dao này ra đời khi vua Đồng Khánh vừa lên ngôi. Vua Kiến phúc đã mất. Vua Hàm Nghi đang cùng quân Cần Vương chạy lên vùng núi. Do đó mới gọi là "vua còn, vua mất, vua thua chạy dài".

2. Vì sao nhà Nguyễn kiêng tên Hoa?

Trả lời: Vì mẹ vua Thiệu Trị tên là Hồ Thị Hoa.

Từ đầu triều Nguyễn, tất cả các danh từ có từ “hoa” đều phải đổi. Vì thế mà chợ Đông Hoa thành chợ Đông Ba, tỉnh Thanh Hoa thành tỉnh Thanh Hoá, cầu Hoa bắc qua rạch Thị Nghè đổi thành cầu Bông, điệu hát “hoa tình” thành “huê tình”, “hoa lợi” thành “huê lợi”, “hoa viên” thành “huê viên”,… Vì sao có chuyện kiêng cữ và chuyển đổi ấy?

Chuyện kể rằng:

Năm 1806, Hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm đến tuổi lập phủ thiếp. Vua Gia Long và Hoàng hậu Thuận Thiên đã chọn bà Hồ Thị Hoa (con gái của công thần Hồ Văn Bôi) cưới cho Hoàng tử Đảm.

Hồ Thị Hoa có đủ các đức tính thục, thận, hiền, trinh; sống hết đạo hiếu kính. Bà được Hoàng đế và Hoàng hậu dành cho nhiều tình cảm yêu thương.

Đến tháng 5/1807, bà sinh con trai đầu lòng, đặt tên là Miên Tông. Bà mất sau khi sinh con 13 ngày. Khi ấy, bà mới 17 tuổi.

Mẹ mất, Miên Tông được gửi cho bà nội là Hoàng hậu Thuận Thiên nuôi cho đến trưởng thành. Thương xót cô con dân bất hạnh, vua Gia Long xuống dụ cấm triều đình và bá tánh từ nay không được nhắc đến từ “hoa” nữa. Những từ có chữ “hoa” thì phải chuyển đổi thành ba, huê, bông, hoá,… để khỏi phạm huý.

Năm 1820, Hoàng tử Đảm lên nối ngôi, lấy niên hiệu Minh Mạng.

Năm 1841, người con mất mẹ lúc 13 ngày tuổi Miên Tông lên ngôi, niên hiệu là Thiệu Trị. Vua Thiệu Trị đã làm nhiều việc để làm tròn đạo hiếu đối với người mẹ bạc mệnh. Đặc biệt nhất là triều đại của ông và con cháu của ông sau này đã triệt để kiêng kỵ tên “Hoa”, tên huý của mẹ ông. Việc kiêng kỵ ấy còn ảnh hưởng cho đến ngày nay.

(Theo Nguyễn Đắc Xuân – Chuyện các bà trong cung Nguyễn).

3.Tiền giấy được phát hành ở nước ta dưới triều đại nào?

Đáp án: Triều Trần

Nhiều người vẫn nhầm lẫn nghĩ rằng tiền giấy được phát hành đầu tiên ở nước ta vào triều Hồ.

Có thể, Hồ Quý Ly là người đóng vai trò quyết định trong việc ban hành tiền giấy, nhưng tiền giấy được phát hành lần đầu tiên ở nước ta vào năm 1396 (dưới thời vua Trần Thuận Tông).

Về việc này, nhiều sử gia có những đánh giá rất khác nhau. Có người cho rằng Hồ Quý Ly cần thu đồng để đúc vũ khí. Cũng có người đánh giá cao cải cách tiền giấy của Hồ Quý Ly bởi cùng với tiền giấy, Hồ Quý Ly còn có những cải cách khác rất tiến bộ và có đóng góp rất lớn cho sự phát triển của toàn xã hội bấy giờ.

Năm 1400, Hồ Quý Ly mới cướp ngôi nhà Trần lập ra nhà Hồ (1400 - 1407).

4. Tổng thống nước nào muốn đặt tên con là Hồ Chí Minh?

Trả lời: Đó là Tổng thống Ghi Nê Sêcuturê.

Sêcuturê, Tổng thống Ghi Nê sang thăm Việt Nam theo lời mời với tư cách là khách của Hồ Chủ Tịch. Trong buổi mít tinh tiễn đưa tại Quảng trường Ba Đình Hà Nội, Sêcuturê hết lời ca ngợi và khâm phục Hồ Chủ Tịch.

Ông phát biểu đại ý: Vợ tôi sắp sinh, nếu sinh con trai, tôi sẽ đặt tên con là Hồ Chí Minh.

Sêcuturê quả thật rất chân thành và rất cảm phục Hồ Chí Minh nhưng ông ta chưa hiểu câu "nhập gia vấn huý" của phong tục nước ta.

Liền đó Hồ Chủ Tịch trả lời lại rất khôn khéo, tài tình: "Bác không có vợ nên không có con, vậy Bác đề nghị các cháu thanh niên, nếu sắp tới, cháu nào có con trai thì đặt tên cháu là Sêcuturê!"

Mọi người dự lễ đều vui cười thoải mái, phục tài đối đáp của Bác, vừa được lòng khách nước ngoài, vừa phù hợp với phong tục nước ta trong hoàn cảnh đó.

(Theo 100 điều nên biết về phong tục Việt Nam)

5. Chồng bà Trưng Trắc tên là Thi hay Thi Sách?

Trả lời: Chồng bà Trưng Trắc tên Thi.

Sách Thủy kinh chú viết "…Châu Diên lạc tướng tử danh Thi sách Mê Linh lạc tướng nữ tử danh Trưng Trắc vi thê" (nghĩa là: ...Con trai của lạc tướng Châu Diên tên là Thi hỏi [sách] con gái lạc tướng Mê Linh tên là Trưng Trắc làm vợ). Từ "sách" trong câu trên vốn có nghĩa là "hỏi". Do nhầm lẫn, người đời sau đã ghép từ "sách" đó với từ Thi thành tên Thi Sách.

6. Lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện lần đầu tiên vào thời gian nào?

Trả lời: Lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện lần đầu tiên trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ chống thực dân Pháp (23/11/1940).

Tác giả sáng tạo ra lá cờ nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh này là đồng chí Nguyễn Hữu Tiến (sinh ngày 5/3/1901 tại Hà Nam, hy sinh ngày 28/8/1941). Tâm huyết của tác giả khi sáng tạo ra lá cờ Tổ quốc được khắc họa rõ nét trong bài thơ của ông:

"Hỡi những ai máu đỏ da vàng
Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc
Nền cờ thắm máu đào vì nước
Sao vàng tươi, da của giống nòi
Đứng lên mau hồn nước gọi ta rồi
Hỡi sỹ nông công thương binh
Đoàn kết lại như sao vàng năm cánh".

Lá cờ đỏ sao vàng là biểu tượng của hồn nước, lòng dân, của tình đoàn kết đời đời bền vững của đại gia đình các dân tộc Việt Nam.

Nền đỏ tượng trưng cho màu nhiệt huyết cách mạng, màu chiến đấu và chiến thắng; màu vàng của ngôi sao tượng trưng cho sự sáng ngời của linh hồn dân tộc Việt Nam; năm cánh sao là sức mạnh đoàn kết của các tầng lớp đồng bào chiến đấu giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.

Lá cờ đỏ sao vàng, biểu tượng chung nhất của dân tộc Việt Nam, đã khắc sâu vào tâm khảm của mỗi người dân Việt.

(Theo Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam)

7. Tại sao người miền Nam lại gọi con trưởng là "anh hai"?

Trong phương ngữ Nam bộ, người con trưởng trong gia đình được gọi là "anh hai / chị hai" mà không gọi là "anh cả / chị cả" như theo cách nói của người miền Bắc. Tại sao lại như vậy? Hiện nay có một số cách giải thích khác nhau về vấn đề này:

Cách thứ nhất:

Từ giữa thế kỷ thứ XVII, cư dân người Việt từ miền Bắc và miền Trung (đặc biệt là vùng Ngũ Quảng) được lệnh của chúa Nguyễn vào Nam khai hoang lập nghiệp. Những người con trưởng thường phải ở lại quê hương để thờ cúng ông bà tổ tiên, phụng dưỡng cha mẹ, chăm nom nhà cửa, vườn tược,...

Những người ra đi thường là con thứ hoặc con út. Họ luôn nhớ về quê hương, xứ sở, nhớ về gia đình lớn vẫn còn đang sinh sống ở vùng ngoài... Chính vì vậy, họ không xưng mình là Cả (vì thực tế anh Cả còn ở ngoài kia) mà xưng là Hai, rồi kế tiếp là Ba,... Lâu dần, thành thói quen, họ sinh con đẻ cái và gọi đứa con lớn trong gia đình là bé Hai, thằng Hai chứ không gọi là thằng Cả, con Cả như ở ngoài Bắc.

Cách thứ hai:

Ở Việt Nam, làng xã là một đơn vị rất quan trọng. Ý thức quốc gia không mạnh bằng làng xã: "phép vua thua lệ làng".

Khi bị Pháp chiếm làm thuộc địa, cơ quan cai trị ở mỗi xã miền Nam được gọi là Hội Đồng Tề, trong đó người đứng đầu được gọi là Hương Cả.

Nếu gọi người con lớn nhất là “cả”, thí dụ: “Thằng cả đâu, vô đây biểu coi” thì vô tình đã gọi trùng với tên Hương Cả. Điều này có thể bị suy diễn là hỗn láo, mỉa mai và bị kết tội phạm húy.

Vì vậy, người miền Nam tránh tiếng “cả” mà gọi người con lớn nhất là “anh hai” hoặc “chị hai”.

(Trích bài “Tị húy trong sinh hoạt của người Việt Nam” - Phạm Văn Bân).

Cách thứ ba:

Cách giải thích này có liên quan đến “tứ bất lập” dưới thời chúa Nguyễn Ánh. Sau khi lên ngôi năm 1802, Nguyễn Ánh ban ra nhiều chính sách mà trong đó có “tứ bất lập” (bốn điều không) : không đặt ngôi hoàng hậu và đông cung thái tử, không tể tướng, không trạng nguyên và không phong vương cho người ngoài họ.

Trong những điều không ấy, sở dĩ Nguyễn Ánh không phong hoàng hậu và đông cung là vì ông muốn dành trọn vẹn hai vị trí đó cho hai người mà ông yêu thương nhất, người vợ cả Tống Thị Lan và con trai cả Nguyễn Phúc Cảnh. Ngược dòng lịch sử, ta biết bà Tống Thị Lan là người vợ đã một lòng một dạ, cùng chia sẻ và đồng cam cộng khổ cùng Nguyễn Ánh khi ông thất thế, lúc còn phải trốn chạy nhà Tây Sơn. Còn Nguyễn Phúc Cảnh, khi mới 4 tuổi đã phải theo Bá Đa Lộc sang Pháp cầu viện giúp cha. Nguyễn Phúc Cảnh lúc đó không khác gì vật “thí thân”, ra đi mà chẳng biết có ngày trở về hay không.

Về sau, hoàng tử Cảnh cũng đoản mệnh, mất vì bệnh đậu mùa. Nguyễn Ánh là người trọng tình, trọng nghĩa, ông muốn dành vị trí cao nhất cho hai người mà ông hết mực yêu thương này. Vì thế về sau, với ông không có gì là “thứ nhất” cả, dù có toàn vẹn thế nào thì cũng chỉ là “thứ hai” mà thôi, và ông muốn thực hiện điều ấy bằng những chính sách của mình. Phải chăng cách nói “anh hai / chị hai” bắt nguồn từ đây?

8. Có ai biết "Ngũ Quảng" không? Kể tên từng "Quảng..." từ trong ra ngoài

Trả lời: Ngũ Quảng gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức (Huế), Quảng Nam, Quảng Ngãi.

"Ngũ Quảng" chỉ đất miền Trung
Quảng Bình là Quảng ngoài cùng tính vô.

Quảng Bình đất rộng, người thưa
Cái tên tỉnh, từ xa xưa có rồi:
Khi mà đất nước phân đôi
Đằng trong chúa Nguyễn, đằng ngoài vua Lê...

Quảng Bình có Động Phong Nha
và đất "Hai huyện" bao la lúa vàng

Tiếp vào: Quảng Trị hiên ngang
Cồn tiên, Dốc Miếu, rồi sang Đông Hà
Dòng sông Bến Hải ruột rà
Một thời chia cắt xót xa một thời...
Vĩ tuyến mười bảy ngăn đôi
Nhưng không ngăn được tình người, nước non.
Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn
Di tích lịch sử mãi còn ghi công
Biết bao xương máu anh hùng
Đã để lại đã nằm cùng chốn đây...

Vào nữa là "Quảng Đức" này
Cái tên đã đổi từ ngày Gia Long
Sau thành tên tỉnh Thừa Thiên
Một vùng đất đã ghi tên sử dài
Cố đô nước Việt một thời
Vàng son...chìm nổi... một thời Cố đô...

Về đây nhớ món bún bò
món cơm hến Huế ngọt lừ bờ môi..

Kể ra được ba "Quảng" rồi
Chỉ con 2 "Quảng" nữa thôi là về

Đi vào đèo dốc quanh co
Hải Vân mây núi lượn lờ biển xanh

Bên kia đèo. Đó, Quảng Nam
Một dải đất bao trang vàng sử xanh
Nổi tiếng phố cổ Hội An
Mỹ Sơn thánh địa. Chiêm Thành xưa kia
Tháp Chiên Đài, tháp Bằng An
Ngũ Hành Sơn đứng quan san bốn bề.

Bây giờ Quảng Ngãi ta về
Là nơi Núi Ấn - Sông Trà nhắc tên
Là nơi Văn hoá Sa Huỳnh
Đất lịch sử 3 ngàn năm nay rồi.

Ngũ Quảng ơi! ngũ Quảng ơi!
Nôm na chút có mấy lời viết ra!

(sưu tầm)

9. Ngày giỗ Tổ mồng Mười tháng Ba có từ bao giờ?

Trả lời: Ngày xưa, Lễ hội giỗ Tổ Hùng Vương thường được tổ chức vào mùa thu. Đến năm 1917 mới có quy định chính thức của triều Nguyễn lấy ngày mồng Mười tháng Ba hàng năm làm ngày quốc giỗ.

10. Người lao động bắt đầu được nghỉ lễ ngày Giỗ Tổ Hùng Vương từ năm nào?

Trả lời: Năm 2007

Chiều 28-3-2007, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã cơ bản nhất trí với tờ trình của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Điều 73 Bộ luật Lao động về việc cho phép người lao động nghỉ ngày Giỗ tổ Hùng Vương (mùng 10 tháng 3 Âm lịch).

Luật có hiệu lực từ năm 2007. Ngày 26-4-2007, người lao động cả nước bắt đầu được nghỉ lễ ngày Giỗ Tỗ Hùng Vương.

11. Chúa Chổm là ai?

Hỏi: Ca dao có câu:

Vua Ngô ba sáu tấn vàng,

Chết xuống âm phủ chẳng mang được gì,

Chúa Chổm uống rượu tì tì,

Chết xuống âm phủ kém gì vua Ngô.

Vậy chúa Chổm là ai, có thật ngoài đời không?

Trả lời: Câu ca dao này nói đến nhân vật chúa Chổm, đó là tên gọi dân gian dành “tặng” cho vị vua thời Lê Trung hưng Lê Trang Tông. Vua có tên tục là Lê Ninh, còn có tên khác là Lê Huyến. Lê Ninh là con vua Lê Chiêu Tông với bà Phạm Hoàng hậu Phạm Thị Ngọc Quỳnh.

Lê Trang Tông sinh năm Ất Hợi (1515), mất ngày 29.1 năm Mậu Thân (1548), thọ 33 tuổi, làm vua từ năm Quý Tỵ (1533) đến năm 1548. Ở ngôi 15 năm. Là vua khởi đầu nhà Lê Trung hưng với niên hiệu duy nhất: Nguyên Hòa.

Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, lập nên nhà Mạc, nhà Lê bị đứt đoạn một thời gian. Đến năm 1533 vua Lê Trang Tông lên ngôi mới nối lại được. Điều đặc biệt ở chỗ Lê Trang Tông - vị vua thứ 12 của nhà Hậu Lê lên ngôi không phải ở nước mình.

Sau khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, Lê Ninh mới 11 tuổi được viên quan Lê Quán ẵm chạy loạn sang đất Ai Lao rồi được bề tôi cũ của nhà Lê là An Thành hầu Nguyễn Kim phò tá lập lên làm vua. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Qúy Tỵ, Nguyễn Hòa năm thứ một (1533). Mùa xuân tháng giêng, vua lên ngôi ở Ai Lao (tức nước Lào ngày nay – tác giả), đặt niên hiệu là Nguyên Hòa, tôn đại tướng quân Nguyễn Kim làm Thượng phụ Thái sư Hưng quốc công trưởng nội ngoại sự, lấy hoạn quan là Đinh Công làm Thiếu úy Hưng quốc công, ngoài ra người nào cũng được phong thưởng, để cùng lòng giúp đỡ. Lại giao kết với vua Ai Lao là Sạ Đẩu để nhờ quân và lương, mưu việc tiến lấy lại nước”.

Vì sao Lê Trang Tông được dân gian ưu ái cho mỹ danh nghèo nàn Chúa Chổm? Chuyện này bắt nguồn từ giai thoại dân gian:

Hồi nhỏ vua Lê Trang Tông có tên tục là Chổm, mẹ là cô bán rượu xinh đẹp người làng Kim Lũ ven sông Tô Lịch. Bố cô trước là một viên quan nhỏ của nhà Lê trước cảnh vua Lê Chiêu Tông chưa có con nối nghiệp, muốn con gái mình đổi đời liền bày cho cô đem rượu ra bán bên cạnh nhà tù giam vua Lê Chiêu Tông, chuốc rượu cho lính canh say mèm rồi được dịp lẻn vào tình tự với vua. Sau cô bán rượu có thai, vua Chiêu Tông liền giao cho cô chiếc ấn ngọc và bảo cô trốn đi, nếu đẻ con trai thì gặp dịp khôi phục lại nhà Lê. Chiêu Tông sau đó chết trong tay nhà Mạc. Cô gái bán rượu sinh ra được bé trai, đặt tên là Chổm. Nhà nghèo chàng Chổm phải đi làm thuê nuôi mẹ.

Nhiều lần Chổm bán củi la cà ăn uống nơi các hàng quán ở cửa ô Thăng Long, lạ nỗi Chổm ăn mở hàng ở hàng nào thì hôm đó quán ấy bán đắt như tôm tươi. Một đồn mười, mười đồn trăm, các chủ quán nghĩ Chổm tốt vía nên thi nhau mời Chổm ăn mở hàng và sẵn lòng cho ăn chịu. Được thể, Chổm tiêu pha, ăn uống bạt mạng, nợ nần khắp nơi, người nào đòi thì Chổm bảo “Chờ lúc làm nên tôi sẽ trả”. Nhưng ai biết lúc nào Chổm làm nên.

Bẵng đi thời gian sau Chổm (Lê Trang Tông) được làm vua, từ Ai Lao trở lại Thăng Long, khi kiệu vua đến cửa ô, các chủ hàng nhận ra đó là anh Chổm nợ vung nợ vãi ngày xưa nên thi nhau chào đón đòi nợ. Nợ nhiều, Chổm vẫn quen cái tính vung tay quá trán nên ai đòi cũng trả. Vua sai quân lính lấy tiền trả, nhưng chủ nợ thật nợ dỏm lẫn lộn nhiều quá mà vua thì không nhớ mình đã nợ ai, quan quân cứ thế vung tay trả tiền mãi không thôi, mệt quá đành vung tiền ném cho đám chủ nợ nhặt. Nhưng chủ nợ càng ngày càng đông như nêm cối. Đến cửa Đại Hưng một viên tướng bèn hạ lệnh “cấm chỉ” không ai được phép đòi nợ vua nữa. Tên ngã Tư Cấm Chỉ (ở cạnh Hàng Bông thuộc phố Tống Duy Tân, Hà Nội nay) cũng từ đó mà ra đời. Còn thành ngữ “Nợ như chúa Chổm” thì ăn liền với vua Lê Trang Tông.

(Nguồn: Trần Đình Ba - Cử nhân khoa học chuyên ngành Lịch sử).

12. Tính đến nay, Quân đội nhân dân Việt Nam có bao nhiêu người được phong quân hàm Đại tướng?

Trả lời: Tính đến tháng 7/2007, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã có 12 vị được phong quân hàm Đại tướng.

Cấp bậc quân hàm Đại tướng quân đội và công an do Chủ tịch nước kiêm Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh Quốc gia ký quyết định phong cấp.

Có 2 quân nhân được đặc cách phong quân hàm Đại tướng không qua các cấp trung gian là Võ Nguyên Giáp (1948) và Nguyễn Chí Thanh (1959).

13. Tiến sĩ và tiến sĩ khoa học khác nhau như thế nào?

Trong quy chế đào tạo sau đại học ở Liên Xô trước đây không có học vị thạc sĩ mà chỉ có học vị phó tiến sĩ và tiến sĩ. Ở Pháp cũng tương tự như Liên Xô nhưng tên gọi có khác: tiến sĩ đệ tam cấp và tiến sĩ quốc gia.

Sau khi Liên Xô tan rã, ở Cộng hòa Liên bang Nga, người ta không còn phân biệt hai loại trên mà gọi chung là tiến sĩ. Ở Pháp cũng thế.

Ở Việt Nam, trước năm 1990, ta theo quy chế của Liên Xô. Sau đó, nếu duy trì quy chế cũ, ta không giống nước nào. Do đó, Chính phủ ký quyết định chuyển tên gọi phó tiến sĩ thành tiến sĩ mà không phải là thạc sĩ vì thời gian đào tạo thạc sĩ chỉ 2 năm, còn phó tiến sĩ là 4 năm.

Cũng theo quy chế của Liên Xô trước đây, một luận án phó tiến sĩ có giá trị tương đương với một luận án tiến sĩ thì Hội đồng chấm có thể đề nghị lên cấp trên cho nghiên cứu sinh hoàn chỉnh luận án để đưa ra hội đồng cấp trên cho phép đưa ra bảo vệ tiến sĩ. Còn bình thường, sau khi có bằng phó tiến sĩ, nghiên cứu sinh mới được bảo vệ tiến sĩ.

Đổi tên gọi phó tiến sĩ thành tiến sĩ nhưng không để những tiến sĩ cũ bị cào bằng, người ta thêm từ khoa học phía sau để phân biệt.

Vậy tiến sĩ khoa học được đánh giá cao hơn tiến sĩ.

14. Hiệu lệnh xung phong của đợt tổng công kích cuối cùng đêm 6/5/1954 tại Điện Biên Phủ là gì?

Trả lời: Tiếng nổ của một tấn bộc phá trên đồi A1.

Đêm ngày 5/5/1954, ta đưa vào lòng đồi A1 một tấn bộc phá, được chia thành những gói 20 kg.

Sáng ngày 6/5/1954, tiểu đoàn 255 phòng ngự suốt 34 ngày đêm trên đồi A1 được lệnh rút qua đồi Cháy làm lực lượng dự bị.

Đêm 6/5/1954, ta cho nổ khối bộc phá làm hiệu lệnh xung phong bắt đầu đợt tổng công kích cuối cùng tiêu diệt địch tại Điện Biên Phủ.
 
Last edited by a moderator:
Top Bottom