Văn Hình ảnh bà Tú và người phụ nữ

S

silvery21

Mình chỉ cho bạn dàn bài nhé:
1. Tác giả:
* Con người:
- Trần Tế Xương( Tú Xương):1870-1907.
- Quê: Nam Định.
- Bản thân:
+ Đi thi nhiều nhưng đều không đỗ, chỉ đỗ đến bậc tú tài.
+ Cá tính đầy góc cạnh, phóng túng không chịu gò mình.

--- Trần Tế Xương ---
* Sáng tác:
Trên 100 bài thơ, chủ yếu là thơ Nôm. Thơ gồm hai mảng đề tài: trào phúng và trữ tình.

2. Tác phẩm: Thương vợ.
a. Đề tài:
Bà Tú (người vợ): lạ trong văn học trung đại.

b.Cảm nhận chung:
- Nội dung: Bài thơ viết về bà Tú và tình cảm của ông Tú.
- Nghệ thuật: Thể thơ thất ngôn bát cú, đảo, đối.

1. Bố cục:
- Cách 1: Đề - thực - luận - kết.
- Cách 2: Theo nội dung.

2.Phân tích:
a. Hình tượng của bà Tú dưới cái nhìn của ông Tú:
- Hình ảnh bà Tú:
*Câu 1, 2:
+ Công việc: buôn bán
+ Địa điểm: mom sông
-> mom đất nhỏ nhô ra ngoài sông,
gợi nguy hiểm, không vững chãi.
+ Thời gian: quanh năm
-> liên tục, lặp lại, khép kín.


+ Năm con với một chồng: xếp ngang hàng con và chồng chưa đủ, hạ hơn nữa đứng cuối xuống hàng, lại tách ra một tí và đếm là ?một? -> tự trào, hóm hỉnh của Tú Xương.
+ Nuôi đủ: vừa đủ, không thừa không thiếu.
? Nhà thơ thể hiện sự thán phục đồng thời cũng kín đáo tự nhận mình là vô tích sự, làm khổ vợ con.
Câu 3,4 :
+ Nghệ thuật đảo ngữ: lặn lội đứng trước danh từ chủ thể
-> cực tả sự vất vả, nhọc nhằn?
+ Nghệ thuật ẩn dụ: thân cò -> hình ảnh người phụ nữ tảo tần, nhỏ bé.
+ Nghệ thuật đối: Lặn lội >< eo sèo
Quãng vắng >< đò đông
? Tiếp tục cực tả nỗi vất vả đơn chiếc và cuộc sống
bấp bênh. Bà Tú vẫn đảm đang, chu đáo với gia đình.


Câu 5,6:
Một duyên hai nợ:
duyên ít nợ nhiều -> gánh nặng nhiều, tốt đẹp ít, may mắn ít.
Từ chỉ số lượng phiếm chỉ: nhiều (duyên chỉ có một mà nợ đến những hai)
Phận:số phận, định mệnh .
Năm nắng mười mưa:
Cách kết hợp từ tăng tiến, ẩn dụ cho nỗi vất vả, nhọc nhằn.
-Nghệ thuật: Đối- năm nắng mười mưa>< dám quản công ->hi sinh thầm lặng.
-Sử dụng thành ngữ nhấn mạnh người vợ không chỉ vất vả đảm đang nhẫn nại mà còn hi sinh âm thầm.
? Chân dung bà Tú điển hình cho người phụ nữ VN, tảo tần, chịu thương, hi sinh, chịu đựng. Tấm lòng thương vợ đến đây không chỉ
thương xót, mà còn thương cảm thấm thía.


b. Hình ảnh ông Tú qua lời trần thuật về bà Tú:
* Câu 7,8 :
Cha mẹ thói đời:
+ chửi thói đời sinh ra loại người như ông.
- Tự nhận lỗi về mình:
+ Ăn ở bạc: lòng thì không bạc bẽo với vợ, nhưng bề ngoài thì sự ăn ở thật hững hờ: gánh nặng con cái, thậm chí cả bản thân ông cũng trút cho vợ.
+ Có cũng như không: vô trách nhiệm với mình, với vợ nên ông . Câu thơ tự mỉa mai, chửi mình. Đấy là cách chuộc lỗi.
? Tấm lòng của một nhà Nho quả là đáng quý, đáng trân trọng. Từ hoàn cảnh riêng mà lên án xã hội chung.
III. Tổng kết:
1. Nội dung:
Bài thơ tập trung thể hiện được vẻ đẹp của bà Tú, một người phụ nữ đảm đang, vị tha và quan trọng hơn là sự thể hiện tấm lòng thương vợ, biết ơn vợ cũng như lời tự trách mình của TX.

2. Nghệ thuật:
- Đề tài về người vợ.
- Từ ngữ giản dị, giàu sức biểu cảm, vận dụng sáng tạo hình ảnh, ngôn ngữ vhdg (hình ảnh thân cò lặn lội, sử dụng nhiều thành ngữ), ngôn ngữ đời sống (cách nói khẩu ngữ, sử dụng tiếng chửi).

*CHú ý:
Vận dụng hình ảnh:
+ H/a con cò trong ca dao nhiều khi nói về thân phận người phụ
nữ lam lũ, vất vả, chịu thương, chịu khó: ?Con cò lặn lội?nỉ non?; thân phận người lao động với nhiều bất trắc, thua thiệt: ?Con cò mày đi ??.
+ H/a con cò trong bài Thương vợ nói về bà Tú có phần xót xa, tội nghiệp hơn h/a con cò trong ca dao. Con cò trong ca dao xuất hiện giữa cái rợn ngợp của k/gian, con cò trong thơ TX ở giữa sự rợn ngợp của cả k/gian và t/gian. Chỉ bằng 3 từ ?khi quãng vắng?, tác giả đã nói lên được cả t/gian, k/gian heo hút, chứa đầy lo âu, nguy hiểm. Cách thay con cò bằng thân cò càng nhấn mạnh nỗi vất vả, gian truân của bà Tú và gợi nỗi đau thân phận.
?Phân tích sự vận dụng sáng tạo hình ảnh, ngôn ngữ
văn học dân gian trong bài thơ trên?
- Vận dụng từ ngữ:
Thành ngữ 5 nắng 10 mưa được vận dụng sáng tạo: nắng, mưa chỉ sự vất vả, năm mười là số lượng phiếm chỉ, để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thành ngữ chéo, vừa nói lên sự vất vả gian truân, vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng, vì con của bà Tú.
Củng cố:
- Hình ảnh bà Tú: vất vả đảm đang, thương yêu, lặng lẽ hi sinh
vì chồng con.
- Tình cảm yêu thương, quý trọng của TX dành cho vợ. Thấy được nhân cách và tâm sự của nhà thơ
 
S

silvery21

Ca dao có câu : Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm sông hương mặc người.
Qủa thật đó là 1 lời khẳng định chắc chắn về 1 tấm lòng thuỷ chung son sắt, một tình cảm thương yêu mà người phụ nữ dành cho chồng mình. Trải qua nhiều năm chúng ta lại bắt gặp những tình cảm đó ở bà Tú trog bài "Thương Vợ " của Trần Tế Xương.Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ, âu đành phận.
Năm nắng mười mưa, dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không
TB: Có thể nói bài thương vợ là một bài thơ tâm sự thấm đượm nghĩa yêu thương. Mở đầu bài thơ Tú Xương đã khắc hoạ hình ảnh của vợ mìnhvới bao vất vả lo toan.
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
ở đây bà tú là một người vợ hiền thục, đảm đang và cũng chịu thương chịu khó. Được mang danh là bà tú nhưng bà lại phải "quanh năm buôn bán ở mom sông". Từ "quanh năm" như khẳng định một cái vòng xoáy của thời gian cũng là vòng quay trong công việc của bà. Công việc của bà cứ liên tiếp nối nhau cho đến hết ngày này qua ngày nọ. Nó không chỉi là cơ cực, vất vả , dải nắng dầm mưa mà đôi vai nhỏ bé của bà fải ghánh chịu,mà bà còn phải ghánh chịu bao mánh khoé của cuộc đời đen bạc. Rồi những khi thời tiết càng khắc nhiệt, địư thế càng khó khăn hiểm trở thì bà l;ại phải cố gắng nhiều hơn để "nuôi đủ năm con với một chồng"không chỉ nuôi đủ cho ông Tú mà còn fải "nuôi đủ năm con". Tác giả không nói vợ mình nuôi đủ sáu người mà lại nói "nuôi đủ năm con với một chồng"ở đây từ"với" đã làm tăng thêm sự đông đúc trong gia đình. Sự vất vả của bà lại càng tăng thêm:
Lặn lội thân cò khi quảng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Hình ảnh "thân cò khi quảng vắng" đã đêm đến cho người đọc nhiều liên tưởng xúc động qua ca dao
Con cò lặn lội bờ sông
Ghánh gạo nuôi chồng nước mắt nỉ non
Hoặc: con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Khi màn đêm buông xuống thì tất cả đã vào giấc ngủ say mê sau một ngày lao động mệt mỏi thì cò còn phải mò mẫm trong đêm tối để kiếm ăn. Phải chăng đây là hình ảnh của bà tú?Bằng cách sử dụng các từ láy"eo sèo", "lặn lội". Trần Tế Xương đã làm tăng thêm tính cam go, dai dẳng trong công việc của Vợ mình.
Trong hoàn cảnh ấy thì con người thường có ý nghĩa tiêu cực nhưng đối với bà tú thì bà không than thân, trách phận mà tự an ủi minh:
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Bà Tú lấy ông Tú xuất phát từ cái duyên, cái số, từ dây tơ hồng của ông tơ bà nguyệt. Chính vì lẽ đó dù"năm nắng mười mưa" để lo cho gia đìnhbà cũng" âu đành phận"và" chẳng dám quản công". Hơn nữa bà Tú sống với ông Tú đã có năm con, cùng nhau chia ngọt sẽ bùi, vượt qua bao sống gió nên bà hiểu rõ ông, do đó mà bà hôk hề than vãn. Phải chăng hiểu được vợ mà ông tú đã" thương vợ "hơn, muốn cùng vợ ghánh vác lo toan, nhưng:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.
Có lẽ đây là lời nói của tác giả, thương vợ, thương cho mình, Tú Xương đã mượn lời vợ mình để chữĩ cả một cái xã hội với bao thói đơìư ăn ở bạc, bất công vì những người có tài như ông mà trở thành người thừa trong xã hội, Ông còn chưĩư chính mình vì ông cho rằng ông là người chồng hờ hững, vô tích sự.
KB:Qua đây ta thấy bài "thương vợ" là một bài thơ hay của tác giả với phong cách trữ tình. Bài thơ miêu tả bà túi nhưng ẩn đằng sau đó là một người mẹ, người chị , người vợ và người phụ nữ Việt Nam xưa và nay.Đó là một con người phụ nữ dịu dàng, đảm đang, tháo vát. Họ chỉ biết làm việc để lo toan cho chồng cho con. Ngoài ra bài thơ hay còn ở cách thể hiện của tác giả mượn lời vợ để chữi mình . chữi cái xã hội ngày đó.
CHÚC CÁC BẠN LÀM TỐT, MÌNH VỪA ĐEN VỚI WEB NÀY NÊN CŨNG CHẲNG BIẾT ĐC GÌ CHỈ GIÚP CÁC BẠN ĐC CHỪNG ĐÓ THÔI. CÓ GÌ KHÔNG HAY CÁC BẠN THÔNG CẢM CHO MÌNH NHAZ
 
S

silvery21

Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ, âu đành phận.
Năm nắng mười mưa, dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không !

Đây là Bài Thương Vợ của Trần Tế Xương ( Tú Xương ) Nó là Tác Phẩm đầu tiên Dám Nói Ra Nỗi Lòng Cũa Người Chồng ...qua đó Cho Người đọc Thấy được Sự Vất Vả Khó Nhọc Của Người vợ Lo Bươn Chải Kiếm Tiền Nuôi Chồng Con...1 Người Vợ đảm đang , đồng Thời Châm Biếm Phê Phán.......
Khi đã có 5 mặt con rồi, Tú Xương mới có thơ sám hối này. Nhà thơ tự xót xa về cái vô tích sự của mình. Mải theo đòi bút nghiên thi cử và cũng mải ham nơi cao lâu, tửu điểm, tom chát với các chị em cho tới khi nhận ra "Học đã sôi cơm nhưng chưa chín", chẳng giúp gì cho vợ con lại còn phóng túng chơi bời, Tú Xương đã ngộ ra mà "thương vợ" vô vàn.

Ông Tú thương bà Tú vất vả lam lũ "lặn lội thân cò", "eo sèo mặt nước" và nhất là còn thương sự hy sinh, chịu đựng thiệt thòi về mặt tình cảm của bà Tú. Thương nhất, cũng là day dứt nhất trong lương tâm ông Tú dồn lại ở hai câu kết:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.

Tự coi mình cùng một duộc với thói đời, với các ông chồng "ăn ở bạc", "hờ hững" với vợ. Tú Xương thành thật thú nhận, thành thật ăn năn; nhà thơ thấy lỗi của mình rõ quá, lớn quá. Trách mình đến mức phải bật lên tiếng chửi, chứng tỏ nỗi thương vợ trào dâng, chân thành tuyệt đỉnh. Nhiều người khen, từ "hờ hững" là từ đắt nhất, hàm súc và giàu ẩn ý.
Tác giả

Tú Xương là bút danh của Trần Tế Xương. Học vị tú tài, lận đận mãi trong con đường khoa cử: “Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”, chỉ sống 37 năm, nhưng sự nghiệp thơ ca của ông thì bất tử. Quê ở làng Vị Xuyên, thành phố Nam Định. “Ăn chuối ngự, đọc thơ Xương” là câu nói tự hào của đồng bào quê ông.

Tú Xương để lại khoảng 150 bài thơ nôm, vài bài phú và văn tế. Có bài trào phúng. Có bài trữ tình. Có bài vừa trào phúng vừa trữ tình. Giọng thơ trào phúng của Tú Xương vô cùng cay độc, dữ dội mà xót xa. Ông là nhà thơ trào phúng bậc thầy trong nền văn học cận đại của dân tộc.

Chủ đề

Bài thơ ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người vợ, của người phụ nữ đảm đang chịu thương chịu khó vì chồng con.

Hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo

- Câu 1, 2 giới thiệu bà Tú là một người đàn bà giỏi buôn bán, tần tảo “quanh năm”, buôn bán kiếm sống ở “mom sông”, cảnh đầu chợ, bến đò, buôn thúng bán mẹt. Chẳng có cửa hàng cửa hiệu. Vốn liếng chẳng có là bao. Thế mà vẫn “Nuôi đủ năm con với một chồng?”. Chồng đậu tú tài, chẳng là quan cũng chẳng là cùng đinh nên phải “ăn lương vợ”. Một gia cảnh “Vợ quen dạ để cách năm đôi”. Các số từ: “năm” (con), “một” (chồng) quả là đông đúc. Bà Tú vẫn cứ “nuôi đủ”, nghĩa là ông Tú vẫn có “giày giôn anh dận, ô Tây anh cầm”,… Câu thứ 2 rất hóm hỉnh.

- Câu 3-4 mượn hình ảnh con cò trong ca dao, tạo thành “thân cò” - thân phận lam lũ vất vả, “lặn lội”. Cò thì kiếm ăn nơi đầu ghềnh, cuối bãi, bà Tú thì lặn lội… khi quãng vắng, nơi mom sông. Cảnh lên đò xuống bến, cảnh cãi vã, giành giật bán mua “eo sèo mặt nước buổi đò đông” để kiếm bát cơm manh áo cho chồng, con. Hình ảnh “thân cò” rất sáng tạo, vần thơ trở nên dân dã, bình dị. Hai cặp từ láy: “lặn lội” và “eo sèo” hô ứng, gợi tả một cuộc đời nhiều mồ hôi và nước mắt.

- Câu 5, 6, tác giả vận dụng rất hay thành ngữ: “Một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”. Ba tiếng đối ứng thượng, hạ: “âu đành phận”, “dám quản công” như một tiếng thở dài. Có đức hy sinh. Có sự cam chịu số phận. Có cả tấm lòng chịu đựng, lo toan vì nghĩa vụ người vợ, người mẹ trong gia đình. Tú Xương có tài dùng số từ tăng cấp (1-2-5-10) để nói lên đức hy sinh thầm lặng cao quý của bà Tú:

“Một duyên hai nợ/âu đành phận,

Năm nắng mười mưa/dám quản công”.

Tóm lại, bà Tú là hiện thân của cuộc đời vất vả lận đận, là hội tụ của bao đức tính tốt đẹp: tần tảo, gánh vác, đảm đang, nhẫn nại,… tất cả lo toan cho hạnh phúc chồng con. Nhà thơ bộc lộ lòng cảm ơn, nể trọng.

Nỗi niềm nhà thơ

- Câu 7 là một tiếng chửi, đúng là cách nói của Tú Xương vừa cay đắng vừa phẫn nộ: “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”. “Cái thói đời” đó là xã hội dở Tây dở ta, nửa phong kiến nửa thực dân: đạo lý suy đồi, lòng người đảo điên. Tú Xương tự trách mình là kẻ “ăn ở bạc” vì thi mãi chẳng đỗ, chẳng giúp được ích gì cho vợ con. Suốt đời vợ con phải khổ, như có bài thơ ông tự mỉa: “Vợ lăm le ở vú - Con tập tểnh đi bộ - Khách hỏi nhà ông đến - Nhà ông đã bán rồi”.

- Câu 8 thấm thía một nỗi đau chua xót. Chỉ có Tú Xương mới nói được rung động và xót xa thế: “Có chồng hờ hững cũng như không”. “Như không” gì? Một cách nói buông thõng, ngao ngán. Nỗi buồn tâm sự gắn liền với nỗi thế sự. Một nhà nho bất đắc chí!

Kết luận

Bài thơ có cái hay riêng. Hay từ nhan đề. Hay ở cách vận dụng ca dao, thành ngữ và tiếng chửi. Chất thơ mộc mạc, bình dị mà trữ tình đằm thắm. Trong khuôn phép một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật, từ thanh điệu, niêm đến phép đôi được thể hiện một cách chuẩn mực, tự nhiên, thanh thoát. Tác giả vừa tự trách mình vừa biểu lộ tình thương vợ, biết ơn vợ. Bà Tú là hình ảnh đẹp đẽ của người phụ nữ Việt Nam trong một gia đình đông con, nhiều khó khăn về kinh tế. Vì thế nhiều người cho rằng câu thơ “Nuôi đủ năm con với một chồng” là câu thơ hay nhất trong bài “Thương vợ”.
(Nguồn Hỏi đáp Yahoo)
 
D

duyduy4596

may ban co the giup minh lam bai nay dc ko minh can gap lam tuan sau la nop roi hi
đề cam nhan cua anh chi về đức tính cao đẹp cua bà tú
 
Top Bottom