Sử 11 Chuyên đề từ 1858- 1884

Mộ Dung Thu Vũ

Cựu Mod Sử
Thành viên
25 Tháng hai 2022
1,024
6
762
166
18
Lào Cai
Lào Cai
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

1. Nêu khái quát các mốc sự kiện chính trong quá trình xâm lược của Pháp ở Việt Nam từ năm 1858 đến năm 1884. Từ các sự kiện đó nêu quan điểm đánh giá của mình về trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để mất nước.
a. Các mốc sự kiện chính trong quá trình xâm lược của Pháp ở Việt Nam từ năm 1858 đến năm 1884:

- Chiều 31-8-1858 Liên quân Pháp - TBN kéo tới dàn trận tại cửa biển Đà Nẵng. Ban đầu kế hoạch của chúng là “Đánh nhanh thắng nhanh”.
- 1-9-1858, chúng cho người gửi tối hậu thư buộc trấn thử Trần Hoàng Hải trả lời trong vòng 2 giờ sau. Nhưng chưa hết thời gian thì chúng đã bắn đạn bác rèn các đồn Điện Hải, An Hải,…
- 1-9-1858: Pháp chiếm bán đảo Sơn Trà, mở màn cuộc xâm lược Việt Nam.
- 2-1859: Pháp kéo vào Gia Định
- 24-2-1861: Pháp tấn công Đại Đồn Chí Hòa, Đại đồn Chí Hòa thất thủ. Sau đó, Pháp chiếm Định Tường – Biên Hòa -Vĩnh Long
- 6-1862: Hiệp ước Nhâm Tuất, Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kì.
- 6-1867: Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây là Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên không tốn một viên đạn.
- 15/3/1874 triều đình Huế lại kí với Pháp hiệp ước Giáp Tuất.
- 20-11-1873: Pháp đánh thành Hà Nội lần I.
- 25-4-1882 : Pháp đánh thành Hà Nội lần II.
- 18-8-1883: Hạm đội Pháp đánh Thuận An.
Điều ước Hác - măng công nhận sự bảo hộ của Pháp.
- 1884: Hiệp ước Pa- tơ -nốt.
b. Trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để mất nước:

Có nhiều quan điểm trái chiều trong việc mất nước cuối thế kỉ XIX, có ý kiến nói mất nước là tất yếu, nhà Nguyễn không phải chịu trách nhiệm trong việc để mất nước. Cũng có ý kiến cho rằng mất nước là không tất yếu, nhà Nguyễn hoàn toàn phải chịu trách nhiệm trong việc này.
Thực ra, nguy cơ mất nước là có thể tránh khỏi, bởi:
- Xét trên thực tế chiến trường, không phải lúc nào ta cũng thua và có những cơ hội thắng hoàn toàn.
- Xét về khả năng: ta có thể tránh được mất nước nếu triều đình làm 3 việc:
+ Bỏ chính sách bảo thủ, lạc hậu, cải tổ bộ máy nhà nước, chấn chỉnh quân đội, tiến hành cải cách canh tân để tránh khỏi tình trạng “sức mòn lực kiệt”.
+ Điều đình những mối quan hệ xung đột giữa địa chủ và nông dân, nhà nước với nhân dân, có kết nhà nước với nhân dân.
+ Từ bỏ chính sách đối ngoại đóng cửa với các nước phương Tây.
Trong khi đó, triều đình nhà Nguyễn đã làm được gì trong hơn nửa thế kỉ trị vì?
- Tích cực:
+ Nhà Nguyễn có thi hành một số chính sách tiến bộ, điển hình là khai hoang.
+ Có tổ chức chiến đấu, phòng ngự ở giai đoạn đầu (Có ý thức trong việc tổ chức chống Pháp).
+ Có những cố gắng nhất định tránh nguy cơ mất nước hoàn toàn: hoạt động ngoại giao chuộc đất, cử người ra nước ngoài học kĩ thuật hi vọng cứu nước chống Pháp.
- Hạn chế:
+ Những chính sách của nhà Nguyễn trên các mặt bên cạnh yếu tố tích cực còn mang những mặt hạn chế, làm cho “sức mòn lực kiệt”, trở thành miếng mồi béo bở cho nước Pháp.
+ Trong quá tình kháng chiến, triều đình áp dụng các biện pháp bị động, thiếu linh hoạt sáng tạo, bỏ lỡ các cơ hội.
+ Triều đình không thống nhất, thậm chí lục đục mâu thuẫn chia rẽ, trong đó người đứng đầu là Tự Đức bạc nhược do dự không quyết đoán.
+ Triều đình rất mơ hồ ảo tưởng về âm mưu sâu xa của thực dân Pháp.
+ Trong các đối sách của mình, triều đình chỉ lo bảo vệ quyền lợi của dòng họ, không hợp tác với nhân dân.
+ Hi vọng vào sự giúp đỡ của nhà Thanh, ảo tưởng vào sự giúp đỡ từ bên ngoài.
+ Chính sách bao hàm nhiều yếu tố “cực đoan”.
Cứ như vậy, triều đình Nguyễn trượt dài trên những sai lầm, lần lượt các hiệp ước đầu hàng Pháp được kí kết, và để mất nước hoàn toàn vào năm 1884.

Tóm lại, trách nhiệm để mất nước vào tay Pháp cuối thế kỉ XIX không hoàn toàn là do nhà Nguyễn, nhưng nhà Nguyễn phải chịu một phần trách nhiệm không nhỏ.
2. Nêu nguyên nhân, nội dung của Hiệp ước 1862. Hãy đánh giá tính chất và hệ quả của bản hiệp ước này.

Hiệp ước Nhâm Tuất hay hòa ước Nhâm Tuất là hiệp ước bình đẳng được ký kết vào ngày 5 tháng 6 năm 1862 tại Sài Gòn. Hiệp ước ký kết giữa đại diện triều Nguyễn, đại diện của Pháp và đại diện của Tây Ban Nha. Hiệp ước này ký kết là sự mở đầu cho sự đô hộ của Pháp ở nước Việt Nam.
Nguyên nhân của Hiệp ước:

- Tâm lí sợ địch, không tin tưởng vào năng lực kháng chiến của nhân dân, không biết sử dụng sức mạnh của nhân dân để kháng chiến chống Pháp.
- Triều đình sợ mất ngai vàng, chỉ lo cho lợi ích của dòng họ mình mà hòa hoãn với Pháp ở Nam Kỳ để tập trung lực lượng đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân ở Bắc và Trung Kì (quân Lê Duy Phụng). Triều đình nhà Nguyễn vì quyền lợi giai cấp quên đi nền độc lập của dân tộc, đồng thời chỉ lo cho sự an nguy của gia tộc chứ không nghĩ tới hậu quả và không có lòng tin vào nhân dân.
Nội dung Hiệp ước:

Hòa ước Nhâm Tuất đã được ký kết với Pháp vào ngày 5/6/1862, trên một con tàu của Pháp đậu trên sông Sài Gòn. Đại diện triều đình Huế có 2 người: Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp. Đại diện quân Pháp là đô đốc Giơnizy và Pha-lăng-ca Gút-tie-rê. Nội dung tóm lược của hiệp ước như sau:
- Thừa nhận nhường cho Pháp 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ (gồm Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) và đảo Côn Lôn.
- Thành Vĩnh Long sẽ được trả lại cho triều đình Huế chừng nào triều đình triệt phá được các cuộc kháng Pháp diễn ra ở đây.
- Cho Pháp tự do buôn bán tại 3 cửa biển: Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên.
- Tàu Pháp kiểm soát hết tất cả sông chính và nhánh xung quanh Sài Gòn cũng như trên sông Cửu Long.
- Triều đình Huế phải trả chiến phí tương đương 4 triệu đô la cho Pháp và Tây Ban Nha.
Tính chất và hệ quả:

- Về mặt tính chất mà nói, về phía thực dân Pháp và Tây Ban Nha là một Hiệp ước ăn cướp. Bản Hiệp ước cũng vi phạm thô bạo chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kì, làm cơ sở hành quân tiến hành những bước xâm lược tiếp theo.
- Về phía triều đình Huế, đây là một Hiệp ước bán nước, cắt đất cầu hòa. Nước ta đã mất đi 1/2 vựa lúa lớn nhất cả nước. Đồng thời nó cũng mở cửa biển tạo điều kiện cho Pháp dễ dàng đưa quân sang tấn công ta nhanh hơn. Điều này để lại những di hại vô cùng to lớn trong những năm tháng tiếp theo.
- Bản Hiệp ước này cũng là sự phản bội của triều đình đối với phong trào kháng Pháp của nhân dân. Sau hiệp ước, ngọn cờ chống thực dân Pháp xâm lược đã chuyển hẳn sang tay nhân dân, tạo thành nội dung chủ yếu của lịch sử Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX.
- Với bản Hiệp ước Nhâm Tuất này, Việt Nam không chỉ mất đất, mất dân mà nhiều năm sau đó, những người lao động Việt Nam đã phải nai lưng làm việc và triều đình đã phải sử dụng rất nhiều biện pháp, thậm chí tiêu cực để có tiền trả chiến phí cho Pháp và Tây Ban Nha.
 Hiệp ước đã chứng tỏ sự nhu nhược, hèn nhát, không chủ động tấn công địch của triều đình nhà Nguyễn, bước đầu nhà Nguyễn đã đầu hàng Thực dân Pháp.

Hiệp ước Nhâm Tuất 1862 được xem như bản hiệp ước đầu hàng, văn kiện bán nước đầu tiên của triều đình nhà Nguyễn, cũng là cơ sở cho thực dân Pháp xâm lược lâu dài nước ta.
3. Nêu ngắn gọn quá trình Pháp mở rộng đánh chiếm ra Bắc Kỳ vào năm 1873. Giải thích tại sao phải tới năm 1873 thực dân Pháp mới đánh ra Bắc Kỳ? Mục tiêu chính là gì?
a. Quá trình Pháp mở rộng đánh chiếm ra Bắc Kỳ vào năm 1873

- Sau khi chiếm được 6 tỉnh Nam Kì (gồm ba tỉnh miền Đông: Gia Định, Định Tường, Biên Hòa và ba tỉnh miền Tây: Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên), thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ máy cai trị, biến nơi đây thành bàn đạp chuẩn bị mở rộng cuộc chiến tranh ra cả nước. Chúng phái gián điệp ra Bắc, điều tra tình hình bố phòng của ta, liên lạc với Giăng Đuy-puy, một lái buôn đang hoạt động ở vùng biển Trung Quốc - Việt Nam. Ngoài ra, Pháp còn lôi kéo một số tín đồ Công giáo lầm lạc, kích động họ nổi lên chống triều đình, hình thành đạo quân nội ứng cho cuộc xâm lược sắp đến.
- Tháng 11-1872, ỷ thế nhà Thanh, Đuy-puy tự tiện cho tàu theo sông Hồng lên Vân Nam buôn bán, dù chưa được phép của triều đình Huế. Hắn còn ngang ngược đòi được đóng quân trên bờ sông Hồng, có nhượng địa ở Hà Nội, được cấp than đá để đưa sang Vân Nam. Lính Pháp và thổ phỉ dưới trướng Đuy-puy còn cướp thuyền gạo của triều đình, bắt quan, lính và dân ta đem xuống tàu; khước từ lời mời tới thương thuyết của Tổng đốc Hà Nội Nguyễn Tri Phương. Chớp cơ hội triều Nguyễn nhờ giải quyết “vụ Đuy-puy” đang gây rối ở Hà Nội, thực dân Pháp ở Sài Gòn phái Đại úy Gác-ni-ê đưa quân ra Bắc.
- Ngày 11-10-1873 Pháp cử hạm đội gồm 2 tàu chiến và gần 100 dưới sự chỉ huy của Garnier ra Hà Nội hội quân với Đuypuy. Ngày 16-11-1873, Garnier liền tuyên bố mở cửa sông Hồng, áp dụng biểu thuế quan mới. Sáng 19-11, hắn gửi tối hậu thư cho Nguyễn Tri Phương yêu cầu đầu hàng, giải tán quân đội, nộp thanh… nhưng Nguyễn Tri Phương không trả lời thì mờ sáng 20-11-1873 quân Pháp nổ súng chiếm thành Hà Nội. Những ngày sau đó, chúng đưa quân đi chiếm các tỉnh thành ở đồng bằng Bắc Kì lần lượt bị chiếm: Hưng Yên (23-11), Phủ Lí (26-11), Hải Dương (3-12), Ninh Bình (5-12) và Nam Định (12-12).
- Do sự chống trả yếu ớt của triều đình nhà Nguyễn, chỉ trong vòng một tháng, nhiều tỉnh thành lớn nhỏ miền đồng bằng Bắc Kì đã bị quân Pháp chiếm đóng. Nhưng đi đến đâu thì chúng cũng bị nhân dân ta đánh trả quyết liệt của nhân dân địa phương (ở Nam Định nhiều văn thân sĩ phu như Nguyễn Mậu Kiến và hai con trai Nguyễn Hữu Cương, Nguyễn Hữu Bản đã tụ họp hàng nghìn nghĩa quân đánh giặc vùng Trực Ninh rồi kéo sang Nam Định xây dựng căn cứ chống Pháp. ở các nơi khác nghĩa quân cũng đánh cho địch những đòn nặng nề. Hoàng Tá Viêm, quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc).
- Ngày 21/12/1873, quân ta phục kích địch ở Cầu Giấy, Gácniê tử trận.
 Kế hoạch đánh chiếm Bắc Kì lần thứ nhất của thực dân Pháp thất bại.
b. Tới năm 1873 thực dân Pháp mới đánh ra Bắc Kỳ và mục tiêu chính

- Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ 1873 xâm chiếm Bắc Kì, mở rộng chiến tranh xâm lược ra cả nước.
- Sau khi đánh chiếm 6 tỉnh Nam Kì, quân Pháp phải đối mặt với nhiều cuộc khỏi nghĩa: Phan Trung Trực, Pham Liêm, Phan Tôn…  Pháp cần bình định lại các vùng đã chiếm đóng.
- 1870 chiến tranh Pháp – Phổ, Pháp – Ý bùng nổ.
- 1871 Công xã Paris của công nhân nổ ra.
 tình hình nước Pháp khó khăn, thường xuyên phải duy trì 1 lực lượng quân đội mạnh ở biên giới với nước Phổ
- Sang năm 1873, dù chưa phải là lức thuận lợi để tiến đánh Bắc Kì nhưng Pháp quyết định đánh ra Bắc kì vì nhận thấy quân Anh và quân Đức lúc đó đang có động thái xâm lược Bắc Kì.
- Theo một số ý kiến khác:
+ Pháp đã thám hiểm con đường Mekong vượt lên Vân Nam nhưng bị thất bại.
+ 1867 vào Tây Nam Trung Quốc qua sông hồng một tên bán vũ khí (Jeam Dupuy) cho Trung Quốc chống lại chính quyền Trung Quốc đã vận chuyển thành công vũ khí từ sông Hồng lên Trung Quốc và người này đã báo với Pháp
 từ đó Pháp có ý định chiếm Bắc kì biến Bắc kì trở thành bàn đạp, căn cứ quân sự.

+ Vì Bắc kì có nguồn khoáng sản, mỏ, tài nguyên phong phú Pháp cần dùng nhiên liệu để cung cấp cho các cuộc chiến và cũng do sự nhòm ngó của quân Anh, Đức, quân Mãn Thanh.
+ Pháp muốn dùng vũ lực để tấn công Bắc kì đẻ buộc nhà Nguyễn đồng ý nhượng nốt 3 tỉnh miền tây nam kì  đánh Bắc Kì để củng cố Nam Kì.
+ Mục tiêu cuối cùng là ngược sông Hồng lên vùng Vân Nam Trung Quốc, Trung Quốc là cái đích đến cuối cùng của Thực dân Pháp.

Đã lâu không đăng tài liệu cho các bạn, vì lý do cá nhân nên mình khá bận. Chính vì vậy, hôm nay mình tặng mọi người một chút tài liệu coi như lời xin lỗi gửi đến mọi người. Mong mọi người thông cảm!

Thân ái



=> Bạn có thể xem thêm kiến thức các môn tại topic nha:https://diendan.hocmai.vn/threads/t...c-mon-danh-cho-ban-hoan-toan-mien-phi.827998/
 
Top Bottom