Sử 12 Hội nghị Gerneve

Thái Minh Quân

Cựu Cố vấn Lịch sử | Cựu Chủ nhiệm CLB Lịch sử
Thành viên
29 Tháng mười 2018
3,304
4,365
561
TP Hồ Chí Minh
THCS Nguyễn Hiền
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Tại Hội nghị Genève 1954, do sự sắp đặt sẵn của các cường quốc về giải pháp kết thúc chiến tranh, Việt Nam phải chấp nhận lấy Vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời và thời hạn tổng tuyển cử tái thống nhất đất nước là 2 năm. Với Hiệp định Genève, sông Hiền Lương - Vĩ tuyến 17 ghi nhận thắng lợi bước đầu của nhân dân Việt Nam sau gần một thế kỷ bền bỉ đấu tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc và thống nhất đất nước đồng thời nhanh chóng thu hút sự quan tâm không chỉ của quân dân cả nước mà còn của dư luận quốc tế khi trở thành một tiêu điểm đối đầu khốc liệt giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Mỹ xâm lược và các thế lực tay sai.
Đến giữa năm 1953, sau gần 8 năm tiến hành chiến tranh xâm lược Đông Dương, Pháp ngày càng rơi vào thế sa lầy trên chiến trường trong khi ở trong nước, nội bộ khủng hoảng triền miên. Gần 8 năm (1945-1953), nước Pháp 19 lần thay đổi chính phủ, thay 5 Cao ủy và 6 Tổng Chỉ huy ở Đông Dương. Trong lúc Chính phủ Pháp đang lúng túng tìm "lối thoát danh dự", tình hình quốc tế xuất hiện một số nhân tố tác động đến chiều hướng phát triển của cuộc chiến tranh. Ngày 27-7-1953, Hiệp định đình chiến ở Triều Tiên được ký kết, mở ra xu thế giải quyết các cuộc xung đột trên thế giới bằng con đường đàm phán hòa bình và khởi động quá trình các nước lớn tìm cách giải quyết vấn đề Đông Dương.
Liên Xô và Trung Quốc xem giải pháp đình chiến ở Triều Tiên là "mẫu mực" có thể thúc đẩy chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương. Tháng 8-1953, Liên Xô gửi công hàm cho Mỹ, Anh, Pháp đề nghị triệu tập hội nghị 5 nước lớn (thêm Cộng hòa nhân dân Trung Hoa) để nghiên cứu những biện pháp nhằm làm giảm tình hình căng thẳng ở Viễn Đông nhưng không được nước nào hưởng ứng bởi Mỹ phản đối sự có mặt của Trung Quốc. Tháng 9-1953, Hội đồng Hòa bình thế giới thông qua nghị quyết kêu gọi nhân dân các nước đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương. Tháng 10-1953, Đại hội Công đoàn thế giới lần thứ 3 quyết định lấy ngày 19-12-1953 làm ngày lao động thế giới đoàn kết với Việt Nam, đòi Pháp chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Trong khi đó, càng tiến hành chiến tranh xâm lược Đông Dương, nước Pháp càng lệ thuộc vào Mỹ [1]. Nhân dân Pháp đấu tranh mạnh mẽ đòi chính phủ phải chấm dứt cuộc "chiến tranh bẩn thỉu". Trước sức ép của dư luận, ngày 12-11-1953, Thủ tướng Laniel tuyên bố: "Nếu một giải pháp danh dự xuất hiện trong khung cảnh địa phương hoặc trong khung cảnh quốc tế, nước Pháp sẽ vui lòng chấp nhận một giải pháp ngoại giao cho cuộc xung đột" [2].
Để phối hợp với cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, Đảng và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chủ trương mở đòn tiến công thực dân Pháp trên mặt trận ngoại giao. Ngày 26-11-1953, trả lời phỏng vấn báo Expressen (Thụy Điển) về vấn đề thương lượng chấm dứt chiến tranh, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó... Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam… Việc thương lượng đình chiến chủ yếu là một việc giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Chính phủ Pháp” [3].
Tuy nhiên, cuộc thương lượng giữa hai bên vào thời điểm này không thành hiện thực bởi Chính phủ Pháp không muốn đàm phán song phương với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nhất là sự cản trở của Mỹ đối với Pháp [4].
Trong lúc ta tích cực chuẩn bị cuộc tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, ngày 18-2-1954, Hội nghị Ngoại trưởng Tứ cường Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp ở Berlin (Đức) nhất trí sẽ triệu tập hội nghị quốc tế ở Genève (Thụy Sỹ), có đại diện của Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và các nước liên quan để bàn về giải pháp chính trị cho vấn đề Triều Tiên và giải quyết vấn đề chiến tranh Đông Dương. Dư luận thế giới hoan nghênh quyết định của 4 nước lớn. Ngày 20-2-1954, Thủ tướng Ấn Độ Nerhu kêu gọi ngừng bắn ở Đông Dương để tạo thuận lợi cho việc thảo luận ở Genève. Ngày 22-2-1954, Nhân dân nhật báo (Trung Quốc) có bài xã luận hoan nghênh quyết định của Hội nghị Berlin. Ngày 25-2-1954, Ngoại trưởng Indonesia tuyên bố ủng hộ lời kêu gọi của Ấn Độ. Ngày 10-3-1954, Quốc hội Pháp thông qua nghị quyết hoan nghênh việc triệu tập Hội nghị Genève. Ngày 2-5-1954, trước nguy cơ Điện Biên Phủ thất thủ, Mỹ, Anh và Pháp mới chấp nhận đại diện của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và 3 “Quốc gia liên kết” (Quốc gia Việt Nam, Vương quốc Lào và Vương quốc Campuchia) tham dự Hội nghị Genève. Ngày 7-5-1954, chiến dịch Điện Biên Phủ của quân dân ta kết thúc thắng lợi.
Ngày 8-5-1954, Hội nghị Genève về Đông Dương khai mạc, với sự tham dự của 9 đoàn đại biểu, gồm Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc, Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Quốc gia Việt Nam, Vương quốc Lào và Vương quốc Campuchia. Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn Đồng dẫn đầu bước vào hội nghị với tư thế của người chiến thắng. Tuy nhiên, việc giành được kết quả có lợi trên bàn đàm phán không chỉ phụ thuộc vào thắng lợi trên chiến trường mà lại hoàn toàn nằm ngoài ý muốn của ta bởi đây là hội nghị đa phương.
Tham dự Hội nghị Genève với nỗ lực nhằm dập tắt một trong những “lò lửa” của cuộc “Chiến tranh lạnh”, mỗi cường quốc có một mục tiêu khác nhau. Pháp là một bên tham chiến, muốn thoát khỏi cuộc chiến “trong danh dự” nên hi vọng trong khuôn khổ của một cuộc hội nghị quốc tế nhiều bên sẽ tránh phải đàm phán song phương với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đối với việc tìm giải pháp kết thúc chiến tranh, Pháp hoàn toàn ý thức được vai trò của Trung Quốc khi Bộ trưởng Quốc phòng Plevel khẳng định: “Vấn đề Đông Dương chỉ có thể giải quyết bằng cách nhượng bộ Trung Quốc, công nhận ngoại giao và hủy bỏ cấm vận buôn bán” [5].
Mỹ tuy miễn cưỡng tham gia hội nghị bởi yêu cầu của Pháp (được Anh hậu thuẫn) nhằm tranh thủ Pháp tham gia Hiệp ước thành lập Cộng đồng phòng thủ châu Âu cũng như ủng hộ Mỹ trong kế hoạch xây dựng cơ cấu phòng thủ chung ở châu Á. Ngoài ra, Mỹ còn âm mưu ngăn cản hội nghị đi đến một giải pháp bất lợi, có hại cho mưu đồ của Mỹ thay thế Pháp ở Đông Dương.
Chính sách của Anh lúc này là ủng hộ Pháp theo khả năng của mình, đồng thời tránh để bị cuốn vào cuộc can thiệp quân sự tập thể ở Đông Dương. Giải quyết được vấn đề Đông Dương sẽ làm dịu tình hình căng thẳng ở Viễn Đông, có lợi cho việc củng cố “Khối Thịnh vượng chung” vào thời điểm Anh đang bận đối phó với phong trào du kích cộng sản Malaixia. Mặt khác, Anh muốn thông qua hội nghị này để giải quyết vấn đề tài sản của Anh ở Trung Quốc đã bị quốc hữu hóa và giải thoát cho vài chục kiều dân Anh còn bị kẹt lại ở Trung Hoa đại lục [6].
Liên Xô là nước đưa ra sáng kiến triệu tập Hội nghị Genève nhằm thúc đẩy hòa dịu quốc tế, đồng thời kiên trì đòi hỏi sự có mặt của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại hội nghị. Tuy nhiên, trọng tâm chú ý của Liên Xô lại là vấn đề Cộng đồng phòng thủ chung châu Âu (Liên Xô muốn tranh thủ, lôi kéo Pháp không tham gia cộng đồng này) nên vấn đề Viễn Đông nói chung, Đông Dương nói riêng rơi xuống hàng thứ yếu trong chính sách đối ngoại của Liên Xô và để cho đoàn Trung Quốc phụ trách.
Tuy là một nước có diện tích lớn nhất châu Á và dân số đứng đầu thế giới nhưng đến trước Hội nghị Genève, Trung Quốc lại chưa có một vị thế chính trị tương xứng. Ngoại trừ phe xã hội chủ nghĩa và một số nước mới giành được độc lập công nhận, Trung Quốc chưa gia nhập Liên hợp quốc và không có quan hệ kinh tế đáng kể nào với các nước phương Tây. Vì vậy, đến Hội nghị Genève với tư cách khách mời nhưng đoàn Trung Quốc ráo riết hoạt động nhằm sớm tạo dựng cho mình vị thế của một cường quốc thế giới. Xuất phát từ lợi ích trong việc mong muốn tạo môi trường hòa bình, ổn định ở khu vực châu Á để phát triển đất nước, Trung Quốc nắm bắt tối đa vai trò "cường quốc thứ 5 không chính thức" tại một trong những hội nghị quốc tế quan trọng đầu tiên kể từ khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thành lập (1949) để xác lập vai trò trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế, trước hết là ở châu Á. Bị Mỹ bao vây trên phần lớn các cửa ngõ ra thế giới bên ngoài (Mỹ đóng quân ở Nhật Bản, Nam Triều Tiên, hiện diện ở Đài Loan, có căn cứ ở Philippin, Hạm đội 7 đang làm chủ Thái Bình Dương …), Trung Quốc cố tìm cách mở cửa với phương Tây và Đông Dương chính là vấn đề tốt nhất để tiếp cận Anh và Pháp.
Như vậy, trừ Mỹ, ba cường quốc còn lại (Liên Xô, Anh, Pháp) đều gặp nhau tại một điểm là xem Trung Quốc như “chiếc chìa khóa” để giải quyết vấn đề Đông Dương và rộng ra là cả khu vực Viễn Đông. Sự thống nhất đó đã đem lại cho Trung Quốc một lợi thế rất lớn trong cuộc “chạy nước rút” để không chỉ trở thành một cường quốc khu vực mà còn là cường quốc thế giới.
Đối với Việt Nam, việc kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình khá phức tạp bởi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam là một cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, lực lượng của hai bên đan xen nhau nên một giải pháp hoàn chỉnh để kết thúc chiến tranh phải đồng thời giải quyết cả vấn đề quân sự lẫn vấn đề chính trị.
Về vấn đề quân sự, hai bên ngừng bắn, vạch giới tuyến quân sự tạm thời, điều chỉnh khu vực chuyển quân tập kết, trao trả tù binh và những người bị bắt... Việc ngừng bắn gắn với vạch giới tuyến quân sự tạm thời trong tình hình chiến trường lúc bấy giờ là không tránh khỏi. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lần thứ VI (từ ngày 15 đến ngày 17-7-1954) ý thức rất rõ về giải pháp này khi khẳng định tình hình chiến trường Đông Dương "rất phức tạp, không điều chỉnh khu vực đóng quân thì không có cách nào đình chiến được. Việc điều chỉnh khu vực đóng quân càng dứt khoát, càng giảm bớt được những khả năng bắn nhau trở lại” [7]. Do sự phân bố lực lượng giữa hai bên và địa thế Việt Nam trải dài từ Bắc xuống Nam nhưng hẹp chiều ngang nên việc phân vùng tập kết chỉ có thể thực hiện theo vĩ tuyến Bắc - Nam mà không thể chia theo kinh tuyến Đông - Tây hoặc thế “da báo” (tập kết tại chỗ).
Về vấn đề chính trị, Pháp phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, thỏa thuận thời hạn tổ chức tổng tuyển cử để tái thống nhất Việt Nam; hai bên phải bảo đảm các quyền tự do dân chủ, cam kết không trả thù, phân biệt đối xử đối với những người đã cộng tác với đối phương trong chiến tranh...
Giải pháp cơ bản nhất cho cả hai vấn đề nói trên là việc định ra giới tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam và thời hạn tổ chức tổng tuyển cử để tái thống nhất đất nước. Do lập trường các bên xa nhau nên việc lựa chọn đường giới tuyến để phân vùng tập kết ở Việt Nam trở thành vấn đề căng thẳng nhất, xuyên suốt tiến trình hội nghị.
Lập trường ban đầu của Việt Nam là lấy Vĩ tuyến 13, cắt ngang đèo Đại Lãnh giữa Phú Yên và Khánh Hòa, làm giới tuyến quân sự tạm thời bởi ta có vùng tự do Liên khu V kéo dài từ Quảng Nam vào đến Phú Yên và thời hạn tổng tuyển cử là 6 tháng sau khi ngừng bắn.
Phía Pháp chủ trương chỉ giải quyết vấn đề quân sự theo kiểu Triều Tiên, nghĩa là ngừng bắn và giải giáp tại chỗ những lực lượng không chính quy mà không có giải pháp chính trị. Trong khi đó, Mỹ âm mưu phá hoại Hội nghị. Ngày 3-5-1954, Ngoại trưởng Dulles rời Genève, không tham gia bàn về vấn đề Đông Dương mà giao quyền trưởng đoàn cho Thứ trưởng Smith. Ngày 10-6, Tổng thống Eisenhower chỉ thị cho Smith thông báo cho Pháp biết, nếu Pháp muốn đàm phán với Chính phủ Hồ Chí Minh thì Smith sẽ về nước và chỉ để lại một quan chức ngoại giao cấp thấp. Mỹ đồng thời gợi ý Anh cũng làm như vậy [8]. Đồng thời, Mỹ gấp rút xúc tiến kế hoạch thay chân Pháp ở Việt Nam. Ngày 16-6-1954, bằng sức ép của Mỹ đối với Pháp và bằng nhiều cuộc vận động khác, Bảo Đại ký Sắc lệnh 38-QT cử Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng “Quốc gia Việt Nam”. Ngày 29-6-1954, Mỹ và Anh đặt ra cho Pháp 7 điều kiện trong việc tìm giải pháp chấm dứt chiến tranh Đông Dương, trong đó về Việt Nam, giới tuyến quân sự tạm thời phải nằm phía Nam Đồng Hới (tức Vĩ tuyến 17,5).
Lợi dụng vị thế là quốc gia viện trợ vũ khí, trang bị quân sự nhiều nhất cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam ở giai đoạn cuối và sớm nắm bắt được ý đồ của các nước lớn, tại Hội nghị Genève, Trung Quốc đã tranh thủ tối đa mọi cơ hội để trực tiếp đàm phán với Pháp [9]. Giai đoạn đầu (8-5 – 19-6-1954), hội nghị bế tắc bởi lập trường các đoàn còn xa nhau và nhất là Pháp không có chính phủ sau sự sụp đổ của Nội các Joseph Laniel. Ngày 19-6-1954, Mendès France lên làm Thủ tướng Pháp với lời hứa sẽ giải quyết vấn đề hòa bình ở Đông Dương trong vòng một tháng (tính đến 20-7). Ngày 23-6, trong cuộc tiếp xúc với M. France, Chu Ân Lai thể hiện lập trường không có lợi cho Việt Nam trên bàn đàm phán, như cho Pháp biết quân tình nguyện Việt Nam sẽ rút khỏi Lào và Campuchia, Trung Quốc sẵn sàng công nhận Chính phủ Vientiane và Chính phủ Phnom Penh, sẽ thúc đẩy Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhích lại với Pháp, thậm chí cả với Chính phủ Bảo Đại, đồng thời hai bên thống nhất quan điểm về vấn đề quan trọng nhất là phải vạch đường giới tuyến để chia cắt Việt Nam. Từ đây, vấn đề chia cắt Việt Nam mới trở thành mục tiêu đàm phán của Pháp thay cho kế hoạch phân vùng theo kiểu "da báo" ban đầu. Tiếp theo, tại cuộc gặp với Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Liễu Châu (từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954), Chu Ân Lai đã xác định sẽ lấy Vĩ tuyến 17 làm giới tuyến và thời hạn tuyển cử là 2 năm.
Ngày 13-7, trong cuộc gặp riêng với Thủ tướng mới của Pháp là M. France, Trưởng đoàn Phạm Văn Đồng đề nghị lấy Vĩ tuyến 16 [10] nhưng Pháp đòi Vĩ tuyến 18 [11]. Ngày 17-7, tại cuộc gặp giữa ba Ngoại trưởng Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cả Molotov và Chu Ân Lai đều muốn Phạm Văn Đồng chấp thuận phương án Liễu Châu. Ngày 19-7-1954, sau khi trao đổi với đoàn Liên Xô và Việt Nam, Trung Quốc xác nhận với đoàn Pháp lập trường về đường giới tuyến đặt ở Vĩ tuyến 17 trong khi Phạm Văn Đồng vẫn bảo lưu ý kiến Vĩ tuyến 16. Phải đến phiên họp cuối buổi chiều ngày 20-7 (thời hạn cuối mà M. France tự đặt ra khi nhậm chức), để hội nghị có thể kết thúc được, Phạm Văn Đồng mới chấp nhận Vĩ tuyến 17.
Là một trong chín đoàn tham gia Hội nghị Genève, đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không chỉ phải đương đầu với Pháp, Anh, Mỹ mà còn phải đối phó với các đoàn đại biểu của ba chính phủ “Quốc gia liên kết” thân Pháp (Quốc gia Việt Nam, Vương quốc Lào và Vương quốc Campuchia). Do vậy, không có sự lựa chọn nào khác, Việt Nam buộc phải chấp nhận giải pháp do Liên Xô, Trung Quốc thỏa thuận với Pháp, Anh đề xuất bởi lúc này “vì những tính toán về chiến lược và lợi ích riêng, đồng minh của ta đã gần như trở thành trung gian giữa hai bên tham chiến và có những biện pháp và bước đi không thuận cho ta” [12]. Từ vị trí khách mời nhưng Trung Quốc đã nhanh chóng tận dụng triệt để lợi thế để nắm lấy vai trò đàm phán chính và kết quả chủ yếu của hiệp định cũng cơ bản phản ánh chính lập trường mà quốc gia này đã đề ra trong tiến trình hội nghị.
Vào lúc 2 giờ 45 ngày 21-7-1954, Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký kết. Tuy nhiên, để M. France giữ lời hứa với Quốc hội Pháp sẽ giải quyết vấn đề Đông Dương trong vòng 1 tháng nên Hiệp định ghi là 20-7-1954. Theo Điều 1 của Hiệp định: “Một Giới tuyến quân sự tạm thời sẽ được quy định rõ để lực lượng của hai bên sau khi rút lui sẽ tập hợp ở bên này và bên kia giới tuyến ấy: Lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam ở phía Bắc giới tuyến, lực lượng Quân đội Liên hiệp Pháp ở phía Nam giới tuyến ... Hai bên đều đồng ý có một khu phi quân sự hai bên giới tuyến, mỗi bên rộng nhất là 5 ki-lô-mét kể từ giới tuyến trở đi, khu phi quân sự này dùng để làm khu đệm và để tránh những việc xung đột có thể làm cho chiến sự xảy trở lại” [13].
Cụ thể là: “Cửa sông Bến Hải (sông Cửa Tùng) và dòng sông đó (trong vùng núi sông này gọi là sông Rào Thành) cho đến làng Bô-hô-su [14], rồi Vĩ tuyến Bô-hô-su cho đến biên giới Lào - Việt”. Điều 4 của Hiệp định Genève nói rõ thêm: “Giới tuyến quân sự tạm thời giữa hai vùng tập hợp kéo dài ra ngoài hải phận theo một đường thẳng góc với đường ven biển” [15].
Lúc 15 giờ ngày 21-7-1954, Bản Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève được công bố. Điều 6 của Tuyên bố nói rõ: “Hội nghị chứng nhận rằng mục đích căn bản của Hiệp định về Việt Nam là giải quyết các vấn đề quân sự để đình chỉ chiến sự và giới tuyến quân sự chỉ có tính chất tạm thời, không thể coi là một ranh giới về chính trị hay về lãnh thổ”. Đối với việc tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước ở Việt Nam, Điều 7 của bản Tuyên bố viết: “Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị, thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ… Cuộc tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng Bảy 1956… Kể từ ngày 20 tháng Bảy 1955, những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó” [16].
Mặt khác, Hiệp định Genève mới chỉ phác thảo bước đầu về giới tuyến quân sự tạm thời và khu phi quân sự trên bản đồ mà chưa đưa ra nguyên tắc cụ thể về việc vạch giới hạn của khu phi quân sự cũng như vấn đề kiểm soát nhằm đảm bảo tính chất "khu đệm" của khu phi quân sự được tôn trọng. Vấn đề này sẽ do đại diện Bộ Tổng Tư lệnh quân đội hai bên tại chiến trường quy định.
Như vậy, với quyết định của Hội nghị Genève, từ chỗ ban đầu không nằm trong ý định của các bên tham gia đàm phán, Vĩ tuyến 17 trở thành giới hạn thỏa hiệp của các cường quốc trong bối cảnh quốc tế cực kỳ phức tạp lúc bấy giờ, phản ánh ý đồ và lợi ích của các nước lớn tham gia hội nghị. Bởi xuất phát điểm của hội nghị là cuộc gặp của 5 cường quốc để bàn về các vấn đề tranh chấp trên thế giới, Đông Dương chỉ là một trong những vấn đề ấy. Do đó, các nước nhỏ có quyền lợi liên quan đều không được mời dự. Mãi đến ngày 2-5-1954, khi nguy cơ Điện Biên Phủ bị thất thủ là không thể tránh khỏi, các cường quốc phương Tây mới chấp thuận đề nghị của Liên Xô mời thêm các phe tham chiến tại Đông Dương đến Genève. Tham dự hội nghị trong tình thế đó, Việt Nam khó tránh khỏi sự “sắp đặt sẵn” [17] về một giải pháp kết thúc chiến tranh vì các cường quốc “đều đã lấy những lợi ích quốc gia của họ làm phương hướng chỉ đạo hoạt động ngoại giao khi đến hội nghị” [18].
Tuy còn hạn chế nhưng Hiệp định Genève, gồm cả giải pháp quân sự gắn với giải pháp chính trị, là một thắng lợi lớn của Việt Nam. Lần đầu tiên, một nước thuộc địa vừa giành được độc lập đã tham gia một hội nghị quốc tế, ngang hàng với các cường quốc. Kết quả của hội nghị phản ánh tương quan lực lượng của các bên tham chiến [19] cũng như trên bàn đàm phán, trong bối cảnh quốc tế cực kỳ phức tạp lúc bấy giờ. Cũng là lần đầu tiên, các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam được các cường quốc tham gia hội nghị cam kết tôn trọng và đặt ra lộ trình cùng những biện pháp để thực hiện. Đây là cơ sở pháp lý để Đảng, Chính phủ lãnh đạo nhân dân đấu tranh hoàn thành nền độc lập và thống nhất đất nước. Như vậy, sau gần 9 năm tiến hành chiến tranh xâm lược, cuối cùng nước Pháp phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam. Với Hiệp định Genève, sông Hiền Lương - Vĩ tuyến 17 ghi nhận thắng lợi bước đầu của nhân dân Việt Nam sau gần một thế kỷ bền bỉ đấu tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Từ chỗ là "chặng dừng" của cuộc trường chinh vĩ đại đó, Vĩ tuyến 17 đã nhanh chóng thu hút sự quan tâm không chỉ của quân dân cả nước mà còn của dư luận quốc tế khi trở thành một tiêu điểm đối đầu khốc liệt giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Mỹ xâm lược và các thế lực tay sai.

TS. HOÀNG CHÍ HIẾU
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế

Tài liệu tham khảo
[1] Trong chi phí chiến tranh của Pháp ở Đông Dương, viện trợ tài chính của Mỹ chiếm tỉ lệ ngày càng cao, từ 19,5% (năm 1950) lên 73,9% (năm 1954); Mỹ thành lập Phái bộ cố vấn và viện trợ quân sự (MAAG) ở Sài Gòn trực tiếp điều hành viện trợ Mỹ cho các chính phủ tay sai của Pháp. Sự chi phối của Mỹ khiến Navarre, Tổng Chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương, đã phải chua chát thú nhận: “Càng lúc tôi càng có cảm tưởng người chủ thực sự ở Đông Dương là Phái bộ Mỹ” [Navarre, Đông Dương hấp hối, Phan Thanh Toàn dịch, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 197].
[2] Nguyễn Đình Bin (CB), Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 138.
[3] Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 7, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 168-169.
[4] Sử dụng thế mạnh của “chủ nợ” đối với “con nợ”, ngày 13-11-1953, trong chuyến thị sát tình hình Việt Nam, Phó Tổng thống Mỹ Nixon buộc Pháp “trong bất cứ trường hợp nào cũng không thể đàm phán với Việt Minh” [Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, Chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945-1975) - Thắng lợi và bài học, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 139].
[5] Bộ Ngoại giao, Hiệp định Giơnevơ 50 năm nhìn lại, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 52.
[6] Đến ngày 17-6-1954, những vấn đề tồn tại giữa Anh và Trung Quốc được giải quyết và hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 15 (1954), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 195.
[8] Bộ Ngoại giao, Sđd, tr. 287.
[9] Trong tiếp xúc với Pháp, đoàn Trung Quốc có những phát biểu không có lợi cho Việt Nam, như ngày 18-5-1954, Vương Bỉnh Nam, Tổng Thư ký đoàn Trung Quốc nói với Đại tá Guillemas, Tổng Thư ký đoàn Pháp: “Chúng tôi đến đây không phải để ủng hộ quan điểm của Việt Minh mà để làm hết sức mình lập lại hòa bình”. Ngày 1-6, tại cuộc gặp với Ngoại trưởng Pháp Bidault, Chu Ân Lai nói: “Với tư cách láng giềng của Việt Nam, chúng tôi phải làm mọi việc có thể làm được để góp phần chấm dứt xung đột” [Bộ Ngoại giao, Sđd, tr. 284, 286].
[10] Vĩ tuyến 16 cắt ngang Đà Nẵng. Sau Thế chiến II, các nước Đồng minh đã lấy Vĩ tuyến 16 để phân vùng giải giáp quân Nhật ở Đông Dương. Quân Trung Hoa Dân quốc vào phía Bắc và quân Anh vào phía Nam Vĩ tuyến này.
[11] Vĩ tuyến 18 cắt ngang Đèo Ngang, giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình. Trong các thế kỷ XVII- XVIII, Đèo Ngang và sông Gianh từng là đường ranh giới phân chia Đàng Trong, Đàng Ngoài.
[12] Bộ Ngoại giao, Sđd, tr. 249. Về vấn đề này, nhà nghiên cứu lịch sử ngoại giao Nguyễn Phúc Luân khẳng định: “Thực tế là đoàn ‘bạn bè’ đã thay ta và Campuchia, Lào đàm phán, mặc cả với đối phương trước lúc ta khẳng định được các phương án tối đa và tối thiểu của mình. Vì bị động nên ta chỉ đóng vai trò ‘tham khảo’ nhiều hơn là đóng vai trò quyết định với cương vị là nước tham chiến” [Bộ Ngoại giao, Sđd, tr. 139].
[13] The Agreement on the Cessation of Hostilities in Vietnam, Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, ký hiệu PTT 14.655, tr. 1.
[14] Bô-hô-su thuộc xã Vĩnh Ô, huyện Vĩnh Linh. Nay không còn.
[15] The Agreement on the Cessation of Hostilities in Vietnam, tr. 2.
[16] Bộ Ngoại giao, Sđd, tr. 314.
[17] Có thể tham khảo thêm ý kiến phát biểu của nguyên Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm tại Hội thảo “50 năm Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương - Ý nghĩa và bài học” (7-2004): “Anh Phạm Văn Đồng đã mấy lần rút từ Vĩ tuyến 13 chuyển lên 14, rồi 16 và giữ mãi ở 16. Tại Hội nghị Liễu Châu, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nêu là Vĩ tuyến 16 thì chấp nhận được nhưng Chu Ân Lai thì dự kiến Vĩ tuyến 17… Theo hồi ký của anh Hà Văn Lâu, khi sang Liên Xô trao đổi thì một đồng chí Thứ trưởng Quốc phòng bạn có hỏi về Vĩ tuyến 18, 17 và 16. Như vậy, trong ý của phía Liên Xô cũng đã có suy nghĩ về vấn đề chia cắt và chia cắt ở chỗ nào. Nhưng cần nhớ rằng quá trình đi đến việc ta nhận Vĩ tuyến 17 không phải đơn giản… Ở đây nếu ta nắm tình hình rõ hơn và kiên quyết hơn, thuyết phục thêm Liên Xô, Trung Quốc thì có thể giữ được Vĩ tuyến 16” [Bộ Ngoại giao, Sđd, tr. 256].
[18] Bộ Ngoại giao, Sđd, tr. 54.
[19] Trong Đông - Xuân 1953-1954, ta loại khỏi vòng chiến đấu 112.000 quân Liên hiệp Pháp (chiếm khoảng ¼ binh lực địch). Riêng ở Điện Biên Phủ, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 16.200 tên (chiếm chưa đầy 4% binh lực Pháp ở Đông Dương). Vì thế, tuy địch ở hoàn toàn trong thế bị động phòng ngự về mặt chiến lược, thất bại ở Điện Biên Phủ và phải rút bỏ nhiều vùng rộng lớn song xét về tổn thất và so sánh lực lượng tuyệt đối thì tổng số quân Liên hiệp Pháp vẫn còn tới 330.000 so với chủ lực ta là 290.000 (chưa tính số tổn thất trong Đông - Xuân 1953-1954 và ở Điện Biên Phủ) [Bộ Ngoại giao, Sđd, tr. 154].
 
Top Bottom